intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài 4: Hình thái, cấu tạo giải phẩu và chức năng của thân cây

Chia sẻ: Đính Hà | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

391
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhằm giúp các bạn nhận biết các thành phần của thân và các loại thân, cấu tạo cơ bản của một thân, hiểu được sự thích nghi của thân trong việc thực hiện các chức năng, mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài 4 "Hình thái, cấu tạo giải phẩu và chức năng của thân cây" dưới đây. Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài 4: Hình thái, cấu tạo giải phẩu và chức năng của thân cây

  1.   BÀI 4:     HÌNH THÁI, CẤU TẠO GIẢI PHẨU VÀ CHỨC NĂNG CỦA THÂN CÂY. I. MỤC ĐÍCH ­ YÊU CẦU. 1. Nhận biết các thành phần của thân và các loại thân. 2. Nắm được cấu tạo cơ bản của một thân. 3. Hiểu được sự thích nghi của thân trong việc thực hiện  các chức năng. II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT. Thân là cơ  quan trục của cây, mang cành và lá. Có chức năng lưu thông 2 dòng dẫn  truyền và nâng đỡ giữ vững các phần bên trên của cây. Ngoài ra thân cũng có thể phân hoá   thực hiện một số chức năng khác như: dự trữ, quang hợp. 1. Thành phần của thân.  ­ Thân chính: mang chồi ngọn, chồi nách, chồi phụ, mấu và gióng… ­ Cành: phát triển từ chồi nách của thân, là cành bên hay cành cấp một. Từ đây sẽ  cho  cành cấp 2,3… 2. Các dạng thân. Dựa vào thời gian sống của cây, kiểu phân nhánh của thân và tỷ lệ tương đối giữa thân  với cành mà người ta phân biệt các dạng thân sau đây: ­ Thân gỗ: là thân của những cây sống lâu năm. Thân chính phát triển mạnh và chỉ phân  cành từ một chiều cao nhất định so với  mặt đất.  Tuỳ  theo chiều cao của thân, các cây thân gỗ  dược chia làm 3 loại: cây gỗ  lớn (cao   18m trở lên), ví dụ: cây chò chỉ, chò nâu…; cây gỗ vừa (cao 12­18m): dẻ, ngọc lan…;    cây  gỗ nhỏ (cao từ 6­12m): bưởi, ổi… ­ Thân bụi: thân dạng gỗ  sống lâu năm nhưng thân chính không phát triển, các nhánh   xuất phát và phân chia ngay từ  gốc thân chính. Chiều cao của cây bụi không quá 4m. Ví  dụ: sim, mua… ­ Thân nửa bụi: cây sống nhiều năm, có thân hoá gỗ một phần ở gốc, phần trên không  hoá gỗ và chết đi vào cuối thời kỳ sinh dưỡng. Từ phần gốc sẽ hình thành nên những chồi   mới và quá trình đó được lặp lại hằng năm. Ví dụ: cây cỏ lào (Eupatorium odoratum), cây  xương rồng… ­ Thân cỏ: phần thân trên mặt đất chết vào cuối thời kỳ  quả  chín, thân không lớn  được. Thân có nhiều loại: một năm, hai năm, nhiều năm.Cỏ  một năm đời sống sau khi   quả, hạt chín trong một mùa (ví dụ: lúa, xà lách); cỏ hai năm là loại cây trong năm đầu chỉ  có lá mọc gần gốc rễ, còn thân mang hoa sẽ xuất hiện và năm thứ hai (ví dụ: cà rốt). 