intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Chương 4: Kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán

Chia sẻ: Thị Huyền | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

437
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau khi đã thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản, thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán, có đủ cơ sở để đưa ra ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán, kiểm toán viên sẽ tập hợp các tài liệu làm việc và các bằng chứng kiểm toán vào hồ sơ kiểm toán và giai đoạn thực hiện kiểm toán hoàn thành. Để tìm hiểu sâu hơn về chu trình này mời các bạn tham khảo "Bài giảng Chương 4: Kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán".

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Chương 4: Kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán

  1. CHƢƠNG 4: KẾT THÚC KIỂM TOÁN VÀ LẬP BÁO CÁO KIỂM TOÁN 1. KẾT THÚC KIỂM TOÁN: Sau khi đã thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản, thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán, có đủ cơ sở để đưa ra ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán, kiểm toán viên sẽ tập hợp các tài liệu làm việc và các bằng chứng kiểm toán vào hồ sơ kiểm toán và giai đoạn thực hiện kiểm toán hoàn thành. Trước khi lập báo cáo kiểm toán ,KTV cần thực hiện các công việc cần thiết như: xem xét các khoản nợ tiềm tàng, xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ, xem xét về giả thiết hoạt động liên tục và đánh giá tổng quát về kết quả kiểm toán . 1.1 Xem xét các khoản nợ tiềm tàng: Nợ tiềm tàng là một khoản nợ có thể xảy ra trong tương lai, phát sinh từ các hoạt động , sự kiện đã xảy ra trong niên độ, nhưng đến ngày kết thúc niên độ vẫn chưa thể xác định dược khả năng xảy ra cũng như ước tính được số tiền phải trả. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18 – Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, nợ tiềm tàng được định nghĩa là: - Nghĩa vụ nợ có khả năng phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra và sự tồn tại của nghĩa vụ nợ này sẽ chỉ được xác nhận bởi khả năng hay xảy ra hoặc không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được; hoặc - Nghĩa vụ nợ hiện tại phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra nhưng chưa được ghi nhận vì: + Không chắc chắn có sự giảm sút về lợi ích kinh tế do việc phải thanh toán nghĩa vụ nợ; hoặc +Giá trị của nghĩa vụ nợ đó không được xác định một cách đáng tin cậy. Các khoản nợ tiềm tàng thường xảy ra là do: - Có các vụ kiện nhằm vào doanh nghiệp về vấn đề vi phạm bản quyền sở hữu công nghiệp, về trách nhiệm đối với sản phẩm, về việc vi phạm hợp đồng kinh tế … nhưng chưa có kết quả xét xử. - Có tranh chấp với cơ quan thuế về các khoản thuế phải nộp. - Có các bảo lãnh về công nợ của đơn vị khác và có dấu hiệu đơn vị đó không có khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ. Theo VAS 18, nếu nghĩa vụ nợ chắc chắn xảy ra và giá trị có thể ước tính được một cách đáng tin cậy thì doanh nghiệp phải ghi nhận một khoản dự phòng vào ngày kết thúc niên độ. Nếu nghĩa vụ nợ chưa chắc chắn xảy ra hoặc giá trị không thể ước tính được một cách đáng tin cậy thì doanh nghiệp phải khai báo về khoản nợ tiềm tàng trên Thuyết minh báo cáo tài chính, vì nó có ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính, và nếu nó thực sự xảy ra thì sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến thực trạng tài chính của doanh nghiệp . Nếu khả năng xảy ra nghĩa vụ nợ là rất thấp, doanh nghiệp không cần khai báo trên Thuyết minh báo cáo tài chính. Việc đánh giá về các nghĩa vụ nợ có thể xảy ra để có quyết định xử lý đúng đắn đòi hỏi sự xét đoán nghề nghiệp của KTV. Như vậy, KTV cần tiến hành các thủ tục kiểm toán cần thiết để phát hiện các khoản nợ tiềm tàng và yêu cầu doanh nghiệp khai báo trên Thuyết minh báo cáo tài chính. Các thủ tục có thể sử dụng là: - Trao đổi với người quản lý đơn vị về khả năng có các khoản nợ tiềm tàng chưa được khai báo. Do người quản lý đơn vị có thể chưa hiểu hết các yêu cầu về công khai thông tin trên 1
  2. báo cáo tài chính , nên KTV cần mô tả rõ về bản chất các khoản nợ tiềm tàng cần khai báo, đồng thời yêu cầu người quản lý cung cấp một văn bản giải trình xác định là đã khai báo đầy đủ các khoản nợ tiềm tàng mà doanh nghiệp đã xác định được. - Gửi thư yêu cầu luật sư, hay tư vấn pháp lý của doanh nghiệp cung cấp thư xác nhận về các vụ kiện đang xét xử, đánh giá của luật sư về khả năng doanh nghiệp phải bồi thường và ước tính giá trị thiệt hại. - Đọc các biên bản họp cổ đông, họp HĐQT, ban giám đốc… để tìm dấu hiệu của các vụ kiện hoặc các vấn đề bất lợi khác. - Đọc các hợp đồng , khế ước vay, hợp đồng thuê vad các thông báo từ cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước khác. - Thu thập thông tin về các khoản bảo lãnh nợ cho đơn vị khác từ xác nhận của ngân hàng. - Phân tích chi phí pháp lý của năm kiểm toán và xem xét các tài liệu, hoá đơn từ luật sư, hay tư vấn pháp lý của doanh nghiệp để tìm dấu hiệu của các khoản nợ tiềm tàng. Sau khi thu thập thông tin từ các thủ tục kiểm toán nêu trên, KTV phải đánh giá trường hợp nào phải khai báo về khoản nợ tiềm tàng trên Thuyết minh báo cáo tài chính, và trường hợp không cần khai báo. 1.2. Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ: Sau ngày kết thúc niên độ, có thể xảy ra các sự kiện có ảnh hưởng đến thực trạng tài chính của doanh nghiệp và đến báo cáo của KTV. KTV có trách nhiệm xem xét các sự kiện này, như qui định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560- Các sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính : “ KTV phải xem xét ảnh hưởng của các sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính đối với báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán “. Theo VSA 560, các sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính là những sự kiện có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính đã phát sinh trong khoảng thời gian từ sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính đến ngày ký báo cáo kiểm toán , và các sự kiện được phát hiện sau ngày ký báo cáo kiểm toán. Trước khi lập báo cáo kiểm toán ,tất nhiên KTV phải quan tâm đến các sự kiện phát sinh đến ngày ký báo cáo kiểm toán . Theo VAS 23- Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm, có 2 loại sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ: Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ cần điều chỉnh báo cáo tài chính và Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ không cần điều chỉnh. 121. Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ cần điều chỉnh báo cáo tài chính: Đây là các sự kiện cung cấp thêm bằng chứng về các sự kiện đã tồn tại vào ngày kết thúc niên độ, và có ảnh hưởng đến các đánh giá trong quá trình lập báo cáo tài chính , do đó cần phải điều chỉnh báo cáo tài chính . Ví dụ: - Kết luận của toà án về một vụ kiện đang xét xử được công bố sau ngày kết thúc niên độ, xác nhận doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thanh toán một khoản bồi thưòng có giá trị lớn. Nếu doanh nghiệp chưa lập dự phòng phải trả cho khoản nợ này, KTV cần yêu cầu doanh nghiệp lập dự phòng. Nếu doanh nghiệp đã lập dự phòng, có thể phải điều chỉnh mức lập dự phòng theo thông tin mới nhận được, 2
