intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Nguyên lý thống kê: Bài 2 - Tổ hợp GD TOPICA

Chia sẻ: Cảnh Đặng Xuân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

214
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài 2 Quá trình nghiên cứu thống kê, mục tiêu bài học này nhằm giúp người học nắm được những vấn đề chung nhất về điều tra thống kê, giới thiệu một số vấn đề chung về giai đoạn tổng hợp thống kê và tập trung đi sâu vào phương pháp tổng hợp số liệu thống kê đã có, giới thiệu một số vấn đề chung về giai đoạn phân tích và dự đoán thống kê.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Nguyên lý thống kê: Bài 2 - Tổ hợp GD TOPICA

  1. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê 0 BÀI 2: QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU THỐNG KÊ Nội dung Mục tiêu  Điều tra thống kê.  Giúp học viên nắm được những vấn đề  Tổng hợp thống kê. chung nhất về điều tra thống kê.  Phân tích và dự đoán thống kê.  Giới thiệu một số vấn đề chung về giai đoạn tổng hợp thống kê và tập trung đi sâu vào phương pháp tổng hợp số liệu thống kê đã có.  Giới thiệu một số vấn đề chung về giai đoạn phân tích và dự đoán thống kê. Thời lượng học Hướng dẫn học  10 tiết  Đọc tài liệu và trao đổi lại với giáo viên và các học viên khác về những nội dung còn chưa nắm rõ.  Tìm đọc phương án điều tra của một số cuộc điều tra lớn để hiểu rõ hơn bài học.  Có thể tự xây dựng một phương án điều tra thống kê nhằm thu thập thông tin về một vấn đề mà mình quan tâm.  Làm bài tập phần phân tổ thống kê. v1.0 15
  2. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê TÌNH HUỐNG DẪN NHẬP Tình huống: Hàm lượng canxi trong sữa Thời gian qua, trên thị trường sữa Việt Nam xôn xao thông tin dư luận về sự kiện hàm lượng canxi của hãng sữa Mead Johnson cao hơn mức công bố. Điều này ít nhiều đã ảnh hưởng đến hình ảnh và doanh số bán hàng của hãng. Bạn, với vai trò là một nhân viên làm công tác thống kê của hãng được yêu cầu phải đánh giá tình hình thị trường sữa ở Việt Nam trước và sau sự việc này. Câu hỏi 1. Bạn quyết định thực hiện một nghiên cứu thống kê để trên cơ sở đó viết báo cáo đánh giá. Vậy bạn sẽ thực hiện nghiên cứu đó như thế nào? 2. Bài học này sẽ giúp bạn tìm hiểu một quá trình nghiên cứu thống kê bao gồm những giai đoạn nào và nội dung cụ thể của từng giai đoạn đó. 16 v1.0
  3. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê Bài học sẽ tập trung đi sâu vào nội dung cơ bản của 3 giai đoạn chủ yếu trong quá trình nghiên cứu thống kê: điều tra thống kê, tổng hợp thống kê và phân tích thống kê. 2.1. Điều tra thống kê 2.1.1. Khái niệm chung về điều tra thống kê 2.1.1.1. Khái niệm Điều tra thống kê là việc tổ chức thu thập tài liệu về các hiện tượng và quá trình kinh tế – xã hội một cách khoa học, theo một kế hoạch thống nhất nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu thống kê. Ví dụ: Để nghiên cứu về tình hình thị trường sữa ở Việt Nam trước và sau sự kiện hàm lượng canxi của hãng Mead Johnson, bước đầu, bạn sẽ phải tổ chức điều tra thống kê nhằm thu thập thông tin về các chủng loại sữa đang được bán trên thị trường, giá cả, doanh số, thị phần... Từ khái niệm về điều tra thống kê ở trên ta thấy, điều tra không phải tuỳ tiện mà phải được thực hiện một cách khoa học và có tổ chức, nghĩa là phải xác định cụ thể trình tự các công việc cần tiến hành theo mốc thời gian qui định và phải bố trí công việc hợp lý. Ngoài ra, việc thực hiện theo một kế hoạch thống nhất tức là phải thực hiện theo yêu cầu chung quy định trước cuộc điều tra như thống nhất về đối tượng, phạm vi, thời gian, nội dung thu thập... Một cuộc điều tra thống kê được tổ chức khoa học, thống nhất chắc chắn sẽ thu thập được nhiều số liệu thống kê có chất lượng cao và có mối liên hệ tốt làm cơ sở cho quá trình phân tích thống kê. 2.1.1.2. Ý nghĩa của điều tra thống kê Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nghiên cứu thống kê. Tài liệu về hiện tượng nghiên cứu thu thập trong giai đoạn này nhằm phục vụ cho giai đoạn phân tích và tổng hợp thống kê. Không có tài liệu thì không thể có nghiên cứu thống kê. Chất lượng của tài liệu có ảnh hưởng trực tiếp tới độ tin cậy của kết quả nghiên cứu sau này. Để đảm bảo chất lượng phục vụ cho quá trình nghiên cứu, điều tra thống kê phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định. 2.1.1.3. Một số yêu cầu cơ bản của điều tra thống kê Tài liệu của điều tra thống kê phải đáp ứng 3 yêu cầu cơ bản sau:  Chính xác: Tài liệu phải được thu thập chính xác, khách quan, phản ánh đúng tình hình thực tế của hiện tượng. Đây là yêu cầu hết sức quan trọng, là cơ sở để phân tích, tính toán nhằm rút ra kết luận đúng đắn về hiện tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, độ chính xác trong thống kê không mang ý nghĩa tuyệt đối như trong kế toán. Do thống kê nghiên cứu hiện tượng số lớn nên chắc chắn sẽ có sai lệch. Độ sai lệch cho phép trong thống kê là ± 5%. v1.0 17
