intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng chọn và tạo giống vật nuôi - Lê Thị Lan Phương

Chia sẻ: Hồ Huyền Trang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

389
lượt xem
100
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong chương trình đào tạo đại học của các ngành liên quan đến sinh học, Học phần Sinh lý học người và động vật, được xem là học phần cơ sở của nhiều ngành đào tạo như: Chăn nuôi, Thú y, Động vật học, Sinh học, Sư phạm kỹ thuật Nông lâm, Cử nhân điều dưỡng, Bác sỹ đa khoa, …

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng chọn và tạo giống vật nuôi - Lê Thị Lan Phương

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ KHOA CHĂN NUÔI - THÚ Y ------------------ BÀI GIẢNG CHỌN VÀ TẠO GIỐNG VẬT NUÔI Lê Thị Lan Phương Bộ môn Di truyền - Giống HUẾ - 2006
  2. LỜI NÓI ĐẦU Trong những thập niên vừa qua, sự phát triển nhanh chóng của sinh học phân tử và công nghệ sinh học đã kéo theo những tiến bộ đáng kể của các ngành khoa học liên quan đến sinh học phân tử, công nghệ sinh học, trong đó phải kể đến các ngành nông lâm- sinh- y dược. Trong chương trình đào tạo đại học của các ngành liên quan đến sinh học, Học phần Sinh lý học người và động vật, được xem là học phần cơ sở của nhiều ngành đào tạo như: Chăn nuôi, Thú y, Động vật học, Sinh học, Sư phạm kỹ thuật Nông lâm, Cử nhân điều dưỡng, Bác sỹ đa khoa, Chế biến và bảo quản nông sản, Kinh tế nông nghiệp, Quản tri kinh doanh nông nghiệp, Công nghệ sinh học, Sinh thái học, Tâm lý học v.v…Kiến thức về sinh lý học người và động vật được xem là cầu nối trước khi đi vào các lĩnh vực chuyên môn về cơ thể người và động vật nuôi. Vì vậy, việc biên soạn Giáo trình Sinh lý học người và động vật, để cập nhật các kiến thức khoa học chung về sinh lý, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu của khung chương trình đào tạo đại học vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là việc làm cần thiết. Trong quá trình biên soạn giáo trình này, tập thể tác giả: PGS.TS Nguyễn Đức Hưng, TS Đàm Văn Tiện (Trường đại học Nông Lâm); TS Hoàng khánh Hằng (Trường đại học Y Khoa); ThS Nguyễn Đức Quang, ThS Nguyễn Thị Hải Yến (Trường đại học Khoa học); TS Phan Thị Sang (Trường đại học Sư phạm) thuộc Đại học Huế, dưới sự chủ trì của PGS.TS Nguyễn Đức Hưng đã bám sát khung chương trình đào tạo mới, cập nhật các kiến thức từ nhiều nguồn tài liệu trong và ngoài nước nhằm thể hiện được kiến thức cơ bản, hiện đại và thực tiễn. Ý kiến đóng góp của các chuyên gia tư vấn GS.TSKH Lê Doãn Diên, GS.TS Đỗ Ngọc Liên, PGS.TS Lê Đức Ngọc đã giúp chúng tôi đạt được những yêu cầu nêu trên. Đây là giáo trình chính thức, dùng chung cho nhiều ngành đào tạo tại Đại học Huế và là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, các ngành nông lâm ngư - sinh học -Y dược, cũng như cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực liên quan. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi hy vọng nhận được những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, các đọc giả để lần tái bản sau giáo trình được hoàn thiện hơn. THAY MẶT NHÓM TÁC GIẢ Chủ biên PGS.TS NGUYỄN ĐỨC HƯNG
  3. MỤC LỤC Trang Chương I: Lịch sử hình thành chọn giống và nhân giống - Công tác giống vật nuôi ở nước ta 1 1.1. Lịch sử hình thành môn giống gia súc 1 1.2. Công tác giống gia súc ở nước ta 5 Chương II: Nguồn gốc, thuần hoá và thích nghi của vật nuôi 9 2.1. Nguồn gốc của vật nuôi 9 2.2. Sự thuần hoá vật nuôi 14 2.3. Sự thích nghi của vật nuôi 20 2.4. Một số giống vật nuôi ở nước ta 25 Chương III: Ngoại hình và thể chất của vật nuôi 68 3.1. Khái niệm về ngoại hình 68 3.2. Ðặc điểm ngoại hình của vật nuôi theo các hướng sản xuất 69 3.3. Thể chất của vật nuôi vật nuôi 73 3.4. Thể trạng 82 Chương IV: Sinh trưởng và phát dục của vật nuôi 84 4.1. Khái niệm về sinh trưởng phát dục 84 4.2. Phương pháp nghiên cứu sinh trưởng và phát dục 88 4.3. Một số qui luật sinh trưởng và phát dục của vật nuôi 91 4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục 100 Chương V: Sức sản xuất của vật nuôi 103 5.1. Ý nghĩa của việc đánh giá sức sản xuất của vật nuôi 103 5.2. Sức sinh sản của vật nuôi 103 5.3. Sức sản xuất sữa 105 5.4. Sức sản xuất trứng 109 5.5. Sức sản xuất thịt 111 Chương VI: Quan hệ họ hàng và các tham số di truyền 115 6.1. Di truyền tính trạng 115 6.2. Sự biến thiên/sai khác của các tính trạng số lượng 116 6.3. Mô hình di truyền cơ bản của tính trạng đa gen 119 6.4. Quan hệ di truyền giữa các cá thể 121 6.5. Một số tham số di truyền 132 Chương VII: Chọn lọc giống vật nuôi 160 7.1. Cơ sở của chọn lọc 160 7.2. Giá trị giống 173 7.3. Các phương pháp chọn lọc 181
  4. Chương VIII: Nhân giống vật nuôi 200 8.1. Giao phối cận huyết 200 8.2. Ưu thế lai 211 8.3. Các phương pháp nhân giống vật nuôi 223 Chương IX: Tổ chức công tác giống vật nuôi 242 9.1. Mục đích yêu cầu 242 9.2. Định hướng phát triển chăn nuôi đến năm 2010 242 9.3. Chương trình, biện pháp công tác giống 245 9.4. Các biện pháp tổ chức quản lý 251 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 254
  5. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 1. Đặng Vũ Bình (2002). Di truyền số lượng và chọn giống vật nuôi. Nhà xuất bản Nông nghiệp,Hà Nội. 2. Đinh Văn Cái, Nguyễn Quốc Bạc, Bùi Thế Đức, Nguyễn Hoài Phương, Lê Hà Châu, Nguyễn Văn Liên (1997). Nuôi bò sữa. Nhà xuất bản Nông nghiệp, TP. Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Kim Đường, Trần Đình Miên (1992). Chọn lọc và nhân giống gia súc. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Võ Trọng Hốt, Trần Đình Miên, Võ Văn Sự, Võ Đình Tôn, Nguyễn Khắc Tích, Đinh Thị Nông, 2000, Giáo trình chăn nuôi lợn, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 5. Hội đồng Khoa học Công nghệ, Ban động vật và thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, (1997-1999-2001-2003) Báo cáo Khoa học Viện Chăn nuôi, Hà Nội. 6. Hội chăn nuôi Việt Nam (2002). Cẩm nang các giống vật nuôi. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Ðặng Hữu Lanh, Trần Ðình Miên, Trần Ðình Trọng (1999). Cơ sở di truyền chọn giống vật nuôi. Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội 8. Trần Ðình Miên, Nguyễn Hải Quân, Vũ Kính Trực (1975). Chọn giống và nhân giống gia súc. Nhà xuất bản nông thôn, Hà Nội 9. Nguyễn Hải Quân, Đặng Vũ Bình, Đinh Văn Chỉnh, Ngô Thị Đoan Trinh (1995). Chọn và nhân giống gia súc. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 10. Viện Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004). At lát các giống gia súc gia cầm Việt Nam. Hà Nội 11. Cunningham E.P,(1969) Animal Breeding theory. Institute of Animal Breeding, Oslo, . 12. Hammond K. Graser H.U, Mc Donald.C.A, (1992). Animal Breeding. The Modern Approach. University of Sydney, 13. Kinghorn B, (1994). Quantitative Genetics Manual. University of New England. 14. Richard, M.Bourdon, (1996), Understanding Animal Breeding.