3.Các loại thân trong không gian. ­  Thân đứng: thân mọc thẳng đứng và tạo với gốc một góc vuông. Hầu hết các cây   thân gỗ và một phần cây thân cỏ thuộc loại này. ­ Thân bò: cây không đủ  cứng rắn để  đứng thẳng lên được, nên phải bò sát mặt đất.  Tại các mấu chạm đất của thân thường mọc ra rễ  phụ  để  lấy thêm nguyên liệu cho lá   quang hợp. Nhờ thế mà cây có thể phát triển trên một diện tích rộng (ví dụ: rau má, khoai   lang...). Trong trồng trọt, người ta thường sử  dụng các đoạn thân bò để  gây giống trong  sinh sản sinh dưỡng. -1/10-
  2. ­ Thân leo: cây không đủ khả năng mọc đứng một mình và phải dựa vào các cây khác  hoặc vào giàn để  vươn cao. Thân leo phần lớn thuộc dạng cỏ, như  bìm bịp, bầu bí,   mướp... Có nhiều cách leo khác nhau:  + Leo nhờ  thân quấn: cây vươn lên cao bằng cách quấn quanh giàn hoặc cây khác  (bìm bịp, mồng tơi, củ từ, củ nâu...).  + Leo nhờ tua cuốn: tua cuốn là những sợi mảnh, xoắn  ốc của ngọn, do cành hoặc  lá biến đổi thành và có khả năng quấn chặt vào giàn để đưa cây vươn lên: tua cuốn ở nho,   bầu, bí, mướp do cành biến đổi, còn tua cuốn ở đậu hà lan do lá biến đổi.  + Leo nhờ gai móc: móc này là do lá biến đổi để móc vào cây khác, ví dụ: song, mây.  + Leo nhờ rễ bám: rễ bám mọc từ các mấu thân, như trầu không. 4. Biến dạng của thân. ­ Gai: mọc ở nách lá, là những cành biến đổi thành, làm nhiệm vụ bảo vệ thân, có loại   gai đơn như chanh, bưởi... có loại gai phân nhánh như bồ kết  (Gleditschia australis) (chú ý  đừng lẫn lộn với gai do biểu bì biến đổi thành, ví dụ ở cây hoa hồng). ­ Cành hình lá: một số loài cây sống  ở nơi thiếu nước có lá tiêu giảm, nên thân hoặc   cành chứa diệp lục và có dạng lá, làm nhiệm vụ  quang hợp. Lá chính thức chỉ  là những  vảy nhỏ, sớm rụng.  Ví dụ: Cây quỳnh (Epiphyllum oxypetalum). ­ Giò thân: là phần thân dày lên, chồi ngọn bị tiêu giảm, chỉ mang một hoặc hai lá. Từ  chồi nách sẽ phát triển thành chồi mới. Đây là kiểu thân phổ  biến ở nhiều loài phong lan   (h.69). Một số thân leo thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae) như củ cải, củ từ cũng có những  giò trên thân, trong các giò này chứa tinh bột giống như củ ở dưới đất. ­ Thân mọng nước: một số loài cây sống ở nơi khô hạn, thân thường dày lên rất nhiều   do mô nước phát triển, thân có diệp lục làm nhiệm vụ quang hợp thay cho các lá tiêu giảm  hoặc sớm   rụng, ví dụ: thân  xương rồng ta  (Euphorbia antiquorum), xương rồng khế  (Cereus peruvianus). ­ Thân hành: hình quả lê, hình cầu dẹt, hình trứng, gồm các bẹ lá (phần xoè rộng của  gốc lá) xếp úp lên nhau, chứa chất dự trữ. Các bẹ  đó gọi là vảy hành. Nằm giữa các vảy   đó là chồi ngọn, nách các vảy có thể  có chồi nách, từ  đó có thể  phát triển các hành con.  