  3. - Một khách hàng quan trọng của doanh nghiệp bị phá sản sau ngày kết thúc niên độ đã cung cấp bằng chứng về khả năng không thu hồi được của khoản phải thu đối với khách hàng, do vậy cần tăng mức dự phòng phải thu khó đòi cần lập tương ứng với giá trị khoản phải thu không thể thu hồi. - Hàng tồn kho được bán sau ngày kết thúc niên độ với giá trị thấp hơn giá trị ghi sổ cung cấp bằng chứng về giá trị thuần có thể thực hiện của hàng tồn kho tại ngày kết thúc niên độ, đòi hỏi phải điều chỉnh mức lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. - Việc xác nhận sau ngày kết thúc niên độ về giá gốc của tài sản đã mua hoặc số tiền thu được từ việc bán tài sản trong năm, đòi hỏi phải điều chỉnh giá gốc của tài sản hoặc số tiền thu được. - Việc phát hiện những gian lận và sai sót trong niên độ đòi hỏi phải điều chỉnh số liệu trên báo cáo tài chính. 1.2.2. Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ không cần điều chỉnh báo cáo tài chính: Đây là các sự kiện chỉ thực sự xảy ra sau ngày kết thúc niên độ, nên không cần điều chỉnh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, nếu các sự kiện này là trọng yếu, doanh nghiệp phải trình bày trên Thuyết minh báo cáo tài chính về nội dung và số liệu của sự kiện, ước tính ảnh hưởng về tài chính của sự kiện đó, hoặc nêu lý do không thể ước tính được các ảnh hưởng này, theo yêu cầu của VAS 23, đoạn 19. Ví dụ: Sau ngày kết thúc niên độ, một trận hoả hoạn đã xảy ra và thiêu huỷ toàn bộ hàng tồn kho của doanh nghiệp, tổng giá trị thiệt hại là 5 tỷ đồng, Trong trường hợp này, không thể điều chỉnh số liệu trên báo cáo tài chính, vì vào ngày kết thúc niên độ, hàng tồn kho của doanh nghiệp vẫn tồn tại và có chất lượng tốt. Tuy nhiên, giá trị thiệt hại của hàng tồn kho cần được khai báo trên Thuyết minh báo cáo tài chính, vì nếu không khai báo, người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính có thể ngộ nhận về thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ không cần điều chỉnh nhưng cần trình bày trên Thuyết minh báo cáo tài chính theo quy định của VAS 23 bao gồm: - Việc hợp nhất kinh doanh theo quy định của Chuẩn mực kế toán "Hợp nhất kinh doanh" hoặc việc thanh lý công ty con của tập đoàn; - Việc công bố kế hoạch ngừng hoạt động, việc thanh lý tài sản hoặc thanh toán các khoản nợ liên quan đến ngừng hoạt động; hoặc việc tham gia vào một hợp đồng ràng buộc để bán tài sản hoặc thanh toán các khoản nợ; - Mua sắm hoặc thanh lý tài sản có giá trị lớn; - Nhà xưởng sản xuất bị phá hủy vì hỏa hoạn, bão lụt; - Thực hiện tái cơ cấu chủ yếu; - Các giao dịch chủ yếu và tiềm năng của cổ phiếu thường; - Thay đổi bất thường, quan trọng về giá bán tài sản hoặc tỷ giá hối đoái. - Thay đổi về thuế có ảnh hưởng quan trọng đến tài sản, nợ thuế hiện hành hoặc thuế hoãn lại; - Tham gia những cam kết, thỏa thuận quan trọng hoặc những khoản nợ tiềm tàng; - Xuất hiện những vụ kiện tụng lớn 3
  4. Để xác định một sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ có phải điều chỉnh báo cáo tài chính hay không, KTV cần xem xét thời điểm hình thành điều kiện của sự kiện là trước hay sau ngày kết thúc niên độ . Nếu thời điểm hình thành là trước ngày kết thúc niên độ, sự kiện đó có ảnh hưởng trực tiếp đến báo cáo tài chính, và cần phải điều chỉnh số liệu của các khoản mục liên quan. Nếu thời điểm hình thành là sau ngày kết thúc niên độ, doanh nghiệp không cần điều chỉnh số liệu trên báo cáo tài chính, mà chỉ cần khai báo trên Thuyết minh báo cáo tài chính. Ví dụ: Sau ngày kết thúc niên độ, một khách hàng quan trọng của doanh nghiệp bị phá sản, làm cho khoản phải thu đối với khách hàng trở nên không thể đòi được. Nếu nguyên nhân sự phá sản của khách hàng là do tình hình tài chính khó khăn từ trước đó, thì sự kiện khách hàng bị phá sản đã cung cấp bằng chứng rằng khoản phải thu đó không thể thu được vào ngày kết thúc niên độ, do đó KTV cần yêu cầu doanh nghiệp tăng mức dự phòng nợ phải thu khó đòi. Ngược lại, nếu sự phá sản của khách hàng là do nguyên nhân bất ngờ, chẳng hạn như bị thiên tai, hoả hoạn sau ngày kết thúc niên độ, trong trường hợp này, không thể điều chỉnh số liệu trên báo cáo tài chính, vì đến ngày kết thúc niên độ, khách hàng vẫn có khả năng thanh toán khoản nợ phải thu. Thay vào đó, KTV sẽ yêu cầu doanh nghiệp khai báo thông tin này trên Thuyết minh báo cáo tài chính. KTV cần áp dụng các thủ tục kiểm toán thích hợp để phát hiện các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ. Các thủ tục này bao gồm 2 loại: Loại thứ nhất bao gồm các thủ tục kiểm tra số dư cuối năm của các TK, loại thứ hai là các thủ tục chuyên dùng để phát hiện các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ. Loại thứ nhất là các thử nghiệm cơ bản được sử dụng để đánh giá mức độ trung thực, hợp lý của các khoản mục trên báo cáo tài chính, thường là các thủ tục kiểm tra xoay quanh thời điểm khoá sổ. Chẳng hạn, để đánh giá tính có thật cũng như khả năng thu hồi của các khoản nợ phải thu, KTV thường xem xét các khoản nợ phải thu được thu hồi sau ngày kết thúc niên độ như thế nào. Thủ tục này ngoài việc cung cấp bằng chứng về mức độ trung thực, hợp lý của các khoản phải thu còn giúp cho KTV phát hiện nhiều sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ. Loại thứ hai là các thủ tục được sử dụng để phát hiện các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ, thường được thực hiện gần ngày ký báo cáo kiểm toán . Theo VSA 560, các thủ tục này bao gồm: - Xem xét lại các thủ tục do đơn vị quy định áp dụng nhằm bảo đảm mọi sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính đều được xác định. - Xem xét các biên bản Đại hội cổ đông, họp Hội đồng quản trị, họp Ban kiểm soát, họp Ban Giám đốc sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính, kể cả những vấn đề đã được thảo luận trong các cuộc họp này nhưng chưa được ghi trong biên bản. - Xem xét báo cáo tài chính kỳ gần nhất của đơn vị và kế hoạch tài chính cũng như các báo cáo quản lý khác của Giám đốc. - Yêu cầu đơn vị hoặc luật sư của đơn vị cung cấp thêm thông tin về các vụ kiện tụng, tranh chấp đã cung cấp trước đó, hoặc về các vụ kiện tụng, tranh chấp khác (nếu có). - Trao đổi với Giám đốc đơn vị để xác định những sự kiện đã xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính nhưng có khả năng ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, như: + Những số liệu tạm tính hoặc chưa được xác nhận; 4
  5. + Những cam kết, khoản vay hay bảo lãnh mới được ký kết; + Bán hay dự kiến bán tài sản; + Những cổ phiếu hay trái phiếu mới phát hành; + Thoả thuận sáp nhập hay giải thể đã được ký kết hay dự kiến; + Những tài sản bị trưng dụng hay bị phá huỷ do hỏa hoạn hay lụt bão,... + Những rủi ro hay sự kiện có thể xảy ra; + Những điều chỉnh kế toán bất thường đã thực hiện hay dự định thực hiện; + Những sự kiện đã xảy ra hoặc có khả năng xảy ra làm cho các chính sách kế toán đã được sử dụng để lập báo cáo tài chính không còn phù hợp. Khi xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ nhưng trước ngày ký báo cáo kiểm toán, nếu KTV nhận thấy cần phải điều chỉnh báo cáo tài chính hay cần khai báo nhưng nhà quản lý doanh nghiệp không đồng ý thực hiện, KTV có thể lựa chọn đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hay không chấp nhận trong báo cáo kiểm toán, tuỳ theo mức độ trọng yếu của vấn đề. Đối với các sự kiện xảy ra sau ngày ký báo cáo kiểm toán nhưng trước ngày phát hành báo cáo tài chính, nếu KTV biết được các sự kiện có khả năng ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính, KTV cần thảo luận với giám đốc doanh nghiệp để có biện