  6.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi Chương 1 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH GIỐNG GIA SÚC VÀ CÔNG TÁC GIỐNG Ở NƯỚC TA Số tiết: 3 Tiết Mục tiêu: - Cung cấp một số thông tin về lịch sử hình thành các giống vật nuôi hiện nay và công tác giống của nước ta. - Giúp Sinh viên bước đầu làm quen với môn học này. 1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH GIỐNG GIA SÚC Giống gia súc và các loại cây trồng là những phương tiện của sản xuất nông nghiệp. Vì vậy sự hình thành, tạo nên và phát triển của giống liên quan với lực lượng, quan hệ sản xuất trong xã hội. Giống gia súc hình thành và được hoàn thiện dần theo sự phát triển của xã hội loài người cùng với những trí thức, những kinh nghiệm sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội, với những tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật của nó. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sống chủ yếu bằng cách hái lượm hoa quả và săn bắn, có khi không kiếm đủ thú rừng để ăn hằng ngày cho nên cũng không có hoặc có rất ít súc vật thừa để nuôi giữ lại. Đến xã hội Nô lệ, công cụ sản xuất khá hơn, trình độ sản xuất tuy còn thấp nhưng đã có phần phát triển cho nên con người bắt đầu tổ chức giữ lại số súc vật còn thừa và thuần hoá số súc vật dự trữ. Ban đầu người ta tiến hành thuần hoá chó giúp người trong việc săn bắn. Đến khi thú vật dự trữ tăng dần thì con người cũng nghĩ đến việc thuần hoá để giữ lại, cho sinh sản để nhân số lượng nhanh hơn. Cơ sở vật chất của người chăn nuôi cũng hình thành từ đó. Dần dần trong quá trình thuần hoá nuôi dưỡng kinh nghiệm, tích luỹ lại, con người có kỹ thuật nhiều hơn, lúc đó mới bắt đầu chọn lọc có ý thức, chọn lọc theo tiêu chuẩn. Con ngựa chính là đối tượng được tiến hành chọn lọc kỹ trước tiên, do các nhu cầu về chinh phạt, về vận chuyển... Đó cũng là nền móng của công tác chọn giống gia súc. Người Hy Lạp và La Mã thời xưa đã có ngành chăn nuôi tương đối phát triển. Trong các bản trường ca của Horace, Virgile, trong các tuyển tập của Varôn, Côlumen, 2000 năm trước công nguyên đã thấy có các điều hướng dẫn chọn giống. Ngay thời ấy người ta cũng đã chú ý rất nhiều đến chất lượng đời bố mẹ và hiểu rằng các đặc tính đều có thể di truyền cho đời con. Người Arập khi tạo giống ngựa Arập rất chú trọng đến nguồn gốc của con vật từ đời bố mẹ và chất lượng đời con do nó sinh ra. Ở Trung Hoa, vào thời Xuân thu chiến quốc, Bá-lạc cũng đã viết tập sách tổng kết cách giám định ngựa tên là Tượng mã kinh. Riêng về sách tạo giống thì phải xem Kicun là người đầu tiên đã viết nên vào năm 1350 trước công nguyên. Qua chế độ Phong kiến, công cụ sản xuất dồi dào hơn, năng suất lao động được nâng cao, xuất hiện nhiều dụng cụ đồ đồng, đồ sắt hơn. Do các tập đoàn phong kiến vẫn tiếp tục chinh phạt lẫn nhau và nhu cầu về đời sống cũng tăng lên. Dẫn đến việc chăn nuôi ngựa, cừu, bò, lợn gà mở rộng quy mô. Việc chọn lọc gia súc bắt đầu có hệ thống. Việc nuôi một số gia súc để mua vui, 1
  7.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi buôn bán như gà chọi, gà đuôi dài, cá vàng, cũng được phát triển. Do đó kinh nghiệm chăn nuôi, nhận xét về các hiện tượng sinh vật phong phú hơn. Tác động có ý thức, có kế hoạch của con người đối với gia súc và cây trồng như thế là bắt đầu từ thời xa xưa, kết hợp về nhu cầu của đời sống và cũng dần dần được hoàn chỉnh qua quá trình thuần hoá và nuôi dưỡng. Tuy nhiên do quan hệ sản xuất Phong Kiến, tính chất kinh tế tự cấp tự túc cho nên ngành chăn nuôi cũng không được phát triển mạnh, công tác giống do đó cũng hạn chế. Bước sang chế độ Tư Bản, với những phát minh khoa học về cơ điện, lý hoá, sinh lý, giải phẩu cùng với những thuyết sinh vật như thuyết Đác-uyn, thuyết Mendel...nền khoa học nông nghiệp nói chung, lúc này có những bước nhảy vọt mới. Công nghiệp tiến nhanh cung cấp cho Nông nghiệp được nhiều thiết bị máy móc, thị trường buôn bán mở rộng cung cấp và đòi hỏi nhiều nguyên liệu, sản phẩm nên cũng tác động tốt đến cơ sở vật chất của ngành nông nghiệp, không những hệ thống hoá được việc chọn lọc gia súc trên quy mô lớn mà còn tạo được cho công tác giống một cơ sở khoa học vững chắc hơn. Sự phát triển của công tác chọn lọc có hiệu quả nhất bắt đầu từ thế kỷ 18. Trong thời kỳ này đặc biệt sôi nổi là công tác tạo giống. Chỉ riêng nước Anh nước Tư Bản tiên tiến lúc bấy giờ trong vòng vài chục năm đã tạo được hơn 20 giống cao sản bò ngựa, lợn, cừu, trong lúc đó đến năm 1700 - 1750 ở Á châu và châu Âu chỉ tạo được 1 như ngựa Ả Rập, bò sữa Hà Lan, cừu Tây Ba Nha lông mịn, lông xoăn, lợn Trung Quốc và Ý (P. N. Culêsôp,1926). Việc thâm canh nông nghiệp bắt đầu được đẩy mạnh, việc luân canh bắt đầu bằng việc sử dụng khá nhiều diện tích trồng cây thức ăn tạo điều kiện cải tiến nuôi dưỡng, đồng thời cũng đòi hỏi cao hơn về giống gia súc và cây trồng. Các phương pháp đánh giá chọn lọc và chọn phối đặc biệt phát triển. Có thể nói nhờ đó mà những nhà tạo giống ở thế kỷ 18, 19 đã đạt được nhiều thành tích trong việc tạo ra giống mới. Đến thế kỷ 20, và nhất là và khoảng 50 năm nay khoa học nhân giống và tạo giống đã có những bước tiến nhảy vọt, giữ 1 vai trò quan trọng trong khoa học chăn nuôi gia súc. Sự phát triển của di truyền học trên di truyền học phân tử đã góp phần đẩy mạnh sự phát triển của môn giống và tăng hiệu quả công tác giống gia súc, thậm chí còn giúp cho công tác giống dự đoán được được trước kết quả tạo giống và nhân giống của nó. Đã vận dụng các phương pháp thống kê sinh vật học vào di truyền quần thể, việc chọn lọc đã được tiến hành trên cơ sở các quần thể. Điều đó làm cho việc chọn giống không những chọn được những cá thể tốt mà còn chọn được những cá thể đó từ những đám đông cùng có những đặc tính giống nhau, thể hiện được đặc thù của tập hợp đó làm cho người chọn giống nhanh chóng chọn được đặc thù đó ra (nhất là đặc thù cao sản), củng cố lại và nhân nó ở mức độ cao hơn. Và như thế làm cho đặc thù đó không ngừng tăng lên. Điều này đã đáp ứng được yêu cầu của việc tạo ra sản phẩm chăn nuôi ngày càng đi theo hướng sản phẩm công nghiệp quy mô lớn, phù hợp với việc sử dụng ưu thế lai, giao phối cận huyết, khả năng phối hợp, tạo giống thuần chủng cao sản từ những giống cao sản sẵn có, đẩy nhanh tốc độ và hiệu lực của việc chọn giống. Ngoài ra thì các môn khoa học khác như giải phẩu học, sinh lý học, sinh hoá học...với những thành tựu mới nhất của nó đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của môn giống. 1.2. CÁC QUAN NIỆM, LÝ THUYẾT ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔN GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG GIA SÚC 2