  4. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê  Kịp thời: Tài liệu phải được thu thập kịp thời, tức là theo đúng thời hạn qui định. Bên cạnh đó, tính kịp thời còn thể hiện ở chỗ tài liệu phải được cung cấp đúng lúc khi người sử dụng cần. Tại sao phải kịp thời? Như bài 1 đã trình bày, mặt lượng của hiện tượng thường xuyên thay đổi, nếu không thu thập kịp thời, nó sẽ thay đổi; khi đó không phản ánh đúng hiện tượng được nữa. Ngoài ra còn có một ý nghĩa thực tiễn khác là kịp thời để còn có chính sách phù hợp. Ví dụ: Khi có thiên tai, lũ lụt,... phải kịp thời thống kê được thiệt hại cả về người và của để có chính sách cứu trợ hợp lý.  Đầy đủ: Tài liệu phải được thu thập đầy đủ trên 2 phương diện: o Về nội dung: phải theo đúng nội dung như trong kế hoạch và phương án điều tra. o Về số đơn vị điều tra: đảm bảo số lượng đơn vị theo yêu cầu. Ví dụ: Trong điều tra toàn bộ thì toàn bộ các đơn vị phải được điều tra. Còn trong điều tra chọn mẫu thì phải chọn mẫu đủ lớn và đảm bảo tính đại diện. Hàng năm, người ta tiến hành hàng trăm các cuộc điều tra khác nhau. Có cuộc điều tra do ngành thống kê tổ chức nhưng cũng có cuộc điều tra do các ngành khác tổ chức. Vậy có những loại điều tra nào trong thực tế? 2.1.2. Các loại điều tra thống kê 2.1.2.1. Điều tra thường xuyên và không thường xuyên Nếu căn cứ vào tính liên tục của việc ghi chép tài liệu ban đầu, điều tra thống kê được chia thành hai loại:  Điều tra thường xuyên: là việc thu thập tài liệu được tiến hành thường xuyên, liên tục, gắn liền với quá trình biến động của hiện tượng qua thời gian. Ví dụ: doanh số ngày bán hàng, ghi chép tình hình xuất nhập kho, khai sinh khai tử...  Điều tra không thường xuyên: là việc tiến hành thu thập và ghi chép tài liệu ban đầu của hiện tượng không gắn với quá trình biến động của hiện tượng mà khi thấy cần thiết mới tiến hành thu thập tại một thời điểm hay một thời kỳ nào đó. Thế nào là cần thiết? Điều này xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế và xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước và khi có những hiện tượng xảy ra bất thường như thiên tai, địch họa... thì phải tổ chức điều tra. Ví dụ: Khi thấy sự việc hàm lượng canxi ở sữa không như công bố có thể ảnh hưởng đến hình ảnh và doanh số bán hàng của hãng Mead Johnson, thì hãng quyết định tổ chức điều tra về thị trường sữa nhằm có những quyết định phù hợp trong quản lý sản xuất kinh doanh. 2.1.2.2. Điều tra toàn bộ và không toàn bộ Nếu căn cứ vào phạm vi của đối tượng được điều tra thực tế, người ta chia điều tra thống kê thành: 18 v1.0
  5. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê  Điều tra toàn bộ: tiến hành thu thập tài liệu trên tất cả các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009. o Ưu điểm: Cung cấp tài liệu đầy đủ nhất về từng đơn vị tổng thể, cho biết được quy mô tổng thể. o Hạn chế: Chi phí lớn, thời gian dài, chất lượng tài liệu thu được không cao do phạm vi rộng, chỉ điều tra được những nội dung cơ bản, không đi sâu vào chi tiết, đặc biệt có nhiều trường hợp không thể tiến hành điều tra toàn bộ (vì là tổng thể tiềm ẩn hay tổng thể bộc lộ nhưng việc điều tra gắn liền với việc phá huỷ đơn vị điều tra) hoặc không cần thiết để điều tra toàn bộ (vì tổng thể là lớn và các đơn vị trong tổng thể không khác nhau nhiều). Ví dụ: Điều tra chất lượng sản phẩm đồ hộp, điều tra tuổi thọ bóng đèn, điều tra trọng lượng hành khách đi đường hàng không... Chính vì những nhược điểm trên mà hình thức điều tra này không phổ biến. Trên thực tế người ta thường sử dụng điều tra không toàn bộ.  Điều tra không toàn bộ: tiến hành thu thập tài liệu trên một bộ phận các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu. o Ưu điểm: Tiết kiệm chi phí, thời gian, chất lượng tài liệu thu được cao với nhiều nội dung chi tiết, ứng dụng rộng rãi hơn trên các tổng thể, các lĩnh vực. o Nhược điểm: Không cung cấp tài liệu chi tiết, đầy đủ về từng đơn vị tổng thể; không biết được quy mô tổng thể; không tránh khỏi những sai số khi nhìn nhận tổng thể chung trên cơ sở kết quả điều tra không toàn bộ. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà cách chọn đơn vị điều tra khác nhau, dẫn đến có các loại điều tra không toàn bộ khác nhau. Thông thường, có 3 loại điều tra không toàn bộ, gồm:  Điều tra chọn mẫu: chỉ tiến hành thu thập tài liệu ở một số đơn vị nhất định được chọn ra từ tổng thể chung. Các đơn vị này được chọn theo những qui tắc nhất định để đảm bảo tính đại biểu và kết quả của điều tra chọn mẫu được dùng để suy rộng cho tổng thể chung. Ví dụ: Điều tra mức sống hộ gia đình, điều tra năng suất, diện tích, sản lượng cây trồng trong nông nghiệp, điều tra thị trường sữa trẻ em... Đây là hình thức điều tra phổ biến nhất trong thực tế và rất phù hợp với các tổng thể tiềm ẩn.  Điều tra trọng điểm: người ta tiến hành điều tra trên một bộ phận quan trọng nhất, chủ yếu nhất của hiện tượng nghiên cứu. Khác với điều tra chọn mẫu, kết quả của điều tra trọng điểm không dùng để suy rộng cho tổng thể chung mà chỉ giúp chúng ta biết được tình hình cơ bản của hiện tượng. Ví dụ: Nghiên cứu tình hình vận tải hàng không ở Việt Nam, chỉ điều tra trên 2 sân bay lớn nhất cả nước là Nội Bài và Tân Sơn Nhất. v1.0 19
  6. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê  Điều tra chuyên đề: chỉ tiến hành thu thập tài liệu trên một vài đơn vị, thậm chí một đơn vị nhưng đi sâu nghiên cứu chi tiết nhiều khía cạnh. Ví dụ: Điều tra các hộ nông dân chuyển đổi có hiệu quả... Mục đích của loại điều tra này là nhằm tìm những nhân tố mới hay rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó có những kết luận cần thiết để chỉ đạo thực tế. Đây là trường hợp đặc biệt của thống kê khi không nghiên cứu hiện tượng số lớn. 2.1.3. Các hình thức tổ chức điều tra 2.1.3.1. Báo cáo thống kê định kỳ Báo cáo thống kê định kỳ là hình thức tổ chức điều tra thống kê thường xuyên, định kỳ theo chế độ do Nhà nước quy định. Đây là hình thức tổ chức điều tra theo con đường hành chính bắt buộc, thường vận dụng chủ yếu ở các cơ quan nhà nước. Nội dung của các báo cáo thường liên quan đến lĩnh vực quản lý vĩ mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm quản lý tập trung nền kinh tế. Chủ yếu áp dụng điều tra toàn bộ, thường xuyên và thu thập tài liệu một cách gián tiếp. 2.1.3.2. Điều tra chuyên môn Điều tra chuyên môn là hình thức tổ chức điều tra không thường xuyên, tiến hành theo một kế hoạch và phương pháp quy định riêng cho mỗi lần điều tra. Điều tra này chỉ được thực hiện khi cần thiết. Hình thức điều tra này không mang tính pháp lệnh mà vận động đối tượng cung cấp tài liệu điều tra. Tài liệu thu được từ điều tra này rất phong phú, có ý nghĩa nhiều mặt hơn do:  Thu thập tài liệu của hầu hết những hiện tượng báo cáo thống kê định kỳ chưa hoặc không cung cấp được.  