Thân chính ở đây thường rất ngắn, hình nón hay hình đĩa, mang nhiều rễ phụ ở phía dưới   (h.70). Phần lớn các loại cây gia vị (hành, tỏi, hẹ) và một số  cây cảnh (như  lay  ơn, thuỷ  tiên…) có dạng thân hành, người ta có thể nhân giống bằng thân hành. ­  Thân củ: Là loại thân hoặc cành phồng lên, tích chứa chất dự  trữ. Thân củ  có thể  hình thành trên mặt đất và có màu lục (như  củ su hào), hoặc hình thành ở  dưới đất (như  củ  khoai tây). Mỗi củ  khoai tây do một cành biến đổi, khi nằm trong đất nó không chứa  diệp lục, nhưng để ra ngoài sáng nó lại có màu lục. Thân củ ở trong đất khác với rễ củ ở chỗ nó không có chóp rễ và lông hút, rễ bên, trên  thân có những mắt mang các sẹo lá, trong nách các sẹo đó có chồi nách (h.71). ­ Thân rễ: Là loại thân ngầm ở dưới đất mà bề ngoài trông giống như rễ, chứa chất dự  trữ. Thân rễ  khác với rễ  ở chỗ không có chóp rễ  nhưng có những lá mỏng hình vảy màu  nâu hoặc màu nhạt, trong nách các vảy đó có các chồi. Hình dạng thân rễ  cũng rất khác   nhau: Có loại thân rễ có lóng ngắn, nạc, như củ rong, củ gừng, củ riềng, hoặc gồm  nhiều  lóng kéo dài như ở cỏ tranh, cỏ gừng… (h.72). -2/10-
  3. Một số loài cây sống trong nước, thân cũng có biến đổi: ví dụ như cây bèo tấm thì thân   chỉ  là một phiến dẹp màu lục, không có lá, rễ  phát triển rất yếu; hoặc cây bèo cám   (Wolffia arhiza) thân chỉ là một khối hình trứng bé tí xíu và không có rễ. 5. Cấu tạo giải phẫu của thân. 5.1. Cấu tạo sơ cấp của thân. Cấu tạo sơ cấp thân cây Hai lá mầm gồm 3 phần: Biểu bì, Vỏ sơ cấp và Trụ trung tâm   hay là trung trụ. ­ Biểu bì: Mô bì sơ cấp ở thân thường gồm một lớp tế bào có các chất vô cơ  bao phủ  như: cutin, sáp, silic... Các tế bào biểu bì chứa nội chất trong suốt, không có diệp lục và ít  khi có khí khổng. ­ Vỏ sơ cấp: gồm một số lớp tế bào mô mềm có màng cellulose mỏng, xếp đều nhau.   Lớp ngoài của những tế bào này có khi có chứa diệp lục. Bên ngoài của vỏ thường có mô   dày xếp thành đám hay vòng. Đôi khi trong vỏ  sơ cấp có cả  mô cứng và tế  bào đá, trong  phần này có thể  có những tế  bào vết lá. Trong cùng của vỏ  sơ  cấp là lớp nội bì, là giới   hạn phân biệt giữa vỏ sơ cấp và trung trụ. Nội bì của thân khó phân biệt hơn ở rễ, có khi   có chứa tinh bột gọi là vòng tinh bột. Vòng tinh bột tương  ứng với vị trí của nội bì, biểu hiện chủ  yếu  ở thân cây non. Nó  cũng gồm những tế bào mô mềm xếp thành vòng, chạy theo chiều dài của thân và có chứa   nhiều hạt tinh bột. ­ Trung trụ: trung trụ gồm:             � Trụ  bì (vỏ  trụ) là lớp ngoài cùng của trung trụ, phân biệt vỏ  sơ  cấp với trung  trụ. Trụ  bì phân biệt với nội bì  ở  chổ  vách hướng phóng xạ  của chúng không trùng với   vách theo hướng này của nội bì. Vỏ trụ ở thân gồm một số lớp tế bào mô mềm.            Nếu vỏ  trụ gồm những tế bào mô mềm, vỏ  thân không có vòng tinh bột và nội bì  thì vỏ sơ cấp và trung trụ không phân biệt được sự chuyển tiếp rõ ràng. Lúc đó thân hình   như có biểu bì, mô mềm và trong đó có mô dẫn truyền.             � Trụ trung tâm: Trong trụ trung tâm, mô dẫn sắp đặt khác nhau ở Một lá mầm và   Hai lá mầm. Ở trung trụ của thực vật Một lá mầm (khó phân biệt vỏ và trụ) các bó mạch   chồng chất kín riêng biệt thường không theo một thứ  tự nào cả. Những bó mạch kín này  gồm có libe nằm  ở  phía ngoài và gỗ  nằm  ở  phía trong.  Ở  những thực vật Hai lá mầm  trong cấu tạo sơ cấp có thể  phân biệt hai kiểu cấu tạo. Cấu tạo có bó mạch và cấu tạo   không có bó mạch.             Trong kiểu cấu tạo thứ nhất, trung trụ gồm những bó mạch chồng chất hở  riêng   biệt cũng gồm libe  ở ngoài và gỗ   ở  trong, giữa là tầng phát sinh trụ.  Ở  đây các bó mạch   được xếp thành một có khi hai vòng.             Tuỷ là phần giữa của trung trụ, không có mô dẫn ở trong đó mà nó chỉ gồm những  tế bào mô mềm lớn. Màng bằng cellulose, cũng có khi màng hoá gỗ. Những tế bào của tuỷ  sau một thời gian có thể chết đi và bị phá huỷ. Lúc đó ở giữa thân xuất hiện một khoang   rỗng.             Tế bào mô mềm ở giữa bó mạch tạo thành các tia tuỷ sơ cấp. 5.2. Cấu tạo thứ cấp của thân. Những biến đổi trong cấu tạo thứ cấp của thân cây Hai lá mầm không có gì khác là sự  -3/10-
  4. hoạt động của hai tầng phát sinh thứ  cấp: tầng phát sinh trong trung trụ  là tượng tầng  (tầng phát sinh trụ) và tầng phát sinh ngoài của phần vỏ  gọi là tầng phát sinh bần lục bì  (tầng phát sinh vỏ). Hoạt động của tượng tầng có thể có cấu tạo liên tục không có bó mạch, cũng có thể  cho cấu tạo có bó mạch. Trong cấu tạo không có bó mạch thì ngay trong giai đoạn non,   trong trung trụ  cũng không phát triển bó mạch, từ  đó sẽ  cho một vòng gỗ  đầy đủ   ở  phía  trong và một vòng libe  ở  phía ngoài, giữa chúng có một lớp tượng tầng. Hoạt động của   tượng tầng này về sau sẽ làm cho cây tăng trưởng về chiều dày của gỗ (phát triển ly tâm)   và của libe (phát triển hướng tâm). Gỗ  luôn luôn được tạo thành nhiều hơn libe. Ngoài   những yếu tố của libe và của gỗ, ở thân cây còn phát triển tia mô mềm. Đó là những tê bào   mô mềm có khoang hẹp xuyên gỗ  và libe, chức phận của chúng là dẫn truyền các chất   theo hướng xuyên tâm. Màng của chúng trong phần gỗ thì hoá gỗ và ở phần libe thì bằng   cellulose, hoạt động hằng năm của tượng tầng sẽ cho ra những lớp gỗ khác nhau: gỗ mùa   Xuân và gỗ mùa Hè, các lớp gỗ này rất rõ và làm thành từng vòng mà người ta gọi là vòng   dày hàng năm. Ở phần vỏ, trong cấu tạo thứ cấp, có sự hoạt động của tầng phát sinh vỏ sẽ phát triển  thành chu bì. Chu bì gồm một số lớp bần, tầng sinh bần và tế bào lục bì. Về sau ở một số  cây gỗ, tập hợp của nhiều lớp vỏ chết hình thành nên thụ bì. III. HƯỚNG DẪN VÀ THỰC HÀNH. 1.Hình thái ngoài của thân. Quan sát các loại thân theo vị trí trong không gian: Thân thẳng, thân nằm, thân leo. Theo đặc điểm cấu tạo và sinh trưởng: Thân gỗ, thân bụi, thân leo và thân cỏ  … ­ Vật liệu:                Thân Rau má ­ Thân bò.             Thân Su hào ­ Thân củ.             Thân Phong lan ­ Thân giò.             Thân Bí ngô (Cucurbita pepo) ­ Thân leo.             Thân Cỏ tranh (Imperata cylindrical) ­ Thân rễ.               Thân Trầu không ­ Thân leo. -4/10-