  8.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi Khi nói đến sự hình thành, phát triển và tiến bộ của môn giống gia súc qua các thời đại và các chế độ, chúng ta không thể quên sự trưởng thành của môn giống về mặt lý luận cũng như hiệu quả của các phương pháp chọn giống, nhân giống đều có chịu sự ảnh hưởng của những quan niệm và lý thuyết qua từng thời kỳ. Trước tiên cần nhắc đến 1 khái niệm mơ hồ từ xa xưa, lúc người mẹ có chữa mà bị xúc động gì mạnh mẽ thì sự xúc động đó là ảnh hưởng đến bào thai, gây nên sự thay đổi các tính trạng của đời con sau này. Có khi người ta đã cho rằng sự xuất hiện một con bò màu lang đỏ trắng trong đàn bò lang trắng đen là do mẹ con bò đã nhìn vào mái nhà màu đỏ hoặc đã nhìn ráng đỏ hoàng hôn khi mang thai. Hiện tượng télégonie cũng là 1 khái niệm khá phổ biến 1 thời. Người ta cho rằng 1 con cái sau khi đã thụ phối với 1 con đực thì màu sắc, tính trạng của con đực đó sẽ ảnh hưởng đến đời con của con cái mặc dù lần này đời con không phải là con của con đực đó mà là con của đực khác. Ngay sách “Sự biến đổi của động vật và cây cối qua quá trình thuần dưỡng”. (C.Darwin, London, 1868) cũng nhắc nhiều đến hiện tượng này ở ngựa và lợn. Sách có nói đến chuyện con ngựa cái của bá tước Morthon. Ngựa của ông cho giao phối với ngựa vằn và đẻ ra ngựa con có sọc. Sau đó cho ngựa cái thụ với ngựa đen Arập và đẻ ra 2 ngựa con cũng có sọc rõ rệt theo kiểu ngựa vằn. Darwin viết: “ Không còn nghi ngờ gì nữa, màu sắc của ngựa con thuộc ngựa giống Arập là kết quả ảnh hưởng của ngựa vằn”. Ngày nay người ta giải thích hiện tượng này là do sự phân ly và tái hợp của các gen lặn vốn có ở bố hoặc ở mẹ chứ không phải là do hiện tượng Télégonie. Nói chung, các quan niệm nói trên cho đến nay không có tác dụng gì đáng kể trong công tác giống. Cùng với sự phát triển của khoa học di truyền hiện đại, của môn tế bào học đi sâu vào cấu trúc và chức năng của các vi thể và của nhiều môn khoa học khác, công tác giống gia súc đã đạt được mức độ tạo ra được nhiều giống cao sản. Sản lượng và sản phẩm của gia súc, nhờ vận dụng di truyền học , sinh hoá học, toán học... cũng đã có thể tiên đoán được mức độ. Điều quan trọng hơn cả là tiến tới điều khiển được phần nào việc hình thành các tính trạng. Trong công tác giống gia súc không phải ngay từ lúc đầu người ta đã nêu ra được những khái niệm rõ ràng, những quy lật cơ bản mà người chăn nuôi chỉ cần căn cứ theo đó mà tiến hành. Trái lại với các quan niệm và các quy luật tổng kết được, thường bắt đầu từ thực tiễn thuần dưỡng và chọn lọc gia súc cho nên sự phát triển của công tác giống càng khăng khít với sự tiến triển của các khái niệm và quy luật qua nhiều giai đoạn lịch sử, phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Ở các nước tư bản châu Âu, người ta thường cho Robert Bakewell ( 1728 - 1795) là 1 trong những người đầu tiên nổi tiếng về chọn giống gia súc. Thời kỳ đó ông là người tạo ra giống ngựa “sai”, bò dài sừng, cừu Lexte. Ông là người đầu tiên kiểm tra cừu đen, bò đực qua đời con, chọn con đực tốt đem từ các nơi về tạo nên đàn giống tốt. Từ đó cho đến suốt thế kỷ 19 là thời kỳ người ta đua nhau tạo nên giống mới khác. Đến năm 1800 bắt đầu có sổ giống nhà nước cho những giống mới, trước tiên ở Anh, sau ở Pháp, Đức rồi đến Hà Lan cũng có. Ban đầu sổ giống chỉ ghi nguồn gốc con vật. Đến nữa cuối thế kỷ 19 mới có những phương pháp đo đạc, đánh giá ngoại hình, thể chất và sức sản xuất. Năm 1890 xuất hiện phương pháp xác định mỡ sữa bò. 3
  9.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi Năm 1895 ở Đan Mạch bắt đầu có tổ chức tính toán, kiểm tra lượng sữa. Còn kiểm tra tiêu tốn thức ăn và phẩm chất thịt cũng bắt đầu ở Đan Mạch năm 1907 và ở Đức năm 1962. Sau khi đã có sổ giống người ta xác định 1 mẫu chuẩn cho mỗi giống gia súc. Chính nhờ có mẫu chuẩn mà việc chọn lọc gia súc tiến bộ nhanh. Nhưng cũng chính việc chọn lọc theo mẫu chuẩn mà thực chất là mẫu chuẩn ngoại hình đã ngăn cản việc mở rộng chọn lọc theo hướng sản xuất, có khi dẫn đến làm giảm sức sống, sức sản xuất của con vật nếu chọn lọc theo 1 chiều mẫu chuẩn. Cần chú ý là trong 1 khoảng thời gian dài thời Bakewell đến năm 1700 việc phát triển ngành chăn nuôi gia súc chưa thực sự chịu ảnh hưởng sâu sắc của 1 lý thuyết sinh vật nào cả. Hầu như người chăn nuôi riêng lẻ hoặc các liên đoàn chăn nuôi nhập lại chỉ lo làm sao chọn được con tốt, tính lỗ lãi của sản phẩm, có khi thành công có khi thất bại. Năm 1809 nhà động vật học Pháp Lamarke (1744 - 1829) phát triển thuyết tiến hoá cho rằng các “tính trạng tập nhiễm” có thể di truyền. Theo thuyết này, các loài sinh vật mong muốn thích ứng với điều kiện ngoại cảnh, phải dần dần thay đổi. Các thay đổi đó được hình thành trong các tế bào sinh dục rồi truyền cho đời con. Vì vậy ông cho là sự thay đổi tuần tự như hươu có cổ cao, bò sát có chân ngắn đều là kết quả luyện tập của các bộ phận đó và hiện tượng “dài cổ” hay “ngắn chân” đều được ghi nhận vào tế bào sinh dục rồi qua sinh sản truyền đạt cho đời sau. Đó là thuyết di truyền tập nhiễm. Nếu là như vậy thì tập tính chạy nhanh của ngựa, lượng sữa của bò hay của trâu chỉ cần tập luyện, huấn luyện thì các tính trạng đó sẽ được nâng cao mãi mãi, vô tận, nghĩa là 1 tính trạng nào đó chỉ cần có “ ảnh hưởng, áp lực của ngoại cảnh” là đủ. Trong thực tế, điều kiện ngoại cảnh có ảnh hưởng ở mức độ nào đó đến các tính trạng, trên cơ sở tương quan giữa di truyền, và đặc tính tập nhiễm không thể nào di truyền qua thay đổi cấu trúc được, nếu về thực chất, cấu trúc của