pháp giải quyết phù hợp trong từng trường hợp cụ thể. - Nếu giám đốc doanh nghiệp đồng ý điều chỉnh báo cáo tài chính, KTV sẽ cung cấp cho doanh nghiệp một báo cáo kiểm toán mới dưa trên báo cáo tài chính đã điều chỉnh. Do báo cáo kiểm toán mới không được ký trước ngày ký báo cáo tài chính điều chỉnh, nên KTV phải thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết cho đến ngày ký báo cáo kiểm toán mới. - Nếu giám đốc doanh nghiệp không đồng ý điều chỉnh báo cáo tài chính, KTV sẽ lập lại báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận từng phần hay không chấp nhận, tuỳ theo mức độ ảnh hưởng của sự kiện. Đối với các sự kiện xảy ra sau ngày phát hành báo cáo tài chính, về nguyên tắc KTV không bắt buộc phải kiểm tra bất cứ sự kiện nào có liên quan đến báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Tuy nhiên, nếu KTV biết được các sự kiện có khả năng ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán , KTV cần thảo luận với giám đốc doanh nghiệp về việc phát hành lại báo cáo tài chính. Nếu báo cáo tài chính được phát hành lại, KTV cần thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung và lập lại báo cáo kiểm toán mới trên cơ sở báo cáo tài chính đã sửa đổi. Nếu giám đốc doanh nghiệp không đồng ý phát hành lại báo cáo tài chính, KTV cần thông báo cho giám đốc doanh nghiệpvề những biện pháp mà KTV sẽ thực hiện để ngăn chặn việc các bên thứ 3 sử dụng báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán đã phát hành. 1.3.Xem xét về giả thiết hoạt động liên tục: Hoạt động liên tục là giả thiết cơ bản được sử dụng khi lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp theo yêu cầu của VAS 01- Chuẩn mực chung và VAS 21- Trình bày báo cáo tài chính. Dựa trên giả thiết này, tài sản của doanh nghiệp phải được đánh giá theo giá gốc thay vì giá thị trường. Nếu giả thiết này bị vi phạm, báo cáo tài chính cần được lập trên một cơ sở khác và doanh nghiệp cần phải công bố về giả thiết này. 5
  6. Do yêu cầu của các chuẩn mực kế toán, nên KTV cần xem xét về giả thiết hoạt động liên tục mà doanh nghiệp đã sử dụng trong việc lập báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 570- Hoạt động liên tục (VSA- 570) quy định: “Khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán cũng như khi đánh giá và trình bày ý kiến nhận xét trong báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải luôn xem xét sự phù hợp của giả định "hoạt động liên tục" mà doanh nghiệp đã sử dụng để lập và trình bày báo cáo tài chính.” Khái niệm Hoạt động liên tục được định nghĩa là: Một đơn vị được coi là hoạt động liên tục trong một tương lai gần có thể dự đoán được (ít nhất là một năm kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán) khi không có ý định hoặc yêu cầu phải giải thể, ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động, tìm kiếm sự bảo hộ từ các chủ nợ theo pháp luật và các quy định hiện hành. Khi kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nếu có nghi ngờ về tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết để thu thập bằng chứng nhằm đánh giá về khả năng liên tục hoạt động kinh doanh trong một tương lai có thể dự đoán được của doanh nghiệp. Các dấu hiệu dẫn đến nghi ngờ về khả năng liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể là : Dấu hiệu về mặt tài chính - Đơn vị lâm vào tình trạng nợ phải trả lớn hơn tài sản hoặc nợ phải trả ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động; - Đơn vị có các khoản nợ dài hạn sắp đến hạn trả mà không có khả năng được giãn nợ hoặc không có khả năng thanh toán, hoặc đơn vị phụ thuộc quá nhiều vào các khoản vay ngắn hạn để tài trợ các tài sản dài hạn; - Dấu hiệu về việc cắt bỏ các hỗ trợ tài chính của khách hàng và chủ nợ; - Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh bị âm thể hiện trên báo cáo tài chính hay dự báo trong tương lai; - Đơn vị có các chỉ số tài chính xấu dưới mức bình thường; - Lỗ hoạt động kinh doanh lớn hoặc có sự suy giảm lớn về giá trị của các tài sản được dùng để tạo ra các luồng tiền; - Nợ tồn đọng hoặc ngừng thanh toán cổ tức; - Không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn; - Không có khả năng tuân thủ các điều khoản của hợp đồng tín dụng; - Chuyển đổi từ các giao dịch mua chịu sang mua thanh toán ngay với các nhà cung cấp; - Không có khả năng tìm kiếm các nguồn tài trợ cho việc phát triển các sản phẩm mới thiết yếu hoặc các dự án đầu tư thiết yếu. Dấu hiệu về mặt hoạt động - Đơn vị bị thiếu thành phần lãnh đạo chủ chốt mà không được thay thế; - Đơn vị bị mất một thị trường lớn, mất giấy phép bản quyền hoặc mất một nhà cung cấp quan trọng; - Đơn vị gặp khó khăn về tuyển dụng lao động hoặc thiếu hụt các nguồn cung cấp quan trọng. 6
  7. Các dấu hiệu khác - Không tuân thủ theo các quy định về vốn cũng như các quy định khác của pháp luật; - Đơn vị đang bị kiện và các vụ kiện này chưa được xử lý mà nếu đơn vị thua kiện có thể dẫn đến các khoản bồi thường không có khả năng đáp ứng được; - Thay đổi về luật pháp hoặc chính sách của Nhà nước làm ảnh hưởng bất lợi tới đơn vị; - Các dấu hiệu khác. Khi có các dấu hiệu ảnh hưởng đến khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, KTV cần thực hiện các thủ tục kiểm toán sau đây: - Phân tích và thảo luận với Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán về dự báo luồng tiền, lợi nhuận và một số dự báo liên quan khác. - Phân tích và thảo luận về báo cáo tài chính kỳ gần nhất của đơn vị. - Xem xét điều khoản của các giấy nợ và hợp đồng vay vốn và xác định xem có điều khoản nào bị vi phạm hay không. - Xem xét biên bản Đại hội cổ đông, biên bản họp Hội đồng quản trị, họp Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán, của các phòng, ban quan trọng liên quan khác để tìm hiểu về các vấn đề khó khăn tài chính của đơn vị. - Trao đổi với luật sư của đơn vị về các tranh chấp và kiện tụng đối với đơn vị cũng như tính hợp lý của các đánh giá của Ban Giám đốc về kết quả và ước tính ảnh hưởng về mặt tài chính của các tranh chấp và kiện tụng đó đối với đơn vị. - Xác nhận sự tồn tại, tính hợp pháp và tính hiệu lực của các cam kết về cung cấp hoặc duy trì hỗ trợ tài chính của bên thứ ba và các bên liên quan đồng thời đánh giá khả năng tài chính của các bên này trong việc cung cấp các nguồn vốn bổ sung. - Xem xét kế hoạch của đơn vị được kiểm toán đối với việc giải quyết các đơn đặt hàng của khách hàng chưa được thực hiện. - Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán nhằm xác định những nhân tố giảm nhẹ hoặc ảnh hưởng thêm đến khả năng hoạt động liên tục của đơn vị được kiểm toán. Khi đánh giá khả năng liên tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm toán viên cần xem xét, phân tích các yếu tố tích cực và tiêu cực tác động đến khả năng này. Yếu tố tích cực là các yếu tố giúp doanh nghiệp bảo đảm hoạt động liên tục, như khả năng gia hạn nợ vay, cấp tiền tài trợ, bạn hàng tiếp tục cung cấp hàng với điều kiện chậm trả nợ, có cơ chế mới phù hợp... Còn yếu tố tiêu cực là các yếu tố bất lợi làm tăng khả năng ngừng hoạt động của doanh nghiệp, như khó có thể gia hạn nợ vay, tiếp tục lỗ lớn, thị trường bị thu hẹp… Tùy theo tính trọng yếu của vấn đề, kiểm toán viên có trách nhiệm đánh giá và phát hành loại báo cáo kiểm toán phù hợp tùy theo từng trường hợp cụ thể : - Nếu kiểm toán viên xét thấy đã thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp đảm bảo cho khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp thì điều đó không ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên trong báo cáo kiểm toán. Còn nếu khả năng liên tục hoạt động kinh doanh không bị vi phạm do có những yếu tố tích cực trong kế hoạch hành động của doanh nghiệp, thì kiểm toán viên cần xem xét các kế hoạch và các yếu tố tích cực đó có được thể hiện trong Thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp hay không ? Nếu kiểm toán viên cho là 7