Thu thập tài liệu đối với khu vực ngoài quốc doanh.  Kết quả của điều tra chuyên môn được dùng để kiểm tra chất lượng tài liệu của báo cáo thống kê định kỳ. Về cơ bản, điều tra chuyên môn được áp dụng linh hoạt các loại điều tra và các phương pháp thu thập tài liệu khác nhau. 2.1.4. Phương pháp thu thập thông tin trong điều tra thống kê Các loại điều tra thống kê khác nhau sẽ sử dụng những phương pháp thu thập tài liệu khác nhau. Căn cứ vào tính chất trực tiếp hay gián tiếp của việc thu thập tài liệu sẽ có 2 phương pháp sau: 2.1.4.1. Phương pháp thu thập trực tiếp  Khái niệm Phương pháp thu thập trực tiếp là phương pháp mà người điều tra tự mình quan sát hoặc trực tiếp hỏi đơn vị điều tra và tự ghi chép vào tài liệu. 20 v1.0
  7. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê  Đánh giá phương pháp o Ưu điểm: Chất lượng tài liệu thu được cao; hạn chế được sai sót do đối tượng điều tra hiểu sai câu hỏi, hoặc cung cấp sai thông tin, ... o Nhược điểm: Tốn kém về thời gian và chi phí, người điều tra có ảnh hưởng chủ quan tới đối tượng điều tra… 2.1.4.2. Phương pháp thu thập gián tiếp  Khái niệm Phương pháp thu thập gián tiếp là phương pháp thu thập tài liệu qua bản viết của đơn vị điều tra như chứng từ sổ sách và các tài liệu có liên quan.  Đánh giá phương pháp o Ưu điểm: Tiết kiệm thời gian và chi phí, không chịu ảnh hưởng của ý kiến người đi điều tra. o Nhược điểm: Chất lượng tài liệu thu được không cao do đối tượng điều tra tự điền vào mẫu phiếu điều tra nên nhiều câu hỏi không hiểu mà không có người giải thích nên sẽ cung cấp thông tin sai, hoặc người trả lời cố ý cung cấp thông tin sai..., mức độ phù hợp với nghiên cứu không cao. Để tổ chức tốt một cuộc điều tra chuyên môn đòi hỏi phải xây dựng được phương án điều tra thật chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể và toàn diện. 2.1.5. Phương án điều tra thống kê 2.1.5.1. Khái niệm Phương án điều tra thống kê là một văn bản được xây dựng trong bước chuẩn bị điều tra; trong đó qui định rõ những vấn đề cần phải được giải quyết hoặc cần hiểu thống nhất trước, trong và sau khi tiến hành điều tra thống kê. Đây là loại văn bản mà bất cứ cuộc điều tra nào cũng phải xây dựng. Tính khoa học và thống nhất của điều tra thống kê được thể hiện rõ nét thông qua văn bản này. 2.1.5.2. Nội dung chủ yếu của phương án điều tra thống kê Tuỳ theo đặc điểm, tính chất của hiện tượng được nghiên cứu mà nội dung của phương án điều tra sẽ khác nhau. Nhưng về cơ bản, một phương án điều tra thống kê bao gồm những nội dung chủ yếu sau:  Xác định mục đích điều tra Với nội dung này, chúng ta phải trả lời được câu hỏi, cuộc điều tra đó nhằm mục tiêu gì và phục vụ cho yêu cầu cụ thể nào. Mục đích điều tra là nội dung quan trọng đầu tiên của kế hoạch điều tra. Nó có tác dụng định hướng cho toàn bộ quá trình điều tra và giúp chúng ta xác định chính xác đối tượng, đơn vị và nội dung điều tra.  Xác định đối tượng điều tra và đơn vị điều tra Đối tượng điều tra là tổng thể các đơn vị thuộc hiện tượng nghiên cứu có các dữ liệu cần thiết khi tiến hành điều tra. Xác định đối tượng điều tra là xác định v1.0 21
  8. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê phạm vi đối tượng cần nghiên cứu, cần điều tra nhằm thu thập tài liệu chính xác, không nhầm lẫn với các hiện tượng khác. Đơn vị điều tra là từng đơn vị cá biệt thuộc đối tượng điều tra và được xác định sẽ điều tra thực tế. Trong điều tra toàn bộ, số đơn vị điều tra cũng chính là số đơn vị thuộc đối tượng điều tra. Trong điều tra không toàn bộ, số đơn vị điều tra là những đơn vị được chọn ra từ tổng thể các đơn vị thuộc đối tượng điều tra. Xác định đơn vị điều tra tức là xác định tài liệu sẽ được thu thập ở đâu. Tuỳ theo mục đích và đối tượng điều tra mà đơn vị điều tra được xác định khác nhau. Ví dụ: Trong Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009. Mục đích điều tra: Phục vụ công tác nghiên cứu, phân tích và dự báo quá trình phát triển dân số và nhà ở trên phạm vi cả nước và từng địa phương... Đối tượng điều tra: Tất cả công dân Việt Nam. Đơn vị điều tra: Hộ gia đình. Ví dụ: Trong điều tra sản xuất và kinh doanh rau sạch, đơn vị điều tra có thể là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân hoặc từng người dân có sản xuất và kinh doanh rau sạch. Ví dụ: Trong điều tra về thị trường sữa trẻ em ở Việt Nam, đơn vị điều tra là các siêu thị, đại lý, cửa hàng... có kinh doanh sữa trẻ em.  