nhiễm sắc, của gen không được thay đổi. A. Wetsman (1892) là người đầu tiên chống đối rõ rệt thuyết di truyền tập nhiễm. Ông cho rằng tất cả các mầm mống di truyền của bố mẹ truyền cho đời con đều cố định ở nhiểm sắc thể của tế bào. Những bộ phận khác của cơ thể, dù có thay đổi theo hướng nào, cả những tế bào thường đều không thể làm thay đổi các “mầm plasma” đó được. Tuy nhiên, Wetsman cũng chưa đi đến kết luận được 1 cách rõ ràng về cơ sở di truyền nên sau đó lại thiên về 1 khuynh hướng hơi trừu tượng, chẳng hạn ông cũng chỉ chứng minh được rằng bằng cách chặt đuôi những con chuột thì những con chuột đó vẫn sinh đời con có đuôi bình thường. Ở nữa đầu thế kỷ thứ 19 ở Đức cũng còn có 1 quan niệm nữa về tính cố định của giống cho rằng các đặc tính của 1 giống sẽ được cố định vĩnh viễn do tác động của công tác giống. Chỉ có những đặc tính nào không cố định thì mới phân ly. Tính cố định của đời con được thừa hưởng ở đời trước, nhiều hay ít, bền vững hay không bền vững là do khoảng cách bao nhiêu thế hệ với cá thể tổ tiên có đặc tính đó. Nói 1 cách khác là “ mức độ máu” của cá thể tổ tiên nào đó, nhiều hay ít do khoảng cách của các thế hệ, sẽ ảnh hưởng đến tính cố định nào đó. Kết hợp thuyết cố định và thuyết di truyền tập nhiễm, có quan niệm còn cho rằng nếu 1 cá thể, 1 phẩm giống nào được nuôi nấng trong những điều kiện môi trường giống nhau qua nhiều thế hệ thì có đặc tính mang tính cố định cao. Cá thể phẩm giống đó thích nghi dễ dàng hơn với điều kiện đó so với cá thể và phẩm giống khác mới đưa từ nơi khác tới. Điều đó đúng là như thế, nhưng sự phát triển nhanh chóng của nền Nông nghiệp nói chung đã làm thay đổi nhiều điều kiện môi trường (nhất là về mặt dinh dưỡng và nuôi dưỡng). Cho nên 4
  10.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi muốn nâng cao năng suất của 1 phẩm giống lại phải có phương pháp chọn lọc, chọn phối, đổi mới, phải tổ chức lai tạo, phải thay hẳn những giống cũ không thích hợp. Và ngày nay, con người đã có đủ cơ sở khoa học để tạo điều kiện cho những gia súc và phẩm giống chuyển từ 1 nơi cũ đến 1 nơi mới mà năng suất vẫn đảm bảo không bị giảm sút như dùng hệ thống điều hoà khí hậu chuồng trại, dùng thức ăn hỗn hợp... Từ đầu thế kỷ 19, bắt đầu hình thành 1 xu hướng sử dụng các quy luật luật di truyền quần thể vào công tác giống gia súc. Các phương pháp thống kê sinh vật học (toán học) từ đó có tầm ứng dụng rất lớn. Vào cuối thế kỷ 19, Galton F. dùng phương pháp thống kê để xác định tính di truyền và được xem là người sáng lập môn thống kê sinh vật học. R.A.Fisoher (1918), đã nói về sự tương quan di truyền theo quy luật Mendel giữa các sinh vật cùng huyết thống. S.Wright (1921) cũng nói về ảnh hưởng di truyền của các cách chọn phối khác nhau và về nguyên nhân với kết quả. Hiện nay, các công trình của Galton F. và S. Wright cùng với định luật Hardy - Weiberg được xem là nền móng của di truyền học quần thể. Lush.J (1945) cũng là người đầu tiên ứng dụng di truyền học quần thể trong ngành chăn nuôi, đã phát triển thêm lý luận của S.Wright, phân tích sự di truyền của các tính trạng sồ lượng, xác định giá trị của con vật về mặt giống và hiệu quả của chọn lọc. Hiện nay các phương pháp toán học được vận dụng rộng rãi trong công tác giống để phát hiện quy luật, dự đoán và dự tính sản lượng của gia súc. Ở Liên Xô, trong công tác giống người ta thường đánh giá cao những nhà tạo giống Nga như A.G.Oclop và V.L.Setxokin những người đã tạo nên vào những năm 1798-1845 nhiều giống ngựa quý, chẳng hạn ngựa cưỡi giống Ốclốp. Anh em nhà Côlin, Bet và nhiều người khác khi tạo giống bò Sooc-gooc, B.TômKin- giống bò Hereford, Uôtxôn -giống bò Abecđin Angut, Đjôn Ơman và Vep,giống cừu Sôutđao, E.Khemôn- giống cừu lông mịn đã thành công trong việc cho giao phối cận huyết. A.G.Oclôp và Setxơkin đã áp dụng phương pháp tạp giao nhiều phẩm giống và lần đầu tiên trên thế giới đã có ý thức dùng phương pháp tạo dòng, đi sâu vào chọn lọc và chọn phối, để tạo nên giống mới. Các ông cũng đã đặt ra cách tập dượt đặc biệt, thử sức ngựa cưỡi... để nâng cao hiệu lực của phẩm giống. Tuy nhiên cơ sở khoa học của chọn giống thì hình thành muộn hơn. Mãi đến nữa cuối thế kỷ 19, công trình đầu tiên tổng hợp kinh nghiệm tạo giống gia súc và cây trồng nổi tiếng của Đarwin. “ Nguồn gốc các loài” mới đề cập đến lý luận tiến hoá của thế giới hữu cơ. Kiến thức tiến hoá của ông dựa vào ba nguyên tắc chính: biến dị, di truyền và chọn lọc. Theo thuyết Đarwin sự tiến hoá của các loài thực hiện khả năng di truyền qua sự chọn lọc. Nhờ chọn lọc mà giữ được và củng cố những đặc tính di truyền và chính trên cơ sở đó mà chọn lọc cây trồng và gia súc, đưa việc chọn giống vào cơ sở khoa học chặt chẽ. Đến đầu thế kỷ 20, lúc mà ngành chăn nuôi đã trở thành một môn khoa học, lúc mà khoa học di truyền mới bắt đầu với những kiểu thực nghiệm về tính di truyền và biến dị thì những người chọn giống nổi tiếng và sáng lập khoa học chăn nuôi của Nga như: ngoài P.N.Culêsôp ra, E.A.Bocđanôp, M.F.Ivanôp và nhiều người khác cũng đã chú ý đến môn khoa học mới mẻ lúc bấy giờ và đã vận dụng các nguyên tắc chính về di truyền vào các công trình của họ. 5
  11.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi Công trình của N.A.Xôpliacôp (Iurasôp) về tính di truyền mầu lông của ngựa trên cơ sở sổ giống ngựa đua Oclôp là thí nghiệm đầu tiên về mặt này ở nước Nga. Sách thuyết Mendel hay lý luận tạp giao của E.A.Bocđanôp (1912) là một tác phẩm lớn đề cập đến khả năng dùng các quy luật di truyền trong công tác giống gia súc, nhất là về mặt tạp giao. N.I.Vavilôp 1935, nhà di truyền học và chọn giống nổi tiếng cũng đã viết: “Các luật của Mendel là bước ngoặt trong lịch sử chọn giống gia súc và cây trồng. Trước năm 1900 công việc chọn giống có tính chất lý thuyết. Từ đó về sau mới có cơ sở khoa học. Thuyết Mendel và công tác chọn giống cùng với các môn liên quan về từng năm lại giúp cho các nhà sinh vật học điều khiển có ý thức cây cối và động vật. Chính vì đó mà ý nghĩa của công tác chọn giống tăng lên; nó là khoa học điều khiển sự tiến hoá của gia súc và cây