intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng: Nuôi trồng thủy sản

Chia sẻ: Lan Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:525

454
lượt xem
150
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo bài thuyết trình 'bài giảng: nuôi trồng thủy sản', nông - lâm - ngư, ngư nghiệp phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng: Nuôi trồng thủy sản

  1. Trường ĐHNN1 Khoa CN-TS Bài mở đầu ThS. GV. Kim Văn Vạn Bộ môn: Nuôi trồng thủy sản
  2. BÀI MỞ ĐẦU Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia có ưu thế về mặt nước, Việt Nam là một trong số các nước đó. Những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng về nuôi trồng thủy sản của các nước trên thế giới, trong khu vực và Việt Nam đã chứng minh hiệu quả to lớn của ngành kinh tế này. Khi nuôi trồng thủy sản càng phát triển, đặc biệt khi đã đạt được trình độ thâm canh cao, thì vấn đề dịch bệnh trở nên càng nghiêm trọng, có thể là 1 nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế - xã hội của ngành này. Môn BHTS trở thành môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong chương trình đào tạo kỹ sư ngành nuôi trồng thủy sản.
  3. I. Mục tiêu của môn học 1. Mục tiêu của môn học Môn học này nhằm trang bị cho sinh viên ngành nuôi trồng thủy sản những kiến thức chung về lĩnh vực bệnh học và bệnh học thủy sản, Những loại bệnh đã, đang và có thể xảy ra ở các đối tượng nuôi có gía trị kinh tế ở Việt nam như: cá, giáp xác, động vật thân mềm. Trang bị cho sinh viên kỹ năng về chẩn đoán, phòng trị và quản lý sức khỏe động vật nuôi thủy sản. 2. Nội dung chính của môn học Các kiến thức chung về bệnh học và bệnh học thủy sản. Biện pháp tổng hợp nhằm quản lý sức khỏe động vật thủy sản nuôi. Thuốc và nguyên tắc dùng thuốc trong NTTS Một số phương pháp chẩn đoán bệnh ở ĐVTS Các bệnh chủ yếu thường gặp và phương pháp phòng trị ở các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế ở Việt Nam: Cá, giáp xác, động vật thân mềm...
  4. I. Mục tiêu của môn học 3. Vị trí của môn học BHTS là môn học chuyên môn thuộc khối kiến thức ngành. Môn học này giống như một cái "nút" kết nối các môn học cơ sở, cơ bản và kỹ thuật chuyên ngành thành một khối kiến thức hoàn chỉnh và thống nhất. Môn học này luôn chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình khung đào tạo đại học ngành NTTS. BHTS thường được dạy cho sinh viên ngành NTTS vào học kỳ 6 hoặc 7 trong chương trình đào tạo 4-4,5 năm. Khi nuôi trồng thủy sản chưa PT, môn này chưa được quan tâm Khi ngành nuôi trồng đã phát triển, BHTS có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển ngành nuôi trồng thủy sản ở mọi quốc gia, nó thực sự thu hút sự quan tâm lo lắng của người nông dân, của các nhà quản lý thủy sản và đặc biệt là các nhà khoa học, các viện nghiên cứu nhằm đưa ra các biện pháp quản lý sức khỏe, phòng và trị thành công các bệnh thường gặp trên ĐVTS.
  5. II. Quan hệ với các môn học khác BHTS là môn học kết nối các môn học cơ bản, cơ sở và kỹ thuật chuyên ngành, tạo nên hệ thống kiến thức hoàn chỉnh. Liên quan tới các môn học cơ bản: môn Sinh Học Cơ Bản; các môn Hóa Học; VSV Đại Cương; Miễn Dịch Học Đại Cương... Liên quan tới các môn cơ sở ngành: Các môn như Động Thực Vật Thủy Sinh; Sinh Lý Động Vật Thủy Sản; .... Liên quan tới các môn học chuyên ngành như: môn QLCL Nước trong NTTS; VSV ứng dụng, MDTS, Dinh Dưỡng và Thức Ăn; Kỹ thuật Nuôi Giáp Xác; Kỹ Thuật Nuôi Cá Nước Ngọt; Kỹ Thuật Nuôi Động Vật Thân Mềm... Ngoài ra môn Bệnh Học Thủy Sản còn liên quan đến một số môn học chuyên ngành của các ngành học khác như ngành Thú Y, ngành Y (Dược lý học, chẩn đoán bệnh). Để học tốt môn học này, SV cần nắm được kiến thức của các môn học có liên quan làm nền tảng để tiếp thu khi học và vận dụng khi làm việc trong thực tiến sản xuất.
  6. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS 1. Tình hình thế giới So với y học và thú y, BHTS là một ngành khoa học non trẻ hơn rất nhiều, Người ta bắt đầu quan tâm tới bệnh ở cá từ cuối thế kỹ 19, nhưng chủ yếu là những mô tả dấu hiệu bệnh lý, chưa có những nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh. Sang đầu thể kỷ 20, các nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu và viết sách về bệnh cá. Cuốn sách có nhan đề "Tác nhân gây bệnh ở cá" (Father of Fish Patholohy) được xuất bản năm 1904 do một tác giả người Đức- Bruno Hofer.