Xác định nội dung điều tra Mỗi đơn vị điều tra có rất nhiều tiêu thức khác nhau. Nhưng trong một cuộc điều tra, không nhất thiết phải thu thập tất cả các tiêu thức, mà chỉ thu thập theo một số tiêu thức chủ yếu, những tiêu thức quan trọng nhất đáp ứng cho mục đích điều tra và mục đích nghiên cứu. Như vậy, nội dung điều tra là toàn bộ các đặc điểm cơ bản của từng đối tượng, từng đơn vị điều tra mà ta cần thu được thông tin hay nói cách khác, đó là danh mục các tiêu thức hay đặc trưng của các đơn vị điều tra cần thu thập. Để xác định nội dung điều tra, cần phải căn cứ vào các yếu tố sau: o Mục đích điều tra. o Đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu. o Năng lực, trình độ thực tế của đơn vị, người tổ chức điều tra. Trong kế hoạch điều tra phải xác định và thống nhất danh mục các tiêu thức cần thu thập. Các tiêu thức này phải được diễn đạt thành câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, cụ thể, rõ ràng để cả người điều tra và đơn vị điều tra đều hiểu một cách thống nhất. Danh mục các tiêu thức này được thể hiện dưới dạng phiếu hỏi, phiếu điều tra, bảng hỏi hay biểu mẫu điều tra. Đi kèm theo phiếu hỏi phải có bảng giải thích cách ghi phiếu nhằm giải thích cụ thể nội dung từng tiêu thức, cách thu thập và ghi chép số liệu. Mục đích giúp người đi điều tra, đơn vị điều tra hiểu và thực hiện chính xác, thu thập số liệu cho đúng.  Xác định thời điểm điều tra, thời kỳ điều tra và thời hạn điều tra Trong đó: o Thời điểm điều tra là mốc thời gian (ngày, giờ cụ thể) được xác định để tiến hành thu thập tài liệu một cách thống nhất trên tất cả các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu. 22 v1.0
  9. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê Ví dụ: Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, thời điểm điều tra là 0 giờ ngày 1/4/2009. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu mà xác định thời điểm điều tra. Tuy nhiên, thời điểm điều tra thường được xác định vào lúc hiện tượng ít biến động nhất và gắn kết với những kế hoạch của địa phương. Ví dụ: Điều tra về du lịch biển ở Sầm Sơn thì không nên chọn vào mùa đông. o Thời kỳ điều tra là độ dài (khoảng) thời gian có sự tích luỹ về mặt lượng của hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: Điều tra tình hình xuất khẩu gạo của địa phương A trong quý 1 năm 2008. Thời kỳ điều tra dài hay ngắn phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu. o Thời hạn điều tra là khoảng thời gian kể từ lúc bắt đầu tiến hành điều tra cho đến khi hoàn thành việc thu thập tài liệu trên tất cả các đơn vị điều tra. Ví dụ: Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, thời hạn điều tra trong vòng 20 ngày từ sáng 1/4 đến tối 20/4... Như vậy, thời hạn điều tra dài hay ngắn phụ thuộc vào qui mô, tính chất phức tạp của hiện tượng, nội dung nghiên cứu và lực lượng tham gia nhưng nhìn chung, thời hạn điều tra không nên quá lâu vì sẽ dẫn đến việc thu thập tài liệu thiếu chính xác. Ngoài 4 vấn đề chính ở trên, trong phương án điều tra thống kê còn đề cập tới một số vấn đề về nguồn nhân lực, kinh phí, thời gian thực hiện, điều tra thử, thành lập các cơ quan điều tra và tuyên truyền trong nhân dân... Trong tiến hành điều tra thống kê, dù khoa học đến mấy nhưng vẫn có sai số. Vậy sai số là gì? Liệu có thể khắc phục được sai số hay không? 2.1.6. Sai số trong điều tra thống kê 2.1.6.1. Khái niệm Sai số trong điều tra thống kê là chênh lệch giữa các trị số của tiêu thức điều tra thu thập được so với trị số thực tế của hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: Trong điều tra dân số, sai số hay mắc phải là về tiêu thức tuổi do một số nguyên nhân: Người già không nhớ chính xác tuổi, tâm lý trẻ muốn già hơn và ngược lại…; trong điều tra về mức sống, đối tượng điều tra nhiều khi không nhớ chính xác về các khoản đã chi trong thời gian nghiên cứu... Sai số trong điều tra thống kê là sai số vốn có. Phạm vi sai số cho phép trong điều tra thống kê là ± 5%. Tuy nhiên, sai số càng lớn thì chất lượng của kết quả điều tra càng giảm và gây ảnh hưởng đến chất lượng của cả quá trình nghiên cứu thống kê. Vấn đề đặt ra là phải xác định được sai số do nguyên nhân nào để từ đó chủ động tìm biện pháp khắc phục. v1.0 23
  10. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê 2.1.6.2. Các loại sai số Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến sai số mà người ta chia sai số trong điều tra thống kê thành các loại sau:  Sai số do ghi chép tài liệu (do đăng ký lần đầu): đây là loại sai số mà tất cả các cuộc điều tra đều mắc phải, xảy ra do các nguyên nhân: o Người điều tra vô tình cân, đo, đong, đếm và ghi chép sai. o Đơn vị điều tra không hiểu câu hỏi dẫn đến trả lời sai. o Cả đơn vị điều tra và người điều tra cố tình ghi chép sai.  Sai số do tính chất đại biểu của số đơn vị được chọn: chỉ xảy ra trong điều tra chọn mẫu, do các nguyên nhân: o Cỡ mẫu không đủ lớn. o Do cố tình vi phạm nguyên tắc chọn mẫu. o Do bản thân nguyên tắc chọn mẫu. 2.1.6.3. Các biện pháp khắc phục sai số Sai số trong thống kê là một vấn đề không thể tránh khỏi. Để khắc phục sai số, cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau:  Làm tốt công tác chuẩn bị điều tra o Lập phương án điều tra khoa học, chi tiết. o Chuẩn bị cán bộ điều tra đảm bảo chất lượng. o Coi trọng công tác tuyên truyền sâu rộng về mục đích cuộc điều tra.  Làm tốt công tác kiểm tra điều tra o Kiểm tra tài liệu thu thập được có đầy đủ về nội dung và số đơn vị điều tra không, có chính xác về con số và logic không. o Kiểm tra tính đại biểu của số đơn vị được chọn trong điều tra chọn mẫu. Sau khi kết thúc điều tra, chúng ta thu được một số lượng lớn các tài liệu. Nhưng những tài liệu này mới chỉ ở dạng thô, mang tính chất rời rạc, chưa cho thấy đặc trưng chung của hiện tượng nghiên cứu. Công việc tiếp theo là phải tổng hợp những tài liệu đó lại để tìm ra các đặc trưng của hiện tượng làm cơ sở cho quá trình phân tích và dự đoán thống kê. 2.2. Tổng hợp thống kê 2.2.1. Khái niệm chung về tổng hợp thống kê 2.2.1.1. Khái niệm Tổng hợp thống kê là tiến hành tập trung chỉnh lý và hệ thống hóa một cách khoa học toàn bộ tài liệu thu thập được trong điều tra thống kê. Ví dụ: Sau khi điều tra về thị trường sữa trẻ em ở Việt Nam hiện nay, chúng ta thu được một tập số liệu nhưng chưa biết được hiện có bao nhiêu chủng loại sữa, giá bán mỗi loại, thị phần... Tổng hợp thống kê sẽ giúp giải quyết những câu hỏi đó. Chỉnh lý, hệ thống hoá là việc kiểm tra lại và sắp xếp tài liệu theo một trật tự nào đó chứ không sửa trực tiếp vào phiếu điều tra. 24 v1.0