trồng”. Theo ông, chọn giống liên quan chặt chẽ với các môn tế bào học, sinh hoá học, sinh lý học và trước tiên là di truyền học. Các luật về di truyền Mendel làm cho di truyền động vật từng loại cũng phát triển, tạo điều kiện cho chọn giống có hiệu quả hơn, ví dụ như chọn lọc cừu lông xoăn, các loại cừu lông mịn, ngành nuôi thú lấy lông. Vaxin (1933), Gơlembôpski, Mickhơnôpsski (1934) và nhiều người khác là những người đấu tiên nghiên cứu gen gây chết ở loại cừu lông xám vào lúc 1 tuổi. B.I.Vaxin đã sữa đổi tính trạng đó bằng cách dùng phương pháp cho giao phối dị dạng theo sắc lông trong 1 đàn. D.K.Béliaiep và V.I.Epxicôp đã tạo nên loại chồn có sắc lông ngọc trai bằng phương pháp chọn lọc đồng dạng qua 3 gen lặn độc lập với nhau. Lý thuyết và thực hành chọn giống phát triển chủ yếu trên cơ sở chọn lọc, chọn phối và tạp giao, nghĩa là những hiện tượng mà di truyền quần thể nghiên cứu với phương pháp di truyền toán học đặc biệt. Nhà bác học Xô viết S.S.Setvêricôp ( 1926 ) và những người tiếp tục công trình, gần gũi nhất của ông, N.P.Dubinin, D.D.Rômasôp đã làm hàng loạt thí nghiệm theo hướng giải thích cấu trúc di truyền quần thể. Các phương pháp di truyền toán học được ghi trong các công trình của R.A.Fischer, S.Wright và nhiều người khác giúp phân tích công tác giống trong quần thể, trong đàn và trong phẩm giống gia súc, đánh giá ảnh hưởng của kiểu di truyền và môi trường đối với sự phát triển của tính trạng và sản phẩm gia súc. Dùng số liệu toán học về sự di truyền các tính trạng có thể kế hoạch hoá công tác giống, dự đoán hiệu quả của chọn lọc trong đàn và giống. Cho đến nay thì di truyền học đã có 1 vai trò lớn trong công tác tạo giống và nhân giống. Nhiều biện pháp kỹ thuật về giống như kiểm tra con đực qua đời con được thực hiện chính xác và mở rộng hơn. Nguyên nhân của suy hoá và các phương pháp lai tạo được giải thích đầy đủ hơn. Anh hưởng của di truyền và ngoại cảnh đối với sự thay đổi của tính trạng cũng đã có nhiều phương pháp tính toán. Các quy luật di truyền đi sâu hơn vào lĩnh vực công tác giống gia súc và được vận dụng để nâng cao năng suất của các phẩm giống. Trong khi tiến hành mạnh mẽ việc vận dụng di truyền học hiện đại (di truyền học phân tử) vào công tác tạo giống, nhân giống. Ở Liên Xô cũng đã phê phán xu hướng sử dụng di truyền học trước đây không có cơ sở như dùng các con lai chưa có tính di truyền ổn định để làm con giống, cho lai tạo không theo 1 hệ thống nhất định, chọn lọc và chọn phối không tuân thủ theo các quy luật di truyền. Tất cả những sai lầm đó đã có 1 thời ảnh hưởng xấu đến công tác giống gia súc và làm chậm tốc độ cải tiến phẩm giống trong nước. 6
  12.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi 1.3. CÔNG TÁC GIỐNG GIA SÚC Ở NƯỚC TA 1.3.1. Thời kỳ trước Pháp thuộc năm 1858 Nền chăn nuôi còn yếu kém, chủ yếu nuôi một số trâu, bò, heo, gà... địa phương lâu đời dưới hình thức cá thể. 1.3.2. Thời kỳ năm 1858 đến Cách Mạng tháng 8 năm 1945 Người Pháp từng bước đã có ảnh hưởng đến nền chăn nuôi và công tác giống của Việt Nam. Sau thế chiến thứ nhất đã đưa một số chuyên viên về thú y, thành lập một số trại nuôi thú giống ở vùng cao (nuôi bò ôn đới), ở vùng đồng bằng (cừu ngựa, heo gà )...nhập một số giống tốt từ nước ngoài chủ yếu gà vùng ôn đới. Tuy nhiên do kỹ thuật còn thấp, điều kiện khí hậu của Việt Nam là nhiệt đới nên phần lớn nuôi không thành công, chỉ có heo Craonais phát triển tốt được ở Nam Bộ và đã lai với các giống heo ở địa phương. Năm 1930 đã nhập giống ngựa Ả Rập từ Bắc Phi vào nuôi đã cho kết quả tốt. Sự lai tạo từ giống ngựa Ả Rập với ngựa địa phương ở nước ta đã cho ra ngựa Đông Dương. Năm 1930, nhập bò Ấn Độ, chủ yếu là giống bò Sind và giống bò Ongole cho kết quả tốt trong việc nuôi thích nghi và lai tạo với các giống bò địa phương. Năm 1932-1936, nhập heo cao sản từ Philipin với 3 giống nổi tiếng của thế giới là Yorkshire, Bershire, Tamwoth (các giống heo này do Mỹ đem sang Philipin) nuôi tại Đồng bằng sông Cửu Long và đã tham gia lai tạo với heo địa phương vùng này tạo ra 2 giống là heo trắng Thuộc Nhiêu và heo bông Ba Xuyên. 1.3.3. Thời kỳ Cách Mạng tháng 8 năm 1945 đến 1954 + Ở vùng giải phóng: Công tác giống là việc thực hiện bình tuyển giống bò, heo. Nhà nước can thiệp vào việc loại hay giữ lại một số giống bò đực, heo đực để làm giống, tiêm phòng phòng chống dịch bệnh. + Ở vùng Pháp tạm chiếm: Phát triển thêm một số trại ở vùng đồng bằng, nhập lại những giống tốt sau khi đã bị gián đoạn do thế chiến thứ 2. Bò Ấn Độ, ngựa (để cải tạo ngựa đua ở Sài Gòn), heo Yorkshire, Bershire. Bắt đầu xây dựng một số trại gà và nhập giống gà công nghiệp. Các giống nhập được đưa ra ngoài dân để lai với các giống địa phương. 1.3.4. Thời kỳ từ năm 1954- 1975 1.3.4.1. Ở Miền Bắc Qua 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế ở miền Bắc (1958 - 1960), tình hình chăn nuôi có 1 số mặt tiến bộ, nhưng tốc độ chậm, không đều, tuỳ theo từng vùng, có năm không đạt mức kế hoạch số lượng gia súc. Chất lượng đàn trâu, bò, lợn đều còn kém, mức sinh sản cũng như tỷ lệ nuôi sống thấp, con giống thiếu và chưa được chọn lọc qua tiêu chuẩn chặt chẽ. Năm 1962, theo nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 3 và Hội nghị Trung ương lần thứ 5 về phần phát triển chăn nuôi gia súc trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), Bộ Nông nghiệp lúc bấy giờ đã chú ý đến công tác giống. + Thành lập các trại giống heo cấp tỉnh quản lý và các trại heo, bò, ngựa, cừu, gia cầm rãi rác từ năm 1959-1967 thuộc trung ương quản lý như trại lợn Đầm Hà ( Quảng Ninh) và Bát Sát (Lào Cai).... Đến năm 1967 đã có được 31 trại lợn tỉnh, có quy mô từ 20 - 50 nái cơ bản, có khả năng sản xuất 100 - 200 lợn nái hậu bị hàng năm. Quy mô các trại lúc bấy giờ còn nhỏ, trình độ quản lý non yếu, con giống chưa đạt tiêu chuẩn cao. + Công tác xây dựng vùng giống và bình tuyển gia súc bắt đầu từ năm 1962 đến năm 1967. - Đã có 44 vùng giống lợn ở các tỉnh, quy mô 76 xã bao gồm 10.000 nái cơ bản; đã bình tuyển được trên 13 vạn lợn nái của 12 tỉnh chiếm 17,6% tổng số lợn nái trên miền Bắc. 7