  8. cần thiết nhưng doanh nghiệp không thể hiện điều đó trong Thuyết minh báo cáo tài chính thì tùy theo tình huống, phải đưa ra ý kiến "chấp nhận từng phần" hoặc ý kiến "không chấp nhận". - Khi có nghi ngờ về khả năng liên tục hoạt động kinh doanh, kiểm toán viên cần xác định xem Thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp có trình bày các thông tin liên quan đến vấn đề này không. + Nếu thông tin liên quan đến nghi ngờ về khả năng liên tục hoạt động kinh doanh đã được trình bày đầy đủ và thỏa đáng trong Thuyết minh báo cáo tài chính, thì kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, có bổ sung vào báo cáo kiểm toán một đoạn nhận xét nhấn mạnh đến khả năng liên tục hoạt động kinh doanh, và nhắc lại phần Thuyết minh báo cáo tài chính đã trình bày những yếu tố liên quan. + Nếu thông tin thích hợp về khả năng liên tục hoạt động kinh doanh không được nếu ra trong Thuyết minh báo cáo tài chính, thì tùy từng tình huống, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến "chấp nhận từng phần" hoặc ý kiến "không chấp nhận". - Nếu sau khi thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ sung cần thiết, thu thập các thông tin và phân tích tác động của các yếu tố tích cực và tiêu cực, kiểm toán viên xét thấy doanh nghiệp không thể liên tục hoạt động kinh doanh trong một tương lai có thể dự đoán được thì phải kết luận rằng giả thiết Hoạt động liên tục được sử dụng để lập báo cáo tài chính là không có cơ sở. Nếu như điều này tác động đến một số lớn các khoản mục trên báo cáo tài chính và làm cho báo cáo tài chính bị sai lệch trọng yếu, thì kiểm toán viên phải đưa ra ra ý kiến "không chấp nhận". 1.4. Đánh giá tổng quát kết quả kiểm toán : Trước khi lập báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên cần phải đánh giá tổng quát về các kết quả thu thập được. Công việc này nhằm soát xét lại toàn bộ quá trình kiểm toán, kết quả thu được và cân nhắc các cơ sở để đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính. Để đạt được mục đích này, kiểm toán viên cần tiến hành các công việc sau : - Áp dụng các thủ tục phân tích để đánh giá tính đồng bộ và xác thực của các thông tin tài chính thu thập được, nhất là các số liệu kiểm toán của các khoản mục trên báo cáo tài chính. Thủ tục này giúp kiểm toán viên xác định được những bộ phận cần phải thu thập thêm bằng chứng kiểm toán để làm vững chắc thêm ý kiến của kiểm toán viên, đồng thời nó hạn chế những thiếu sót, tính phiến diện của các thủ tục kiểm toán áp dụng cho từng bộ phận riêng lẻ. - Đánh giá sự đầy đủ của bằng chứng : Đây là công việc của kiểm toán viên chính để đảm bảo rằng mọi khía cạnh quan trọng của cuộc kiểm toán đã được kiểm tra và đánh giá đầy đủ. Để thực hiện mục tiêu này, cần kiểm tra lại chương trình kiểm toán để xem mọi bộ phận của nó đã được hoàn tất đúng đắn và lập hồ sơ kiểm toán đầy đủ không ? Kiểm toán viên cũng cần xem xét chương trình kiểm toán đã điều chỉnh và các thủ tục kiểm toán đã thực hiện đối với các vấn đề phát hiện được trong quá trình kiểm toán. Chẳng hạn, với những sai sót quan trọng phát hiện được trong kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tiêu thụ, chương trình kiểm toán doanh thu có được điều chỉnh thích hợp không ? Nếu kiểm toán viên xét thấy các bằng chứng kiểm toán thu thập được không đủ để kết luận rằng báo cáo tài chính của đơn vị là trung thực và hợp lý, kiểm toán viên sẽ tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung, hoặc phải đưa ra loại báo cáo kiểm toán thích hợp khác với báo cáo "chấp nhận toàn bộ". - Đánh giá tổng hợp các sai sót phát hiện đƣợc : 8
  9. Để có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ kiểm toán viên cần khẳng định rủi ro kiểm toán, hay khả năng xảy ra sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính ở mức độ thấp. Do đó kiểm toán viên cần đánh giá tổng hợp các sai sót phát hiện được trước khi hình thành báo cáo kiểm toán. Trong quá trình thực hiện các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên tìm thấy các sai sót trong số liệu kế toán của đơn vị. Đối với các sai sót trọng yếu, kiểm toán viên lập ra các bút toán điều chỉnh ngay trong quá trình kiểm toán khoản mục có sai sót đó. Tuy các sai sót còn lại sẽ không trọng yếu nếu xét riêng từng sai sót, nhưng có thể sẽ trở nên trọng yếu khi kết hợp với nhau. Vì vậy, trước tiên kiểm toán viên cần đánh giá tổng hợp về các sai sót chưa được điều chỉnh này, xem khi kết hợp lại thì chúng có trở nên trọng yếu hay không ? Để thực hiện điều này, kiểm toán viên cần ghi lại các sai sót chưa được điều chỉnh trong khi kiểm tra các khoản mục. Đến khi chuẩn bị kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên sẽ tiến hành đánh giá tổng hợp ảnh hưởng của chúng đến báo cáo tài chính. Sau đó, kiểm toán viên cần đánh giá tổng hợp các sai sót dự kiến của toàn bộ báo cáo tài chính, vì khi áp dụng kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán, kiểm toán viên không xác định được sai sót thực sự của khoản mục (tổng thể), mà chỉ dựa vào kết quả mẫu để ước tính sai sót của khoản mục, gọi là sai sót dự kiến. Sai sót dự kiến sẽ được so sánh với mức sai sót có thể bỏ qua, để quyết định xem có thể chấp nhận khoản mục đó hay không ? Cuối cùng kiểm toán viên cần tổng hợp toàn bộ sai sót dự kiến của các khoản mục để xem xét chúng có vượt mức trọng yếu của báo cáo tài chính hay không và kết hợp với ảnh hưởng của các sai sót chưa được điều chỉnh. Nếu sai sót tổng hợp này vượt mức trọng yếu hoặc xấp xỉ mức trọng yếu, kiểm toán viên không nên đưa ra báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn bộ. Trong trường hợp này, kiểm toán viên sẽ yêu cầu đơn vị điều chỉnh các sai sót chưa được điều chỉnh, hoặc tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán bổ sung, hoặc đưa ra một báo cáo kiểm toán không chấp nhận hay chấp nhận từng phần báo cáo tài chính của doanh nghiệp. - Rà soát lại hồ sơ kiểm toán : Việc rà soát lại hồ sơ kiểm toán được tiến hành vào thời điểm kết thúc giai đoạn thực hiện kiểm toán, bắt đầu giai đoạn hoàn thành kiểm toán, nhằm mục đích : + Đánh giá công việc của các kiểm toán viên, trợ lý kiểm toán để đảm bảo chất lượng công việc. + Bảo đảm sự tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán. + Khắc phục những thiên lệch trong xét đoán của kiểm toán viên. Để đảm bảo chất lượng kiểm toán, việc kiểm tra lại hồ sơ kiểm toán thường được tiến hành qua từng cấp. Kiểm toán viên chính kiểm tra hồ sơ kiểm toán do các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán thực hiện, phó giám đốc hoặc giám đốc công ty kiểm toán kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ kiểm toán, tập trung vào công việc của kiểm toán viên chính. Trong những cuộc kiểm toán lớn cần có một cuộc kiểm tra toàn bộ hồ sơ kiểm toán do một kiểm toán viên hoàn toàn độc lập với cuộc kiểm toán đó tiến hành, người kiểm tra sẽ đóng vai trò phản biện để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán. - Yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thƣ giải trình của giám đốc: Sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên yêu cầu giám đốc doanh nghiệp cung cấp một văn bản gọi là thư giải trình, trong đó trình bày tóm tắt các vấn đề quan trọng đã được trao đổi giữa giám đốc doanh nghiệp với kiểm toán viên trong suốt quá trình kiểm toán, đồng thời khẳng định một số vấn đề thuộc trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp . Giải trình của giám đốc doanh nghiệp thường nêu rõ: 9