  11. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê 2.2.1.2. Ý nghĩa và nhiệm vụ của tổng hợp thống kê Tổng hợp thống kê là giai đoạn trung gian, xử lý sơ bộ tài liệu, làm căn cứ cho phân tích và dự đoán thống kê. Nếu tài liệu điều tra tỉ mỉ chi tiết nhưng tổng hợp không đúng thì tính toán phân tích sẽ sai. Mặt khác, bản thân việc tổng hợp thống kê này đã là một phương pháp trong phân tích thống kê. Ví dụ: Phương pháp trình bày dữ liệu, phương pháp phân tích kết cấu của tổng thể trong trạng thái tĩnh, phương pháp phân tích chuyển dịch cơ cấu của tổng thể trong trạng thái động... Qua tổng hợp, có thể làm cho các đặc trưng riêng của từng đơn vị tổng thể bước đầu chuyển thành các đặc trưng chung của cả tổng thể (từ các tiêu thức xây dựng nên các chỉ tiêu). Hệ thống hóa là nhiệm vụ chủ yếu của tổng hợp thống kê. Sau đây là một số phương pháp tổng hợp thống kê cơ bản. 2.2.2. Phân tổ thống kê 2.2.2.1. Một số vấn đề chung về phân tổ thống kê  Khái niệm: Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ và các tiểu tổ có tính chất khác nhau. Ví dụ: Trong nghiên cứu dân số, căn cứ vào tiêu thức giới tính, người ta chia dân số thành 2 tổ: nam và nữ; căn cứ vào tiêu thức tuổi, chia dân số thành các tổ: 0; 1 – 4; 5 – 9, 10 – 14, 15 – 19... Ví dụ: Trong điều tra về thị trường sữa ở nước ta hiện nay, căn cứ theo tiêu thức loại sữa để phân chia tổng thể điều tra thành các loại sữa với nhãn hiệu khác nhau; hoặc căn cứ vào tiêu thức giá bán để phân chia thành các loại sữa với mức giá bán khác nhau...  Ý nghĩa: Phân tổ thống kê là một trong những phương pháp thường được sử dụng trong nghiên cứu thống kê. o Giai đoạn điều tra thống kê: Trong điều tra toàn bộ và điều tra không toàn bộ, người ta phải phân tổ trước các hiện tượng cần nghiên cứu nhằm giúp cho việc điều tra được dễ dàng, thuận tiện; trong điều tra chọn mẫu, phương pháp phân tổ được sử dụng để đảm bảo tính đại diện của mẫu. o Giai đoạn tổng hợp thống kê: Phân tổ là phương pháp cơ bản nhất dùng để chỉnh lý và hệ thống hóa toàn bộ tài liệu thu thập được trong điều tra thống kê. o Giai đoạn phân tích thống kê: Phân tổ là một trong những phương pháp quan trọng, là cơ sở để vận dụng các phương pháp thống kê khác một cách có hiệu quả. Bản thân phân tổ thống kê cũng đã là một phương pháp phân tích thống kê quan trọng, đó là phân tích kết cấu của hiện tượng ở trạng thái tĩnh và chuyển dịch cơ cấu ở trạng thái động.  Nhiệm vụ: Nó cho phép giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản sau: v1.0 25
  12. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê o Thứ nhất, phân chia các loại hình kinh tế – xã hội theo đúng với sự tồn tại khách quan của nó. Trên cơ sở đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa các loại hình kinh tế – xã hội nhằm nhận thức được quá trình vận động và phát triển của hiện tượng. Ví dụ: Phân tổ các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta theo thành phần kinh tế: Nhà nước, ngoài Nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. o Thứ hai, biểu hiện kết cấu của hiện tượng nghiên cứu, qua đó nêu lên đặc điểm cơ bản của hiện tượng trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Mặt khác, khi nghiên cứu sự biến động kết cấu của hiện tượng qua thời gian ta sẽ thấy được xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: Khi nghiên cứu kết cấu của các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta trong một khoảng thời gian, có thể thấy sự chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng các cơ sở sản xuất công nghiệp trong khu vực Nhà nước giảm dần, tỷ trọng các cơ sở sản xuất công nghiệp trong khu vực ngoài Nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần. o Thứ ba, biểu hiện mối liên hệ giữa các tiêu thức. Ta chia tiêu thức thành tiêu thức nguyên nhân (tiêu thức gây ảnh hưởng) và tiêu thức kết quả (tiêu thức bị ảnh hưởng), sau đó sẽ tiến hành phân tổ theo tiêu thức nguyên nhân. Ví dụ: Mối liên hệ giữa tuổi nghề và năng suất lao động, giữa năng suất lao động và tiền lương, giữa lượng phân bón và năng suất cây trồng, giữa thu nhập và loại sữa dùng cho trẻ…  Các loại phân tổ thống kê o Căn cứ vào số lượng tiêu thức phân tổ: Phân tổ theo 1 tiêu thức (phân tổ giản đơn, ví dụ: phân tổ dân số theo riêng tiêu thức độ tuổi, giới tính...) và phân tổ theo nhiều tiêu thức. Phân tổ theo nhiều tiêu thức được chia thành hai loại:  Phân tổ kết hợp: là phân tổ lần lượt theo từng tiêu thức, tiêu thức nào trước, tiêu thức nào sau phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Nó cho phép nhìn nhận hiện tượng trên nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ: Tổng thể dân số khi được phân chia theo tiêu thức giới tính thì hình thành hai tổ: nam và nữ. Ở mỗi tổ dân số nam và dân số nữ này lại được phân chia tiếp theo tiêu thức nhóm tuổi. Phân tổ kết hợp tuy có nhiều ưu điểm nhưng chúng ta cũng không nên quá lạm dụng, kết hợp quá nhiều tiêu thức sẽ làm cho việc phân tổ trở nên phức tạp, tổng thể bị chia nhỏ gây khó khăn cho việc nghiên cứu.  Phân tổ nhiều chiều: cùng một lúc phân tổ theo nhiều tiêu thức khác nhau nhưng có vai trò ngang nhau trong phản ánh hiện tượng. Ví dụ: Khi phân tổ các doanh nghiệp xây dựng theo qui mô nhưng không nói rõ qui mô gì, người ta sẽ phân tổ đồng thời theo các tiêu thức: vốn, lao động, tài sản cố định, giá trị xây lắp, doanh thu... Các tiêu thức này có vai trò ngang nhau khi phản ánh qui mô của doanh nghiệp. 26 v1.0