  5.             Thân dừa (Cocos nucifera) ­ Thân cột.             Thân Khoai lang (Ipomoea batatas) ­ Thân bò.     Hình 23a. Một vài kiểu thân. 1. Thân rễ (cỏ tranh); 2. Thân cột (dừa); 3. Thân bò (rau má);  4. Thân củ (su hào); 5. Thân leo (trầu không); 6. Thân giò (phong lan). -5/10-
  6. Hình 23b. Một vài loại thân. 1. Một phần của thân với lá (m: mấu; l: lóng); 2. Thân có cánh; 3. Thân bò; 4. Thân leo  (thân quấn); 5. Thân leo (tua cuốn); 6. Thân rễ ; 7. Thân củ; 8. Thân hành;  9. Thân hành cắt dọc. 2. Cấu tạo giải phẫu của thân cây. 2.1. Cấu tạo sơ cấp của thân. -6/10-
  7. ­Vât liệu: Thân cây cỏ hôi (Ageratum conizoides). ­Hoá chất: Dùng để nhuộm kép. ­Làm lát cắt ngang thân cỏ hôi, nhuộm kép. ­ Quan sát tổng quát và chi tiết nhận thấy từ ngoài vào có: + Biểu bì có cutin che phủ. + Mô dày góc. + Mô mềm vỏ chứa diệp lục. + Nội bì. + Trụ bì. Các bó mạch gồm: + Libe ngoài. + Tầng phát sinh libe gỗ. + Gỗ sơ cấp: Các mạch ngoài lớn, mạch trong nhỏ. + Libe trong. + Mô mềm ruột: có các tia tủy nối liền miền tủy với miền vỏ.     Hình 24b. Cấu tạo sơ cấp thân cây cỏ hôi. 2.2. Cấu tạo thứ cấp của thân cây. ­ Vật liệu: Thân cây Dâm bụt (Hibicus rosa­sinensis). ­ Hoá chất: Dùng để nhuộm kép. Chọn cành Dâm bụt trưởng thành, làm lát cắt ngang, nhuộm kép. -7/10-
  8. Hình 25a. Cấu tạo thứ cấp của thân cây Dâm bụt.   Quan sát tổng quát và chi tiết phân biệt: ­ Bì khổng: nằm rải rác phía ngoài thân. ­ Chu bì: nhận biết tầng phát sinh bần, các tế bào bần và tế bào lục bì. ­ Các yếu tố mạch làm thành vòng liên tục có những tia mô mềm gỗ băng ngang. ­ Libe cứng nhiều lớp bắt màu xanh. ­ Libe mềm nhiều lớp xen kẽ với các lớp libe cứng. ­ Tầng phát sinh libe gỗ. ­ Gỗ thứ cấp. ­ Gỗ sơ cấp: nằm gần mô mềm ruột ở trung tâm. -8/10-
  9. Hình 25b. Cấu tạo thứ cấp của thân cây Dâm bụt. Hình 25c. Cấu tạo thứ cấp của thân cây Dâm bụt. A.Sơ đồ cấu tạo tổng quát (1/2 thân dâm bụt); B. Cấu tạo chi tiết một phần của thân; 1. lỗ vỏ; 2. Bần; 3. Mô mềm vỏ; 4. Mô dày; 5. Libe cứng; 6. Libe mềm; 7. Tầng phát sinh  trụ; 8. Gỗ; 9. Tia ruột; 10. Mô mềm ruột.  IV. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU. 1. Những cấu trúc đặc trưng của thân cỏ cây Hai lá mầm? 2. So sánh cấu tạo sơ cấp và cấu tạo thứ cấp? 3. Phân biệt 2 tầng phát sinh vỏ và trụ ở cấu tạo thân thứ cấp?                                     -9/10-
  10.                       -10/10-
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2