  10. - Báo cáo tài chính của doanh nghiệp đã được lập và trình bày dựa trên các chuẩn mực kế toán hiện hành. - Mọi tài liệu, sổ sách kế toán đã được cung cấp đầy đủ cho KTV. - Doanh nghiệp đã khai báo đầy đủ mọi vấn đề cần thiết theo yêu cầu của các chuẩn mực kế toán hiện hành. Tuy chỉ là một bằng chứng kiểm toán có giá trị thấp nhưng thư giải trình của giám đốc là một thủ tục quan trọng. Do đó, nếu giám đốc doanh nghiệp từ chối cung cấp thư giải trình, KTV có thể đánh giá là phạm vi kiểm toán bị giới hạn, và đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc từ chối đưa ra ý kiến. - Kiểm tra các khai báo trên báo cáo tài chính : kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm tra việc khai báo trên báo cáo tài chính có đúng đắn và đầy đủ theo yêu cầu của chuẩn mực kế toán hay không ? Các khai báo này là những thông tin phải được thể hiện trên Thuyết minh báo cáo tài chính để tránh hiểu lầm khi sử dụng các báo cáo tài chính đó, hoặc để bổ sung các chi tiết cần thiết cho báo cáo tài chính. Ví dụ như cần khai báo về các nguyên tắc và phương pháp kế toán, các khoản nợ tiềm tàng, các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ… Ngoài việc kiểm tra sự khai báo đúng đắn và đầy đủ của các khoản mục, trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên cần xem xét lại toàn bộ các khai báo để đảm bảo tính đầy đủ và đúng đắn của chúng theo đúng yêu cầu của chuẩn mực kế toán. - Xem xét các thông tin khác trong báo cáo thƣờng niên: Tại các công ty cổ phần, các cổ đông thường được cung cấp 1 báo cáo thường niên,đó là một bộ tài liệu bao gồm báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán và báo cáo kiểm toán. Ngoài ra, báo cáo thường niên còn có thể bao gồm các thông tin khác, đó là các thông tin tài chính và phi tài chính, chẳng hạn như báo cáo của ban giám đốc hoặc HĐQT về hoạt động của doanh nghiệp, về tình hình nhân lực, danh sách ban lãnh đạo, về các tỉ số tài chính chủ yếu, và những số liệu theo quý đã được chọn lưa. Giữa thông tin khác và thông tin trong báo cáo tài chính có thể có những điểm không nhất quán hay mâu thuẫn trọng yếu. KTV và công ty kiểm toán cần xem xét những thông tin khác này vì tính đáng tin cậy của báo cáo tài chính đã kiểm toán có thể bị suy giảm vì những điểm không nhất quán giữa thông tin khác và thông tin trong báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 720- Những thông tin khác trong tài liệu có báo cáo tài chính đã kiểm toán quy định: Khi xem xét lại những thông tin khác cùng được trình bày, nếu kiểm toán viên phát hiện ra điểm không nhất quán trọng yếu thì kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải xác định xem liệu có cần sửa đổi báo cáo tài chính được kiểm toán hay sửa đổi những thông tin khác cùng được trình bày trong tài liệu có báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Nếu có điểm không nhất quán trọng yếu là do báo cáo tài chính bị sai lệch, KTV cần yêu cầu doanh nghiệp sửa đổi báo cáo tài chính được kiểm toán. Trong trường hợp doanh nghiệp không chấp nhận sửa đổi, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến không chấp nhận. Nếu có điểm không nhất quán trọng yếu là do những thông tin khác bị sai lệch, KTV sẽ yêu cầu doanh nghiệp điều chỉnh những thông tin khác cùng được trình bày với báo cáo tài chính. Khi doanh nghiệp không chấp nhận sửa đổi, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần phải cân nhắc việc có nên đưa vào trong báo cáo kiểm toán một đoạn nhận xét nêu rõ điểm không nhất quán trọng yếu này hoặc áp dụng những biện pháp khác hay không. Những biện pháp khác như không phát hành báo cáo kiểm toán hoặc rút khỏi hợp đồng kiểm toán sẽ được áp dụng tuỳ thuộc vào tình huống cụ thể, tính chất và mức độ nghiêm 10
  11. trọng của vấn đề còn không nhất quán. Kiểm toán viên cũng phải cân nhắc xem liệu có nên xin ý kiến của chuyên gia tư vấn pháp luật về những biện pháp cần tiến hành hay không. 2. LẬP BÁO CÁO KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 2.1. Khái quát về báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính : Lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính là khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính về thực chất là một bản thông báo về kết quả của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính cho người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính. Nội dung trình bày của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải cung cấp cho người đọc báo cáo những đánh giá của KTV về mức độ trung thực, hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính, cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực kế toán hiện hành khi lập báo cáo tài chính. Cần chú ý là KTV không bảo đảm tuyệt đối rằng không có bất kỳ một sai sót nào trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán, mà chỉ đưa ra bảo đảm rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Về hình thức trình bày, báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải được trình bày bằng văn bản và phải tuân thủ các quy định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700- Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính phải được đính kèm với báo cáo tài chính được kiểm toán khi phát hành. Cùng với báo cáo kiểm toán, công ty kiểm toán có thể phát hành thêm Thư quản lý nhằm đưa ra những ý kiến tư vấn cho doanh nghiệp về những yếu kém trong hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ. Báo cáo kiểm toán là văn bản được kiểm toán viên phát hành để trình bày ý kiến của mình về báo cáo tài chính được kiểm toán, vì vậy nó có vai trò hết sức quan trọng. Đối với kiểm toán viên, báo cáo kiểm toán là tài liệu trình bày các kết luận sau cùng về báo cáo tài chính được kiểm toán, nên phải kết tinh được toàn bộ công việc mà họ đã tiến hành. Đồng thời, báo cáo kiểm toán là sản phẩm của kiểm toán viên cung cấp cho xã hội, nên họ phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình. Đối với người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán là căn cứ để họ đánh giá các thông tin này và đưa ra các quyết định kinh tế. Để đảm bảo vai trò này, báo cáo phải rõ ràng, dễ hiểu để không gây hiểu lầm. Đối với doanh nghiệp được kiểm toán, trong một số trường hợp, báo cáo kiểm toán cùng với thư quản lý còn là căn cứ để đánh giá và cải tiến hoạt động của đơn vị nói chung, công tác kiểm soát nội bộ và công tác kế toán tài chính nói riêng. 2.2. Các yếu tố cơ bản của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính : Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 "Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính" ban hành theo quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27/9/1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, các yếu tố cơ bản của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính gồm : - Tên và địa chỉ của công ty kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ giao dịch, số điện thoại, số Fax và số hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành báo cáo kiểm toán. Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì phải ghi đủ các thông tin nêu trên của các công ty cùng ký báo cáo kiểm toán. - Số hiệu báo cáo kiểm toán : 11