  13.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi - Vùng giống bò bắt đầu có từ năm 1966, đầu tiên ở Thọ Xuân (Thanh Hoá). - Năm 1967 xây dựng vùng giống trâu ở Hạ Hoà (Vĩnh Phú) bao gồm 10 xã với 2% đực cấp I, 17% cấp II, 48% cấp III. Tỷ lệ đực cái: 1/15 với nhịp đẻ trung bình 20 tháng tuổi 1 nghé. + Công tác điều tra cơ bản giống: Bắt đầu từ năm 1964, ban đầu do các tỉnh tự đảm nhận. “Đợt điều tra trâu bò năm 1964 của Bộ Nông nghiệp, các trường Trung cấp Nông nghiệp Trung ương, các Ty Nông nghiệp đã tiến hành ở 7 tỉnh thành: Nghệ An, Thanh Hoá, Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang, Yên Bái, Lạng Sơn và điều tra ngựa đã tiến hành ở Lai Châu, Hà Giang. Cũng đã điều tra được các loại lợn Ỉ, Móng Cái, Mường Khương, Mèo, Chợ Rã (Bắc Thái), Việt Hùng (Phú Thọ), Lang Hồng (Hà Bắc). Tổng số gia súc được điều tra đạt gần 14 vạn trâu, 3000 bò, trên 1000 ngựa, trên 1 vạn lợn và 10 loại cây thức ăn”. Các số liệu 1 phần cũng được xử lý theo phương pháp thống kê sinh vật. Các nông trường Quốc doanh hàng năm cũng tiến hành kiểm kê và bình tuyển giám định gia súc. + Nhập giống mới: Các giống mới cao sản cũng bắt đầu được nhập vào nước ta từ năm 1958, chủ yếu từ Trung Quốc và Liên Xô. Bò: Bò sữa lang đen trắng, bò Sind, bò Tam Hà nhập từ Trung Quốc. Được nuôi thích nghi chủ yếu ở Mộc Châu, Lâm Đồng. Trong những năm 1970 bò sữa lang trắng đen cũng được tiếp tục nhập vào, lần này chủ yếu từ Cu Ba. Số đực thuần chủng được giữ nuôi tại trung tâm bò đực giống Ba Vì, còn những con cái ở nông trường Sao Đỏ (Sơn La). Những đời con thuần chủng được giữ lại nuôi ở đây, còn tinh trùng bò đực thì được dùng để lai tạo với bò Sind, bò Vàng Việt Nam ở các nông trường miền núi, miền khu 4 cũ. Một số bò đực khác như bò nâu Thuỵ Sĩ (Brown Swiss) cũng đã được nhập và nuôi thích nghi. Ngựa: Ngựa chủ yếu là giống Cabacđin của Liên Xô được nuôi tại trại Bá Vân (Thái Nguyên). Trâu: Trâu Murrah nhập từ Trung Quốc được nuôi tại trại Ngọc Thanh (Vĩnh Phú). Lợn: Lợn được nhập nhiều nhất cả về số lượng lẫn phẩm giống. Không kể những loại còn lại rãi rác từ thời Pháp thuộc. Lợn Berkshire, Yorkshire, Tân Cương, Đại Bạch được nhập vào nước ta từ năm 1958. Năm 1966 chúng ta tiếp tục nhập những loại giống nói trên, nhập thêm lợn Landrace và lợn Trung Bạch. Các loại lợn nhập đều được phân bố ở các nông trường như An Khánh, Thành Tô... Ở các Viện, trường Đại học Nông nghiệp, ở một số trạm thụ tinh và ở một số cơ sở giống thuộc Hà Nội, Hải Phòng. Cừu: Cừu lông mịn Tân Cương (Trung Quốc), cừu lông thô Mông Cổ nhập từ năm 1958 được nuôi tại nhiều nông trường Quốc doanh, nhưng cho đến nay chỉ còn một số ít tại nông trường Mộc Châu (Sơn La). Gia cầm: Chúng ta cũng nhập khá nhiều gà Rhodes, Jsland, Leghorn, Plymouth...và một số ngỗng Sư tử, vịt Bắc Kinh, gà Tây và gà Nhật Bản. Cho đến nay chúng ta cũng tiếp tục nhập những giống gà nói trên và thêm những loại gà Sussex, Cornish...chúng ta cũng đã nhập những dòng gà hướng trứng hoặc thịt từ các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (năm 1971), đã tổ chức những xí nghiệp nuôi giữ gà giống ngoại và nuôi gà thương phẩm, các loại gà nhập đều được phân phối nuôi ở các trường Đại học Nông nghiệp, ở Viện Chăn nuôi... + Tiến hành lai tạo các giống nhập với giống địa phương: 8
  14.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi - Đối với lợn, chúng ta đã dùng chủ yếu để lai kinh tế. Vào những năm 1963-1964, chúng ta có tổ chức lai tại các trường Đại học, trường Trung cấp Nông nghiệp Trung ương, tại các Viện, trại và rãi rác ở một số địa phương theo các công thức lợn đực Berkshire với lợn Ỉ Nam bộ, Ỉ pha, Móng cái, lợn đực Đại bạch với lợn Ỉ các loại, lợn Móng cái. Bên cạnh chúng ta cũng không quên lai giữa các giống lợn nội như lợn Ỉ x lợn Mèo, lợn Mèo x lợn Cỏ, lợn Cỏ x lợn Lào. Trong thời kỳ này việc lai tạo nhằm mục đích thăm dò. Lúc bấy giờ việc lai tạo không theo một kế hoạch nghiêm túc, cơ sở thức ăn yếu, việc đề phòng bệnh tật chưa được thực sự quan tâm cho nên công tác lai không được theo dõi chặt chẽ, hiệu quả không được cao. Vào những năm 1970 chúng ta tiếp tục nhập thêm những giống lợn mới như Landrace, Trung Bạch. Công việc lai tạo bây giờ được chú trọng nhiều hơn, có kế hoạch chu đáo hơn trước. Cơ sở khoa học của vấn đề lai được phổ biến rộng rãi hơn. Điều kiện thức ăn, chuồng trại, phòng bệnh và kiến thức về mặt di truyền giống gia súc so với trước được nâng lên 1 bước. Cho đến nay chúng ta đã có những công thức lai kinh tế tương đối vững chắc như Đại Bạch x Ỉ, Đại Bạch x Móng Cái, Landrace x lợn lang... Đối với bò sữa, ban đầu chúng ta cho lai bò lang đen trắng với bò lai Sind, bò Vàng Việt Nam. Nhưng lượng sữa của các loại bò lai không cao: trung bình không quá 2000 kg/chu kỳ và thời gian sử dụng đạt mức sữa nói trên thường không dài, trung bình thường chỉ đến chu kỳ 4, 5. Đối với trâu, năm 1975 chúng ta nuôi thực nghiệm trâu sữa Murrah thuần chủng đồng thời để cải tạo trâu Việt Nam và trại Ngọc Thanh (Vĩnh Phú) đảm nhiệm công việc này. Đối với gia cầm chúng ta tiếp tục nhập những giống gà đã nhập từ trước như Leghorn, Rhodes Island, và nhập thêm những giống mới như Octralorg, Plymouth, Sussex,Cornisch. Tuy nhiên đối với gà, do chù kỳ sinh sản và phát triển ngắn, chúng ta có thể nhanh chóng thay thế nên chưa đặt vấn đề tạo giống hoặc lai tạo mạnh để cải tiến con giống trong nước. Trừ 1 vài nơi như các trường Đại học, các Viện có thăm dò các công thức lai tạo để làm gà lai kinh tế hoặc thông qua lai mà cải tiến giống địa phương ra thì phần lớn các cơ sở đều lai hoặc nhập gà lai sẳn để nuôi vỗ béo lấy thịt ngắn ngày, tiêu tốn ít thức ăn theo hướng gà dò vỗ béo của các nước. + Xây dựng các trạm thụ tinh nhân tạo: - Từ năm 1959 các trạm thụ tinh nhân tạo thành lập rãi rác ở các nông trường quốc doanh, ở các vùng quanh đô thị, ở 1 vài vùng trung du và miền núi. Đến năm 1967 đã có 27 cơ sở với 515 lợn đực và 20 bò đực giống. Riêng lợn đực đã dẫn tinh được 5,2% tổng số lợn nái trên toàn miền Bắc với tỷ lệ thụ thai trung bình từ 80-85%. Từ năm 1963 trở về trước, chủ yếu dùng tinh lợn đực ngoại thuộc giống Beckshire và Large White (Đại Bạch). Từ năm 1963 trở đi có chú trọng đến tinh lợn nội hơn. Ở vùng miền núi còn có 9 trạm truyền giống ngựa trực tiếp với khoảng 40 đực giống, hàng năm có thể phối cho 1000-1500 ngựa cái. 1.3.4.2. Ở Miền Nam Sự điều tra cơ bản về giống không chính thức, chỉ thực hiện được ở tại trường Đại học Nông nghiệp thông qua một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên và cũng chỉ giới hạn trên vài giống. Thụ tinh nhân tạo có thực hiện với quy mô nhỏ và bò phát triển hơn heo. Xây dựng một số trại giống của nhà nước và của tư nhân với quy mô lớn cùng với việc nhập nhiều giống ngoại qua con đường viện trợ hay tư bản tư nhân. 9