  13. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê o Căn cứ vào mục đích phân tổ, người ta chia thành:  Phân tổ phân loại: để chia tổng thể thành các loại hình khác nhau, thường phân tổ theo tiêu thức thuộc tính.  Phân tổ kết cấu: để nghiên cứu kết cấu của tổng thể, có thể phân tổ theo tiêu thức thuộc tính, có thể theo tiêu thức số lượng.  Phân tổ liên hệ: để nghiên cứu mối liên hệ giữa các tiêu thức, phải đặt trong những điều kiện thời gian, không gian khác nhau. 2.2.2.2. Tiêu thức phân tổ và chỉ tiêu giải thích  Khái niệm: Tiêu thức phân tổ là tiêu thức thống kê được chọn làm căn cứ để phân tổ thống kê. Ví dụ: Phân tổ dân số theo giới tính thì giới tính là tiêu thức phân tổ. Mỗi đơn vị tổng thể đều bao gồm nhiều tiêu thức, tiêu thức nào cũng có thể dùng để phân tổ được. Tuy nhiên, mỗi tiêu thức lại có ý nghĩa khác nhau nhưng tiêu thức phân tổ sẽ phản ánh đúng bản chất của hiện tượng nhất theo mục đích nghiên cứu. Với cùng một tài liệu, nếu chọn tiêu thức phân tổ khác nhau có thể đưa đến kết luận khác nhau. Và nếu chọn tiêu thức phân tổ không đúng theo mục đích nghiên cứu sẽ dẫn đến nhận xét đánh giá khác nhau về thực tế của một hiện tượng. Vậy làm thế nào để chọn tiêu thức phân tổ cho chính xác?  Những căn cứ để lựa chọn tiêu thức phân tổ: Có ba căn cứ sau: o Phải tiến hành phân tích lý luận kinh tế – xã hội để hiểu được đặc điểm, bản chất của hiện tượng, từ đó mới chọn ra tiêu thức nói rõ bản chất nhất, phù hợp với mục đích nghiên cứu để làm tiêu thức phân tổ. Ví dụ: Để nghiên cứu về mức sống dân cư, ở thành thị chúng ta có thể sử dụng tiêu thức thu nhập, chi tiêu hay diện tích nhà ở bình quân nhưng nếu nghiên cứu ở nông thôn, tiêu thức diện tích nhà ở bình quân lại không có ý nghĩa. o Phải dựa vào điều kiện lịch sử cụ thể của hiện tượng (thời gian và địa điểm cụ thể) để lựa chọn tiêu thức thích hợp. Ví dụ: Ngày nay, việc phân tổ các cơ sở sản xuất kinh doanh theo tiêu thức thành phần kinh tế mới có ý nghĩa; trong thời kỳ trước đổi mới, tiêu thức này là không phù hợp vì đa phần các cơ sở sản xuất kinh doanh đều thuộc sở hữu của Nhà nước. o Tuỳ theo tính chất phức tạp của hiện tượng và mục đích yêu cầu nghiên cứu, có thể lựa chọn phân tổ theo một hay nhiều tiêu thức khác nhau. Sau khi đã lựa chọn được tiêu thức phân tổ, người ta còn phải xác định các chỉ tiêu giải thích để nói rõ đặc trưng của các tổ cũng như của toàn bộ tổng thể. Mỗi chỉ tiêu giải thích có ý nghĩa quan trọng riêng giúp ta thấy rõ các đặc trưng số lượng của từng tổ cũng như cả tổng thể, làm căn cứ để so sánh các tổ với nhau và tính ra các chỉ tiêu khác. Tuy nhiên, cũng không nên đề ra quá nhiều v1.0 27
  14. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê chỉ tiêu, mà phải lựa chọn một số chỉ tiêu thích hợp nhất đối với mục đích nghiên cứu. Ví dụ: Mục tiêu phân tích thực trạng của các doanh nghiệp hiện nay, chúng ta có thể lựa chọn những chỉ tiêu phản ánh rõ nét thực trạng đó nhất như: qui mô lao động, qui mô vốn, doanh thu, lợi nhuận... Sau khi đã chọn được tiêu thức phân tổ, chúng ta tiến hành phân tổ. Nhưng phân ra thành bao nhiêu tổ là phù hợp? 2.2.2.3. Xác định số tổ Có các trường hợp sau:  Nếu tiêu thức phân tổ là tiêu thức thuộc tính: Các tổ được hình thành theo các loại hình khác nhau, tuy nhiên không nhất thiết mỗi loại hình phải hình thành một tổ. o Trường hợp đơn giản (tiêu thức có ít biểu hiện): Mỗi biểu hiện của tiêu thức có thể hình thành 1 tổ. Ví dụ: 2 giới tính, 5 thành phần kinh tế... o Trường hợp phức tạp (tiêu thức có nhiều biểu hiện): Ghép một số tổ nhỏ thành tổ lớn tùy theo đặc điểm hiện tượng và yêu cầu về mức độ chi tiết khi phân tổ. Cần bảo đảm yêu cầu các tổ nhỏ được ghép phải giống nhau hoặc gần giống nhau về đặc điểm và tính chất. Việc ghép tổ này đạt được hai mục đích, làm cho số tổ ít đi và đảm bảo giữa các tổ có sự khác nhau về đặc điểm, tính chất. Ví dụ: Mặc dù chỉ có 5 thành phần kinh tế nhưng theo mục đích nghiên cứu, ta chỉ cần phân tổ theo 2 thành phần: Nhà nước và ngoài Nhà nước. Ví dụ: Trong công nghiệp, có thể phân thành 3 nhóm ngành lớn: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và công nghiệp điện, ga, nước. Ví dụ: Phân chỗ ngồi ở chợ theo các nhóm ngành hàng: hàng khô, hàng rau quả, hàng thịt,...  Nếu tiêu thức phân tổ là tiêu thức số lượng: Tùy theo số lượng biến của tiêu thức nhiều hay ít mà có cách giải quyết khác nhau. o Số lượng các lượng biến ít: Với trường hợp này, lượng biến thay đổi ít, mỗi lượng biến có thể hình thành nên 1 tổ. Khi đó gọi là phân tổ không có khoảng cách tổ. Ví dụ: Phân tổ công nhân doanh nghiệp A theo bậc thợ. Bậc thợ Số công nhân (người) 1 10 2 20 3 45 4 60 5 35 6 25 7 5 Tổng 200 28 v1.0