  12. Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm (số đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán). - Tiêu đề báo cáo kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do người khác lập. Báo cáo kiểm toán được phép sử dụng tiêu đề "Báo cáo kiểm toán", hoặc "Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính", hoặc "Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm...... của công ty...." - Người nhận báo cáo kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ người được nhận báo cáo kiểm toán phù hợp với hợp đồng kiểm toán, có thể là Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc các cổ đông của đơn vị được kiểm toán. - Mở đầu của báo cáo kiểm toán : Trong phần mở đầu của báo cáo kiểm toán phải ghi rõ các báo cáo tài chính là đối tượng của cuộc kiểm toán cũng như ghi rõ ngày lập và phạm vi niên độ tài chính mà báo cáo tài chính đó phản ánh. Đồng thời báo cáo kiểm toán cũng phải khẳng định rõ ràng việc lập báo cáo tài chính là thuộc trách nhiệm của Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của mình. - Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán bằng cách khẳng định rằng công việc kiểm toán đã được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận. Báo cáo kiểm toán cũng phải ghi rõ là công việc kiểm toán đã được lập kế hoạch và thực hiện để có được sự đảm bảo hợp lý là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng những sai sót trọng yếu. Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ các công việc và thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên đã thực hiện trong quá trình kiểm toán như : + Các phương pháp, kỹ thuật kiểm toán được áp dụng, những bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trong báo cáo tài chính. + Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), đánh giá các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng để lập báo cáo tài chính. + Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng đã được giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán thực hiện khi lập báo cáo tài chính. + Đánh giá việc trình bày toàn bộ tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính. Trong phần này của báo cáo kiểm toán cũng phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên. - Ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về các báo cáo tài chính trên phương diện trình bày trung thực và hợp lý tình hình tài chính của đơn vị trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. - Địa điểm và thời gian lập báo cáo kiểm toán : Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ ngày, tháng, năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Điều này cho phép người sử dụng báo cáo tài chính biết rằng kiểm toán viên đã xem xét đến các sự kiện (nếu có) ảnh hưởng đến báo cáo tài chính hoặc báo cáo kiểm toán cho đến tận ngày 12
  13. ký báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán cũng phải ghi rõ địa điểm (tỉnh, thành phố) của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Ngày ký báo cáo kiểm toán không được ghi trước ngày giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị ký báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày ký báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng ngày với ngày ký báo cáo tài chính. - Chữ ký và đóng dấu : Báo cáo kiểm toán phải ký rõ tên của kiểm toán viên đã đăng ký hành nghề ở Việt Nam, người chịu trách nhiệm kiểm toán, và ký rõ tên của giám đốc (hoặc người được ủy quyền) của công ty kiểm toán (hoặc chi nhánh công ty) chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Người được ủy quyền ký báo cáo kiểm toán có thể là phó giám đốc công ty, giám đốc hoặc phó giám đốc chi nhánh, phải là người có giấy phép hành nghề kiểm toán ở Việt Nam và phải được giám đốc công ty ủy quyền bằng văn bản. Dưới mỗi chữ ký nói trên phải ghi rõ họ tên, số hiệu giấy đăng ký hành nghề kiểm toán ở Việt Nam. Trên chữ ký của giám đốc (hoặc người được ủy quyền) phải đóng dấu của công ty (hoặc chi nhánh) chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Giữa các trang của báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính đã được kiểm toán phải đóng dấu giáp lai. Trường hợp có từ hai công ty kiểm toán trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì báo cáo kiểm toán phải được ký bởi giám đốc hoặc người được ủy quyền của đủ các công ty kiểm toán theo đúng thủ tục. Trường hợp này kiểm toán viên chịu trách nhiệm kiểm toán không phải ký tên trên báo cáo kiểm toán. 2.3. Các loại ý kiến của KTV trên báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính : Tuỳ theo kết quả kiểm toán, KTV có thể đưa ra 1 trong 4 loại ý kiến sau: - Ý kiến chấp nhận toàn phần (hay chấp nhận toàn bộ) - Ý kiến chấp nhận từng phần (chấp nhận có loại trừ) - Ý kiến không chấp nhận (ý kiến trái ngược) - Ý kiến từ chối nhận xét (không thể đưa ra ý kiến) Báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần là loại báo cáo được doanh nghiệp mong muốn nhất, vì vậy, nó cũng là loại báo cáo được sử dụng nhiều nhất, vì trong đa số trường hợp, doanh nghiệp sẽ đồng ý điều chỉnh báo cáo tài chính để nhận được báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần. KTV sẽ không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần khi có những tình huống ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính như: - Phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn - Có sự bất đồng ý kiến giữa KTV và giám đốc doanh nghiệp được kiểm toán về việc lựa chọn các phương pháp kế toán và áp dụng các chuẩn mực kế toán, hoặc có sự không phù hợp của các thông tin trình bày trên báo cáo tài chính. - Có những tình huống chưa rõ ràng, tức là những tình huống phụ thuộc vào 1 sự kiên tương lai hoặc phụ thuộc vào bên thứ ba. Khi gặp các tình huống trên, tuỳ theo mức độ ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, KTV có thể đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến không chấp nhận hoặc ý kiến từ chối nhận xét. 13
  14. Khi đưa ra ý kiến khác với ý kiến chấp nhận toàn phần, KTV phải mô tả rõ ràng trong báo cáo kiểm toán tất cả những lý do chủ yếu dẫn đến ý kiến đó và định lượng, nếu được, những ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Thông thường, các thông tin này được ghi trong một đoạn riêng nằm trước đoạn đưa ra ý kiến của kiểm toán viên, và có thể tham chiếu đến một đoạn thuyết minh chi tiết hơn trong báo cáo tài chính (nếu có). a. Ý kiến chấp nhận toàn phần : Báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành. Báo cáo dạng này cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Ví dụ : "Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc vào ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan". Báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần cũng được sử dụng trong trường hợp báo cáo tài chính được kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện và đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, vì thế báo cáo tài chính sau khi điều chỉnh được kiểm toán viên chấp nhận. Lúc này KTV sẽ diễn đạt như sau “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính sau khi đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...”