  15.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi Bò: Bò Santa Gertrudis, bò sữa Jersey Heo: Heo Yorkshire, Landrace, Duroc, Chester White, Poland China, Hamshire... Gà: Đầu tiên nhập gà lai nuôi thịt thương phẩm, sau đó nhập gà bố mẹ để sản xuất gà thịt thương phẩm như gà Hubbard thịt, gà Gôto Nhật. Tương tự gà trứng thương phẩm và gà bố mẹ để sản xuất gà đẻ trứngthương phẩm như Hubbard Comet... Ngựa: Nhập ngựa để cải tiến ngựa đua ở Sài Gòn. 1.3.5. Thời kỳ từ năm 1975 đến nay: Không có sự khác biệt về đường lối công tác giống giữa hai miền Nam Bắc. Nhà nước cố gắng xây dựng một chương trình công tác giống thống nhất, thiết lập một hệ thống hòan chỉnh toàn quốc bao gồm: - Trại giống trung ương thuộc Bộ Nông nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn) quản lý. - Trại giống cấp I thuộc tỉnh, thành phố quản lý, nhận con giống từ các trại thuộc trung ương. - Trại cấp giống cấp II thuộc huyện quản lý, nhận con giống từ các trại tỉnh, thành phố. Những trại giống trung ương có thể nằm rải rác vùng trên toàn quốc. Đối với bò có trung tâm tinh đông viên Moncada Ba Vì, duy nhất trong nước, phục vụ cho việc phối giống trên bò do Nhà nước điều phối và kiểm soát qua hệ thống trạm trại trực thuộc. Ngoài ra có nông trường bò sữa Việt Nam - Mông Cổ tỉnh Hà Tây, nông trường bò sữa Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng, trại bò giống Dục Mỹ tỉnh Khánh Hòa.... Về heo có trại heo An Khánh tỉnh Hà Tây, trại heo Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phú, trại heo Đông Triều tỉnh Quảng Ninh, trại heo Đông Á tỉnh Bình Dương... Về gà có trại Tam Dương tỉnh Vĩnh Phú, xí nghiệp gà Lương Mỹ tỉnh Hà Tây, trại gà Hồng Sanh tỉnh Bình Dương.... - Sự điều tra giống được thực hiện theo yêu cầu của từng địa phương có sự tham gia của các cơ quan trung ương. - Đầu những năm 1980 nền kinh tế chuyển qua giai đoạn mới, gắn liền với sự cạnh tranh, thị trường. Nên hệ thống giống trên đã bị phá vỡ, do một số trại trung ương với cơ sở vật chất hạn chế, đội ngũ chuyên viên làm công tác giống thiếu, các giống được cung cấp không hiệu quả vv..... Các trại khác trực thuộc trung ương, tỉnh, thành phố đã độc lập nhập ào ạt những giống gia súc gia cầm mới và thực hiện công tác giống riêng cho đơn vị mình để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong giai đoạn mới. Hiện nay đã có nhiều tập đoàn nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới hình thức liên doanh, hoặc 100% vốn nước ngoài như: Việt Thái, CP Groupe, Proconco, Cargill.... vào lĩnh vực chăn nuôi heo gà với qui mô rất lớn. Các tập đoàn này có những chương trình công tác giống riêng, tham gia cung cấp cho thị trường nội địa tạo nên một sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. 10
  16.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi TÓM TẮT CHƯƠNG I Giống gia súc và các loại cây trồng là những phương tiện của sản xuất nông nghiệp. Vì vậy sự hình thành, tạo nên và phát triển của giống liên quan với lực lượng, quan hệ sản xuất trong xã hội. Cũng như các môn học khác, môn giống gia súc hình thành và được hoàn thiện dần theo sự phát triển của xã hội loài người cùng với những trí thức, những kinh nghiệm sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội, với những tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật của nó. Trước đây trong khoa học chọn giống chỉ chú ý đến việc chọn lọc cá thể và ghép đôi giao phối thì gần đây do vận dụng các phương pháp thống kê sinh vật học vào di truyền quần thể, việc chọn lọc đã được tiến hành trên cơ sở các quần thể. Điều đó làm cho việc chọn giống không những chọn được những cá thể tốt mà còn chọn được những cá thể đó từ những đám đông cùng có những đặc tính giống nhau. Sự phát triển của các ngành khoa học khác như giải phẩu học, sinh lý học, sinh hoá học...với những thành tựu mới nhất của nó đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của công tác giống. Sự hình thành, phát triển và tiến bộ của giống và công tác giống gia súc qua các thời đại và các chế độ, đều có chịu sự ảnh hưởng của những quan niệm và lý thuyết qua từng thời kỳ. Công tác giống gia súc, gia cầm ở nước ta qua các thời kỳ lịch sử khác nhau có nhiều đặc điểm khác nhau. Trong thời kỳ chiến tranh, công tác giống không có gì nỗi bật. Chỉ những năm gần đây, khi có chính sách khuyến khích phất triển chăn nuôi phù hợp và khi có nhiều thành phần kinh tế tham gia đã đưa ngành chăn nuôi nước ta qua một bước mới. 11
  17.  Baìi giaínggiäúngváût nuäi CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày tóm tắt lịch sử hình thành công tác giống gia súc 2. Hãy nêu các quan niệm lý thuyết ảnh hưởng đến công tác giống 3. Nêu những thành quả đạt được trong công tác giống ở nước ta TÀI LIỆU ĐỌC THÊM 1. Giáo trình chọn và nhân giống vật nuôi của Nguyễn Đức Hưng, Nguyễn Minh Hoàn, Lê Đình Phùng. 2006. 1. Giáo trình chọn và nhân giống vật nuôi của Nguyễn Hải Quân, Đặng Vũ Bình, Đình Văn Chỉnh, Ngô Đoan Trinh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Ngọc Hải. 1992. Thuyết tiến hoá sau Darwin. NXB Hà Nội, Hà Nội 2. Trần Đình Miên, Nguyễn Hải Quân, Vũ Kính Trực, 1975. Chọn giống và nhân giống gia súc, NXB Nông thôn - Hà Nội. 3. Nguyễn Hải Quân, Đặng Vũ Bình, Đình Văn Chỉnh, Ngô Đoan Trinh, 1995. Giáo trình chọn giống và nhân giống gia súc. Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội. 4. Nguyễn Đức Hưng, Nguyễn Minh Hoàn, Lê Đình Phùng. 2006. Giáo trình chọn giống và nhân giống vật nuôi, NXB Đại học Huế. Huế. 5. Trần Đình Miên, Đặng Hữu Lanh, Trần Đình Trọng. 1999. Chọn giống động vật. Trong: Cơ sở di truyền chọn giống động vật (Đặng Hữu Lanh chủ biên). Trang 7-50. NXB Giáo dục, Hà Nội. 12