  15. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê Trong nhiều trường hợp, với mục đích nghiên cứu khác nhau, tuy số lượng các lượng biến ít, người ta vẫn ghép một số lượng biến thành 1 tổ. Ví dụ: Trong nghiên cứu dân số, khi nghiên cứu về qui mô hộ gia đình. Một hộ gia đình có thể có 1, 2, 3, 4... người. Cùng với sự phát triển của xã hội, qui mô hộ thu hẹp lại; khi đó làm nảy sinh khái niệm “gia đình hạt nhân” chỉ có bố mẹ và con cái và “gia đình truyền thống” gồm 3, 4 thế hệ. Ngày nay, số lượng các gia đình hạt nhân tăng lên, số lượng gia đình truyền thống giảm xuống. o Số lượng các lượng biến nhiều: phải căn cứ vào quan hệ lượng – chất xem lượng biến tích lũy đến một mức độ nào đó thì chất thay đổi và làm nảy sinh một tổ mới. Mỗi tổ sẽ bao gồm 1 phạm vi lượng biến với 2 giới hạn: giới hạn dưới: lượng biến nhỏ nhất để hình thành tổ; giới hạn trên: lượng biến lớn nhất, nếu vượt qua giới hạn này thì chất đổi, dẫn đến hình thành 1 tổ mới. Phân tổ như trên gọi là phân tổ có khoảng cách tổ. Chênh lệch giữa giới hạn trên và giới hạn dưới gọi là khoảng cách tổ. h = Giới hạn trên – Giới hạn dưới Có các trường hợp:  Trường hợp phân tổ có khoảng cách tổ bằng nhau: Xác định trị số khoảng cách tổ: X max  X min h n Trong đó: Xmax, Xmin: Lượng biến lớn nhất và nhỏ nhất của tiêu thức nghiên cứu. n: Số tổ định chia. Ví dụ: Khi nghiên cứu thu nhập bình quân một tháng (triệu đồng) tại một phòng giao dịch của Ngân hàng ACB có 20 nhân viên, người ta thu được kết quả sau: 3,0 4,6 5,8 15,0 6,5 9,0 7,7 9,5 3,4 8,5 5,2 7,0 5,5 11,0 10,0 12,5 8,8 7,5 5,8 8,2 Theo tiêu thức thu nhập bình quân một tháng, người ta muốn chia số nhân viên nói trên thành 6 tổ có khoảng cách tổ bằng nhau. Sau khi sắp xếp số liệu theo thứ tự tăng dần, nhận thấy, mức thu nhập thấp nhất là 3 triệu đồng, mức thu nhập cao nhất là 15 triệu đồng. Khi đó, khoảng cách tổ sẽ được tính như sau: 15  3 h  2 (triệu đồng) 6 Các tổ được thiết lập như sau: v1.0 29
  16. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê Thu nhập bình quân một tháng Số nhân viên (người) (triệu đồng) 3–5 3 5–7 5 7–9 6 9 – 11 3 11 – 13 2 13 – 15 1 Tổng 20 Chú ý:  Giới hạn trên của tổ đứng trước được lấy làm giới hạn dưới của tổ đứng sau với mục đích làm cho dãy số kín hay liên tục.  Khi 1 đơn vị có lượng biến đúng bằng giới hạn trên và giới hạn dưới của 2 tổ liền nhau thì thường được xếp vào tổ đứng sau. o Trường hợp phân tổ có khoảng cách tổ không bằng nhau: Dựa vào ý nghĩa kinh tế – xã hội của hiện tượng mà xác định nội dung và phạm vi của tổ. Ví dụ: Phân tổ số học sinh của địa phương A theo lớp học như sau: Lớp Số học sinh 1–5 320 6–9 270 10 – 12 180 Tổng 770 o Trường hợp phân tổ mở: là trường hợp tổ đầu tiên không có giới hạn dưới hay tổ cuối cùng không có giới hạn trên. Ví dụ: Phân tổ các cơ sở sản xuất công nghiệp của địa phương A theo số lao động: Số lao động (người) Số cơ sở công nghiệp  20 10 21 – 50 30 51 – 100 20  100 10 Tổng 70 Chú ý: Quy ước: Khoảng cách tổ của tổ gần nhất được sử dụng làm khoảng cách tổ cho tổ mở khi xác định trị số giữa. Sau khi phân tổ hiện tượng nghiên cứu theo một tiêu thức nào đó thì các đơn vị của hiện tượng được sắp xếp vào các tổ tương ứng với các biểu hiện của tiêu thức mà đơn vị đó có, khi đó sẽ hình thành nên một dãy số phân phối. 2.2.2.4. Dãy số phân phối  Khái niệm: Dãy số phân phối là một dãy số được lập nên do phân phối các đơn vị tổng thể vào các tổ theo một tiêu thức phân tổ nào đó và được sắp xếp theo trình tự biến động của lượng biến tiêu thức phân tổ. 30 v1.0
  17. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê Ví dụ : Các ví dụ nêu trên đều là dãy số phân phối.  Tác dụng của dãy số phân phối o Cho biết tỉ mỉ, chi tiết tình hình phân phối các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu theo 1 tiêu thức cụ thể. o Là cơ sở để tiến hành tính toán và phân tích thống kê.  Phân loại dãy số phân phối: Có 2 loại dãy số phân phối tương ứng với loại tiêu thức phân tổ. o Dãy số thuộc tính: là kết quả của phân tổ theo tiêu thức thuộc tính. o Dãy số lượng biến: là kết quả của phân tổ theo tiêu thức số lượng. Trong thống kê, người ta thường sử dụng các dãy số lượng biến. Đặc điểm của dãy số này là các lượng biến bao giờ cũng được sắp xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc ngược lại. Dạng tổng quát của một dãy số lượng biến: Lượng biến Tần số Tần suất Tần số tích lũy Tần suất tích lũy xi fi di Si Si’ x1 f1 d1 S1 = f1 S1’= d1 x2 f2 d2 S2 = S1 + f2 S2’= S1’ + d2 … … … … … xn fn dn Sn = Sn-1 + fn Sn’= Sn-1’ + dn ∑fi ∑di Trong đó lượng biến xi (i = 1, n ) là các trị số biểu hiện mức độ cụ thể của tiêu thức số lượng. Căn cứ vào tính chất liên tục hay không liên tục của lượng biến có thể chia ra:  Lượng biến liên tục: các trị số của nó có thể được biểu hiện bằng số nguyên hay số thập phân (ví dụ: tiền lương…). Khi đó, dãy số lượng biến phải có khoảng cách tổ.  Lượng biến không liên tục (rời rạc): các trị số của dãy số chỉ có thể biểu hiện bằng các số nguyên (ví dụ: tuổi…). Dãy số lượng biến có thể có hoặc không có khoảng cách tổ. Đối với phân tổ có khoảng cách tổ, lượng biến xi là trị số giữa của từng tổ và được tính: Giới hạn dưới + Giới hạn trên xi = 2  Tần số fi (i = 1, n ): Là số lượng biến của từng tổ được sắp xếp vào trong từng tổ hay là số lần lặp lại của các lượng biến. ∑fi: Tổng số đơn vị trong tổng thể.  Tần suất di (i = 1, n ): Là tỷ trọng từng bộ phận trong tổng thể, là tần số được biểu hiện bằng số tương đối. Vai trò của fi và di là tương đương nhau, f có thể thay thế cho nhau. Công thức: d i = i (lần, %).  fi v1.0 31