. Trong trường hợp báo cáo kiểm toán có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính, và không có ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán thì ý kiến chấp nhận toàn phần vẫn được sử dụng. Đoạn nhận xét hay giải thích này thường được đặt sau đoạn đưa ra ý kiến nhằm giúp người đọc đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nêu ra đến báo cáo tài chính. Cách diễn đạt trong trường hợp này như sau: “Ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc báo cáo tài chính đến điểm X trong phần thuyết minh báo cáo tài chính: Công ty ABC đã đưa vào sử dụng công trình xây dựng có giá trị XX VNĐ, 3 tháng trước ngày kết thúc niên độ tài chính, nhưng chưa ghi tăng tài sản cố định, chưa tính khấu hao và cũng chưa lập dự phòng. Điều này cần được thuyết minh rõ ràng trong báo cáo tài chính...”. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 570, báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần có thêm đoạn nhấn mạnh cũng được sử dụng trong trường hợp có yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể gây ra sự nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp đã khai báo đầy đủ. Dưới đây là một ví dụ về đoạn nhấn mạnh trong báo cáo kiểm toán khi kiểm toán viên hài lòng về sự đầy đủ trong thuyết minh báo cáo tài chính: "Ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc báo cáo tài chính đến điểm X trong phần thuyết minh báo cáo tài chính: khoản lỗ thuần của đơn vị là ZZZ trong năm tài chính kết thúc ngày 31 tháng 12 năm 20X0 và tại ngày này, khoản nợ ngắn hạn của đơn vị vượt quá tổng tài sản là ZZZ. Những điều kiện này, cùng với những vấn đề khác được nêu trong điểm X trong phần thuyết minh, chỉ ra sự tồn tại của yếu 14
  15. tố không chắc chắn trọng yếu có thể gây ra sự nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị". b. Ý kiến chấp nhận từng phần : Báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận từng phần được phát hành trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tùy thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán. - Trường hợp có yếu tố tuỳ thuộc: Yếu tố tuỳ thuộc là yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn,thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và kiểm toán viên. Việc đưa ra yếu tố tuỳ thuộc cho phép kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra. Cách diễn đạt trong trường hợp này như sau: “Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan, tuỳ thuộc vào: - Khoản doanh thu XX VNĐ được chấp nhận; - Khoản chi XY VNĐ được Hội đồng quản trị thông qua”. - Trường hợp có yếu tố ngoại trừ: trong trường hợp này, KTV có thể bị giới hạn về phạm vi kiểm toán hoặc bất đồng ý kiến với giám đốc doanh nghiệp về việc áp dụng chuẩn mực kế toán . + Trƣờng hợp bị giới hạn phạm vi kiểm toán : Khi bị giới hạn phạm vi kiểm toán, KTV không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán mà KTV cho là cần thiết. Sự giới hạn phạm vi kiểm toán có thể là do doanh nghiệp, chẳng hạn như giám đốc doanh nghiệp không đồng ý cho KTV gửi thư yêu cầu khách hàng xác nhận công nợ, nhưng cũng có thể là do khách quan, chẳng hạn như do được mời kiểm toán sau ngày kết thúc niên độ, nên KTV không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho, hay do tài liệu kế toán không đầy đủ. Khi phạm vi kiểm toán bị giới hạn, KTV cần sử dụng các thủ tục kiểm toán thay thế để thu thập bằng chứng kiểm toán. Nếu có thể thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có hiệu lực, KTV có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Nếu không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng, KTV sẽ đưa ra ý kiến từ chối, hoặc ý kiến chấp nhận từng phần, tuỳ theo tình huống cụ thể. Ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng vẫn có đủ bằng chứng để kết luận về tổng thể báo cáo tài chính là trung thực và hợp lý, ngoại trừ 1 số khoản mục. Ví dụ về trường hợp này là: “...Chúng tôi đã không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 31/12/X, vì tại thời điểm đó chúng tôi chưa được bổ nhiệm làm kiểm toán. Với những tài liệu hiện có ở đơn vị, chúng tôi cũng không thể kiểm tra được tính đúng đắn của số lượng hàng tồn kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. 15
  16. Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính vì lý do nêu trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...” + Trƣờng hợp bất đồng ý kiến với giám đốc: Trong trường hợp này, ý kiến chấp nhận từng phần chỉ được đưa ra khi ảnh hưởng của vấn đề bất đồng chưa phải là trọng yếu. Sau đây là ví dụ về trường hợp này “... Như đã nêu trong phần thuyết minh X của báo cáo tài chính, đơn vị đã không tính khấu hao TSCĐ, trong khi TSCĐ này đã thực sự được sử dụng trên 6 tháng, với mức khấu hao đáng lẽ phải tính là XXX VNĐ. Do vậy, chi phí kinh doanh đã bị thiếu và giá trị thuần của TSCĐ đã cao hơn thực tế với giá trị tương đương XXX VNĐ, làm cho lãi tăng giả tạo XXX VNĐ. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính của sự kiện trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...” Trong trường hợp có yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể gây ra sự nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp đã không khai báo đầy đủ trong báo cáo tài chính, KTV cũng có thể đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, nếu vấn đề chưa phải là nghiêm trọng. Duới đây là ví dụ một đoạn báo cáo tương ứng với việc đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần trong trường hợp này: "Các thỏa thuận tài chính của đơn vị đã hết hạn và số dư còn lại sẽ phải thanh toán vào ngày 19 tháng 3 năm 20X1. Đơn vị đã không thể tiếp tục đàm phán hoặc đạt được một thoả thuận tài chính thay thế. Thực tế này cho thấy tồn tại yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể gây nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị, do đó đơn vị có thể không thực hiện được giá trị tài sản và thanh toán các khoản nợ phải trả trong điều kiện hoạt động bình thường. Báo cáo tài chính (và các thuyết minh kèm theo) đã không trình bày vấn đề này. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ sự bỏ sót các thông tin nêu trong đoạn trên, báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của đơn vị tại ngày 31 tháng 12 năm 20X0 cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc cùng ngày phù hợp với..." c. Ý kiến không chấp nhận : Báo cáo kiểm toán với ý kiến không chấp nhận là trường hợp ngược lại của báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn phần. Trong trường hợp này, KTV đưa ra nhận xét rằng báo cáo tài chính của đơn vị không trình bày một cách hợp lý về tình hình tài chính và kết quả hoạt động theo các chuẩn mực kế toán hiện hành. Báo cáo dạng này được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của báo cáo tài chính, có nghĩa là báo cáo tài chính đã phản ánh không trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị. Khi đưa ra ý kiến không chấp nhận, kiểm toán viên phải thu thập đủ bằng chứng để làm cơ sở cho ý kiến của mình. Trong báo cáo kiểm toán dạng này, kiểm toán viên phải trình bày phần giải thích về lý do không chấp nhận, và nêu những ảnh hưởng chính của nó đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị. Ví dụ minh hoạ cho báo cáo kiểm toán với ý kiến không chấp nhận là: “... Trong báo cáo tài chính, giá trị TSCĐ là XXX VNĐ; khoản vay công ty B là XY VNĐ đã không phản ánh trong sổ kế toán và không có chứng từ kế toán xác minh... 16