  18. 1 Chương I LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHỌN GIỐNG VÀ NHÂN GIỐNG, CÔNG TÁC GIỐNG Ở NƯỚC TA 1.1. Lịch sử hình thành môn chọn và nhân giống vật nuôi Giống vật nuôi cũng như cây trồng là những phương tiện của sản xuất nông nghiệp. Do vậy, sự hình thành và phát triển của nó có liên quan với lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội. Cũng như các môn khoa học khác, môn chọn và nhân giống được hình thành và hoàn thiện dần theo sự phát triển của xã hội loài người, cùng với những trí thức, kinh nghiệm sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, đấu tranh xã hội và những tiến bộ về mặt khoa học kỹ thuật trong từng thời kỳ. Từ xa xưa, con người đã biết cải tiến các vật nuôi, cây trồng bằng nhân giống và lai giống. Lai lừa đực và ngựa cái sinh ra con la. Trong một số tác phẩm của thời trước, người ta đã biết rằng: một số con sinh ra giống mẹ, một số giống cha và một số quay lại giống ông bà. Ở các nước tư bản châu Âu, Robert Bakewell (1728 - 1795) được xem là một trong những người đầu tiên nổi tiếng về tạo và chọn giống vật nuôi. Ông là người tạo ra giống ngựa Shire, bò sừng dài, cừu Lexte, kiểm tra bò đực qua đời con, chọn đực tốt để gây giống. Lamarck (1744 - 1829) là nhà sinh vật học người Pháp đã đề cập đến vấn đề tiến hóa. Theo ông do tác động của ngoại cảnh, sinh vật có biến đổi nên có tiến hóa và thoái hóa. Các biến dị mới thu được trong phát dục cơ thể có thể truyền lại cho đời sau bằng con đường sinh sản hữu tính và vô tính. Ông gọi đó là tính di truyền thu được “tập nhiễm”, nhưng chưa giải thích được sự tiến hóa như thế nào ? Darwin (1809 - 1882) , dựa vào kết quả quan sát thực tế, tổng kết rất nhiều tài liệu, đã giải thích sự tiến hóa của sinh vật là do di truyền, biến dị, chọn lọc và đấu tranh sinh tồn. Từ đó xây dựng nên thuyết tiến hóa. Thuyết “toàn sinh”, theo ông các tế bào ở các bộ phận cơ thể, kể cả các bộ phận mới biến dị đều chứa các “hạt” mầm. Các “hạt” này qua máu đi vào tế bào sinh dục và truyền lại cho đời sau. Weisman (1834 - 1914), năm 1892 đã đưa ra thuyết “chất chủng
  19. 2 liên tục”. Theo thuyết này cơ thể được chia làm hai phần: chất chủng và chất thể. Chất chủng quyết định sự sinh sản và di truyền. Chất thể có tác dụng cung cấp dinh dưỡng và bảo vệ chất chủng. Qua từng thế hệ, chất chủng sinh ra chất thể, chất thể không sinh ra chất chủng, chất thể không liên tục mà chỉ có chất chủng là liên tục. Chất chủng chứa các đơn vị di truyền nằm trong nhiễm sắc thể của tế bào sinh dục, là cơ sở sẵn có truyền từ đời này sang đời khác. Mendel G. (1822 - 1884), năm 1865 cho ra đời công trình “Thí nghiệm của các cây lai” và đưa ra ba qui luật di truyền cơ bản: qui luật tính trội, qui luật phân ly và di truyền độc lập, tổ hợp tự do. Năm 1900, Hugo de Vris, Tcheckmark và Correns đã đưa ra công trình giống với kết quả nghiên cứu của Mendel trước đó 35 năm. Do vậy kết quả nghiên cứu của ba nhà khoa học này là phát hiện lại qui luật Mendel. Johansen (1907), đưa ra khái niệm về quần thể và các qui luật di truyền trong quần thể và dòng thuần. Năm 1908 định luật Hardy-Weinberg ra đời, xác định sự cân bằng và thay đổi tần số gen trong quần thể. Từ thế kỷ XIX, bắt đầu hình thành một hướng sử dụng các qui luật di truyền quần thể vào công tác giống vật nuôi. Các phương pháp thống kê sinh vật học đã được ứng dụng nhiều vào công tác giống. Năm 1921, Wright đã nghiên cứu về sự tương quan di truyền giữa các sinh vật cùng huyết thống và nêu ảnh hưởng của di truyền trong các cách chọn phối khác nhau, tìm ra nguyên nhân, kết quả của các phương pháp đó trên cơ sở toán học. Hiện nay các công trình nghiên cứu của Galton, Wright cùng với luật Hardy-Weinberg là nền móng của di truyền học quần thể. Lush (1945) là một trong những người đầu tiên ứng dụng di truyền quần thể trong ngành chăn nuôi, đã phát triển lý luận của Wright, phân tích sự di truyền các tính trạng số lượng, xác định giá trị giống của con vật và hiệu quả của chọn lọc. Hazel (1945), Handerson, Cunningham (1975) là những người phát triển lý luận chọn lọc theo các tính trạng số lượng và xây dựng được chỉ số chọn lọc được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong công tác giống vật nuôi. Cho đến năm 2000, di truyền học tiếp tục sử dụng các tín hiệu di truyền phân tử, áp dụng phương pháp DNA tái tổ hợp, thực hiện cấy truyền gen (gene transfer) nhằm tạo ra những giống mới, sản phẩm mới có chất lượng cao. Sự phát triển của di truyền học và những sự kiện quan
  20. 3 trọng trong sự hình thành khoa học chọn giống động vật theo tiến trình lịch sử đã được xác định theo bảng dưới đây: Thuần hóa vật nuôi. Chọn lọc cá thể, quần thể riêng rẽ. Năm 1800 Tạo giống mới (vai trò của R. Backwell) Năm 1850 Mendel khám phá ra qui luật di truyền Tổ chức chọn lọc theo tiêu chuẩn. Tổ chức chọn lọc theo dòng Năm 1900 Phục hồi qui luật Mendel Xác định nguyên tắc di truyền số lượng Áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo bò Năm 1950 Áp dụng di truyền số lượng cho từng chủng Watson và Crick xác định mô hình DNA Henderson áp dụng mô hình BLUP Ứng dụng công nghệ sinh học nhằm tăng sản lượng Thực thi cấy truyền phôi Thời đại “thông tin” về chất lượng con giống và sản phẩm Năm 2000 Sử dụng gen chỉ thị. Xác định mầm giới tính từ đầu. Ghép truyền gen. Thực thi cây truyền gen. Nguồn: Animal Breeding. Australia & USA, 1992. Chọn giống vật nuôi là môn khoa học nghiên cứu các qui luật di truyền được ứng dụng trong công tác giống, tìm ra các phương pháp tạo giống, hoàn thiện và nâng cao năng suất và phẩm chất các giống sẵn có. Giống hay phẩm giống trong chăn nuôi là một nhóm vật nuôi hoàn chỉnh của một loài nào đó, có chung nguồn gốc, được tạo thành bởi lao
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2