  18. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê  Tần số tích lũy tiến Si (i = 1, n ): Là cộng dồn tần số, có 2 tác dụng: cho biết số lượng các đơn vị có lượng biến nhỏ hơn hay lớn hơn 1 lượng biến cụ thể nào đó và cho phép xác định 1 đơn vị đứng ở vị trí nào đó trong dãy số có lượng biến là bao nhiêu. Ví dụ: Có tài liệu về NSLĐ của 40 công nhân như sau: NSLĐ (kg) Số lao động di (%) Si (xi) (người) (fi) 50 3 7,5 3 55 5 12,5 8 60 10 25,0 18 65 12 30,0 30 70 7 17,5 37 72 3 7,5 40 ∑ 40 100,0 Si = 18 khi xi = 60: Nó cho biết có 18 người có NSLĐ từ 60 sản phẩm trở xuống và có 40 – 18 = 22 người có NSLĐ từ 60 sản phẩm trở lên. Vậy người thứ 20 có NSLĐ là bao nhiêu? Người thứ 20 nằm trong khoảng 18 – 30 nên có NSLĐ là 65 sản phẩm.  Tần suất tích lũy tiến S (i = 1, n ): là cộng dồn tần suất. i  Mật độ phân phối (mi): Trong dãy số lượng biến có các tổ với khoảng cách tổ không bằng nhau thì tần số trong các khoảng cách tổ không trực tiếp so sánh với nhau được, vì các tần số đó phụ thuộc vào trị số khoảng cách tổ. Để có thể so sánh được các tần số đó, người ta tính mật độ phân phối là tỷ số giữa tần số (hoặc tần suất) với trị số khoảng cách tổ. fi mi  hi Sau khi phân tổ thống kê, để tài liệu phát huy hết tác dụng trong phân tích thì phải trình bày kết quả phân tổ sao cho thuận tiện, dễ sử dụng, đảm bảo mỹ quan. Khi đó, người ta thường sử dụng bảng thống kê và đồ thị thống kê. 2.2.3. Bảng thống kê và đồ thị thống kê 2.2.3.1. Bảng thống kê  Khái niệm: Bảng thống kê là hình thức biểu hiện các tài liệu thống kê một cách có hệ thống, hợp lý và rõ ràng nhằm nêu lên các đặc trưng về lượng của hiện tượng nghiên cứu.  Ý nghĩa: Trong bảng thống kê có những con số bộ phận và con số chung có liên quan mật thiết tới nhau do đó bảng thống kê phản ánh đặc trưng cơ bản của từng tổ và của cả tổng thể. 32 v1.0
  19. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê  Tác dụng: Giúp tiến hành so sánh, phân tích, đối chiếu và nghiên cứu số liệu thống kê theo các phương pháp khác nhau.  Cấu thành bảng thống kê o Theo hình thức:  Hàng ngang, cột dọc phản ánh quy mô của bảng.  Tiêu đề phản ánh nội dung của bảng, gồm: Tiêu đề chung: nội dung chung của cả bảng thống kê. Tiêu đề nhỏ (tiêu mục): nội dung từng bộ phận trong bảng.  Các tài liệu và con số: Phản ánh đặc trưng về lượng của hiện tượng nghiên cứu. o Theo nội dung:  Phần chủ đề (chủ từ): Giải thích đối tượng nghiên cứu gồm những đơn vị nào, loại hình nào, thuộc cột trái.  Phần giải thích (tân từ): Gồm các chỉ tiêu giải thích đặc điểm của từng đối tượng, thuộc cột phải. Tên bảng thống kê (tiêu đề chung) Đơn vị tính:… Các chỉ tiêu giải thích Phần giải Phần thích Tổng số 1 2 … n chủ đề Tên chủ đề … Tổng số  Các loại bảng thống kê: o Bảng giản đơn: phần chủ đề không phân tổ mà chỉ liệt kê các đơn vị theo tên địa phương, thời gian… o Bảng phân tổ: đối tượng nghiên cứu ở phần chủ đề được phân chia thành các tổ theo 1 tiêu thức. o Bảng kết hợp: đối tượng nghiên cứu ở phần chủ đề được phân chia thành các tổ theo 2, 3 hay nhiều tiêu thức.  Những yêu cầu đối với việc xây dựng bảng thống kê: o Quy mô của bảng không nên quá lớn. Nếu bảng thống kê mà có quá nhiều hàng, nhiều cột, nên tách thành 2 hoặc 3 bảng nhỏ hơn. o Các tiêu đề, tiêu mục cần chính xác, gọn gàng, dễ hiểu. o Các hàng, cột cần được ký hiệu. o Các chỉ tiêu giải thích cần được sắp xếp hợp lý, phù hợp với mục đích nghiên cứu. o Phải có đơn vị tính cụ thể cho từng chỉ tiêu hoặc cho cả bảng. o Cách ghi số liệu vào bảng thống kê: “–”: Không có số liệu. “…”: Số liệu thiếu sẽ bổ sung sau. “x”: Không có liên quan, nếu viết số liệu sẽ vô nghĩa. v1.0 33
  20. Bài 2: Quá trình nghiên cứu thống kê Các số liệu phải ghi theo độ chính xác như nhau (bao nhiêu số thập phân sau dấu phẩy theo nguyên tắc làm tròn số). o Phải có phần ghi chú ở cuối bảng để giải thích nội dung một số chỉ tiêu (nếu cần) hoặc ghi nguồn số liệu (nếu có). Bên cạnh bảng thống kê, còn một công cụ nữa cũng rất hay được sử dụng trong trình bày số liệu thống kê, đó là đồ thị thống kê. 2.2.3.2. Đồ thị thống kê  Khái niệm: Đồ thị thống kê là các hình vẽ hay đường nét để miêu tả có tính chất quy ước các tài liệu thống kê.  Đặc điểm: Khác với bảng thống kê, đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với hình vẽ, đường nét và màu để trình bày các đặc trưng về số lượng của hiện tượng nghiên cứu hay trình bày khái quát các đặc điểm chủ yếu về bản chất và xu hướng phát triển của hiện tượng.  Tác dụng: Đồ thị thống kê có hai tác dụng sau: o Hình tượng hóa sự phát triển kết cấu, mối quan hệ so sánh hay mối liên hệ giữa các bộ phận trong tổng thể hoặc giữa các tiêu thức với nhau, giúp người đọc nắm được đặc điểm cơ bản của hiện tượng một cách dễ dàng, nhanh chóng. o Là phương tiện để tuyên truyền, biểu dương kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động xã hội.  Các loại đồ thị thống kê o Theo hình thức biểu hiện:  Biểu đồ hình cột.  Biểu đồ diện tích.  Biểu đồ tượng hình.  Các loại đồ thị, đường gấp khúc.  Các loại bản đồ thống kê. o Theo nội dung phản ánh:  Đồ thị so sánh.  Đồ thị kết cấu.  Đồ thị phát triển.  Đồ thị biểu thị mối liên hệ.  Những yêu cầu chung đối với việc xây dựng đồ thị o Lựa chọn loại đồ thị phù hợp với nội dung, tính chất của số liệu cần diễn đạt. o Quy mô đồ thị phải vừa phải tuỳ theo mục đích sử dụng. o Các thang đo tỷ lệ và độ rộng của đồ thị phải được xác định chính xác. o Phần giải thích tên đồ thị, các con số và ghi chú dọc theo thang đo tỷ lệ, các con số bên cạnh từng bộ phận của đồ thị, giải thích các ký hiệu qui ước... cần được ghi rõ, ngắn gọn và dễ hiểu. 34 v1.0
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2