  17. Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nói trên, báo cáo tài chính đã phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...” Trong trường hợp có yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể gây ra sự nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp đã không khai báo đầy đủ trong báo cáo tài chính,nếu vấn đề là nghiêm trọng, KTV sẽ đưa ra ý kiến không chấp nhận. Dưới đây là ví dụ về một đoạn báo cáo tương ứng với việc đưa ra ý kiến không chấp nhận: "Các cam kết tài chính của đơn vị đã hết hạn và số dư còn lại sẽ phải thanh toán vào ngày 31 tháng 12 năm 20X0. Đơn vị đã không thể tiếp tục đàm phán hoặc đạt được một thoả thuận tài chính thay thế và đang xem xét công bố phá sản. Những sự kiện này cho thấy có yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể gây ra sự nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị và do đó đơn vị có thể không có khả năng thực hiện giá trị tài sản hoặc thanh toán các khoản nợ phải trả trong kỳ hoạt động bình thường. Báo cáo tài chính và các thuyết minh kèm theo đã không trình bày vấn đề này. Theo ý kiến của chúng tôi, do sự bỏ sót các thông tin đề cập trong đoạn trên, báo cáo tài chính không phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của đơn vị tại ngày 31 tháng 12 năm 20X0, cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc cùng ngày phù hợp với..." (và không tuân thủ với...)..." Thông thường báo cáo kiểm toán với ý kiến không chấp nhận ít được phát hành vì đa số các doanh nghiệp sẽ đồng ý điều chỉnh lại báo cáo tài chính theo yêu cầu của kiểm toán viên để đảm bảo sự trình bày trung thưc và hợp lý. d. Ý kiến từ chối nhận xét (không thể đƣa ra ý kiến): Báo cáo kiểm toán từ chối nhận xét được đưa ra trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc việc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính. Các giới hạn nghiêm trọng về phạm vi kiểm toán là những giới hạn mà mức độ trọng yếu của nó khiến cho một báo cáo chấp nhận từng phần là không thích hợp. Trong thực tế điều này cũng ít xảy ra vì kiểm toán viên đã phải dự trù những vấn đề có thể nảy sinh ngay từ giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Khi đưa ra báo cáo từ chối nhận xét, kiểm toán viên phải nêu rõ lý do khiến kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính của đơn vị. Ví dụ minh hoạ cho báo cáo kiểm toán với ý kiến từ chối là: “...Do những hạn chế từ phía đơn vị mà chúng tôi đã không kiểm tra được toàn bộ doanh thu, cũng không nhận được đủ các bản xác nhận nợ phải thu từ khách hàng, và vì tính trọng yếu của các sự kiện này, chúng tôi từ chối đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị”. Báo cáo từ chối nhận xét và báo cáo với ý kiến không chấp nhận có điểm giống nhau là cả hai chỉ được đưa ra trong những điều kiện nghiêm trọng, khi mà một báo cáo chấp nhận từng phần không còn thích hợp với mức trọng yếu của vấn đề. Tuy nhiên, đây là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau : báo cáo từ chối nhận xét dùng trong trường hợp kiểm toán viên không đủ thông tin để kết luận báo cáo tài chính trình bày hợp lý hay không hợp lý, còn báo cáo không chấp nhận được đưa ra khi kiểm toán viên có đủ bằng chứng để kết luận báo cáo tài chính trình bày không hợp lý. KTV không được sử dụng báo cáo từ chối nhận xét để tránh đưa ra ý kiến không chấp nhận 17
  18. Tóm lại, kiểm toán viên sẽ không đưa ra báo cáo chấp nhận toàn phần trong trường hợp xảy ra một trong các tình huống có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính như phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn, hoặc kiểm toán viên không nhất trí với giám đốc doanh nghiệp được kiểm toán về việc lựa chọn và áp dụng chuẩn mực kế toán, hoặc có sự không phù hợp của các thông tin ghi trong báo cáo tài chính . Các tình huống này có thể dẫn đến ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến từ chối hay không chấp nhận. P H Ụ L Ụ C SỐ 01 : V Í D Ụ B Á O C Á O K I Ể M TO Á N CH Ấ P N H Ậ N TOÀN PHẦN CÔNG TY KIỂM TOÁN XYZ Địa chỉ, điện thoại, fax... Số :.............. B ÁO CÁO K IỂ M TO ÁN VỀ B ÁO CÁO T ÀI CH ÍNH NĂM ... CỦA C Ô NG T Y AB C Kính gửi: Hội đồng quản trị và Giám đốc Công ty ABC Chúng tôi đã kiểm toán báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán tại ngày 31/12/X, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính năm tài chính kết thúc ngày 31/12/X được lập ngày ... của Công ty ABC từ trang ... đến trang ... kèm theo. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính này thuộc trách nhiệm của Giám đốc công ty. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến về các báo cáo này căn cứ trên kết quả kiểm toán của chúng tôi. Cơ sở ý kiến: Chúng tôi đã thực hiện công việc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Các chuẩn mực này yêu cầu công việc kiểm toán lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp lý rằng các báo cáo tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu và áp dụng các thử nghiệm cần thiết, các bằng chứng xác minh những thông tin trong báo cáo tài chính; đánh giá việc tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng, các ước tính và xét đoán quan trọng của Giám đốc cũng như cách trình bày tổng quát các báo cáo tài chính. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đã đưa ra những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi. Ý kiến của kiểm toán viên: Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. Hà Nội, ngày... tháng... năm ... CÔNG TY KIỂM TOÁN XYZ Kiểm toán viên Giám đốc (Họ và tên, chữ ký) (Họ và tên, chữ ký, đóng dấu) Số đăng ký hành nghề... Số đăng ký hành nghề... 18
  19. P H Ụ L Ụ C SỐ 02 : V Í D Ụ B Á O C Á O K I Ể M TO Á N CH Ấ P N H Ậ N T O À N P H Ầ N ( C Ó ĐO Ạ N G H I TH Ê M Ý K I Ế N ) CÔNG TY KIỂM TOÁN XYZ Địa chỉ, điện thoại, fax... Số :.............. B ÁO CÁO K IỂ M TO ÁN VỀ B ÁO CÁO T ÀI CH ÍNH NĂM ... CỦA CÔ NG T Y AB C Kính gửi: Hội đồng quản trị và Giám đốc Công ty ABC Chúng tôi đã ... (Xem Phụ lục số 01). Cơ sở ý kiến: (Xem Phụ lục số 01) Ý kiến của kiểm toán viên: Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan, tuỳ thuộc vào: - Khoản doanh thu XX VNĐ được chấp nhận; - Khoản chi XY VNĐ được Hội đồng quản trị thông qua. Hà Nội, ngày... tháng... năm ... CÔNG TY KIỂM TOÁN XYZ Kiểm toán viên Giám đốc (Họ và tên, chữ ký) (Họ và tên, chữ ký, đóng dấu) Số đăng ký hành nghề... Số đăng ký hành nghề... 19
  20. P H Ụ L Ụ C SỐ 03 : V Í D Ụ B ÁO C Á O K I ỂM TO Á N CH Ấ P N H Ậ N TỪNG PHẦN (ý kiến ngoại trừ) CÔNG TY KIỂM TOÁN XYZ Địa chỉ, điện thoại, fax... Số :.............. B ÁO CÁO K IỂ M TO ÁN VỀ B ÁO CÁO T ÀI CH ÍNH NĂM ... CỦA CÔ NG T Y AB C Kính gửi: Hội đồng quản trị và Giám đốc Công ty ABC Chúng tôi đã... (Xem Phụ lục số 01). Cơ sở ý kiến: (Xem Phụ lục số 01) Ý kiến của kiểm toán viên: Chúng tôi đã không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho vào ngày 31/12/X, vì tại thời điểm đó chúng tôi chưa được bổ nhiệm làm kiểm toán. Với những tài liệu hiện có ở đơn vị chúng tôi cũng không thể kiểm tra được đúng đắn số lượng hàng tồn kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) đến báo cáo tài chính vì lý do nêu trên, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty ABC tại ngày 31/12/X, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/X, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. Hà Nội, ngày... tháng... năm ... CÔNG TY KIỂM TOÁN XYZ Kiểm toán viên Giám đốc (Họ và tên, chữ ký) (Họ và tên, chữ ký, đóng dấu) Số đăng ký hành nghề... Số đăng ký hành nghề... 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2