  7. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS Năm 1929. viện sỹ V.A. Dogiel (1882-1955) thuộc viện hàn lâm khoa học Liên Xô cũ đã đưa ra "phương pháp nghiên cứu KST trên cá" đã mở ra một hướng phát triển mới cho nghiên cứu về các khu hệ ký sinh trùng ký sinh trên cá và các loại bệnh cá do ký sinh trùng gây ra. Từ 1929 đến 1970, hàng loạt các công trình nghiên cứu về KST ký sinh ở cá nước ngọt và nước mặn được công bố ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, tiêu biểu nhất là công trình nghiên cứu về khu hệ ký sinh trùng ký sinh ở các loài cá nước ngọt ở Liên Xô, do Bychowsky biên tập từ kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả. Công trình này đã phát hiện và phân loại được khoảng 2000 loài ký sinh trùng khác nhau và công bố năm 1968.
  8. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS Từ 1970 đến những năm cuối của thế kỷ 20, ngành NTTS của thế giới đã phát triển mạnh. Không phải chỉ nuôi cá nước ngọt, mà nhiều loài cá biển, giáp xác, động vật thân mềm có giá trị kinh tế đã được đưa vào nuôi. Hình thức nuôi công nghiệp (thâm canh và siêu thâm canh) đã thay thế cho hình thức nuôi quảng canh truyền thống, làm bệnh tật phát sinh nhiều, gây tác hại rất lớn. Ngoài các công trình nghiên cứu về KST, hàng loạt các công trình nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm do virus, vi khuẩn và nấm gây ra ở các đối tượng nuôi như cá, tôm, cua, động vật thân mềm 2 vỏ....đã được tiến hành. Các bệnh do yếu tố vô sinh (do dinh dưỡng, do môi trường) cũng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu.
  9. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS Các phương pháp chẩn đoán và phòng trị cũng được phát triển nhằm phục vụ chẩn đoán bệnh trong thực tế sản xuất. Một số phương pháp hiện đại cũng được ứng dụng để chẩn đoán bệnh ở động vật thủy sản, như chẩn đoán bằng phương pháp miễn dịch học (Elisa, phản ứng ngưng kết huyết thanh), phương pháp sinh học phân tử.(Polymerase Chain Reaction-PCR). Đặc biệt ở giai đoạn này, việc ứng dụng một số sản phẩm của công nghệ sinh học như vaccine, chế phẩm vi sinh, các chất kích thích miễn dịch... để phòng bệnh và quản lý môi trường, sức khỏe ĐVTS đã phổ biến ở nhiều quốc gia có nghề nuôi thủy sản phát triển. Các thành tựu nghiên cứu trên được đánh dấu bằng các cuộc hội thảo khoa học quốc tế và khu vực về BHTS được tổ chức nhiều lần, ở nhiều quốc gia. Tại đây các công trình nghiên cứu được công bố và ứng dụng vào sản xuất.
  10. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS * Sơ lược một số kết quả nghiên cứu của thế giới về lĩnh vực bệnh học thủy sản như sau: Đã phát hiện ra khoảng 60 loại virus gây bệnh ở cá, 18 loại virus gây bệnh ở giáp xác và 12 loại virus gây bệnh ở động vật thân mềm Hàng trăm loài vi khuẩn khác nhau gây bệnh ở ĐVTS cũng đã được phát hiện và nghiên cứu, trong đó tập trung chủ yếu ở một số giống như: Vibrio spp., Aeromonas spp., Pseudomonas spp., Mycobacterium spp., Streptococcus spp., ... Nhiều giống loài nấm nước ký sinh ở ĐVTS cũng đã được phát hiện và nghiên cứu sâu nhằm hạn chế tác hại của chúng như: Saprolegnia spp., Achlya spp., Aphanomyces spp., Lagenidium spp., Atkinsiella spp., Fusarium spp., Haliphthoros spp. và Sirolpidium spp.
  11. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS * Hiện nay có một số vấn đề thuộc lĩnh vực BHTS đang được thế giới quan tâm và tập trung nghiên cứu: Quản lý dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản thông qua việc làm tăng sức đề kháng ở động vật nuôi bằng cách ứng dụng công tác chọn giống, lai tạo ra đàn giống không mang mâm bệnh và có sức đề kháng cao. Sử dụng các sản phẩm của khoa học công nghệ (vaccine, chế phẩm vi sinh, chất kích thích miễn dịch) để quản lý sức khỏe, môi trường và phòng bệnh trong NTTS. Quan tâm đến những loại thuốc chữa bệnh có nguồn gốc thảo dược nhằm tận dụng ưu thế của loại thuốc này an toàn đối với vật nuôi, con người và môi trường để phòng trị bệnh cho ĐVTS.
  12. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS 2. Tình hình ở Việt nam Trước năm 1960, BHTS ở Việt Nam hầu như chưa được quan tâm. Nhóm NC BHTS được hình thành đầu tiên tại trạm nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng 1960, là Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I hiện nay. Đến nay, do yêu cầu của thực tế sản xuất, các phòng NC bệnh ở ĐVTS được xây dựng ở nhiều nơi: Viện NCTS I (Bắc Ninh), II (TP Hồ Chí MInh) và III (Nha Trang-Khánh Hòa), tại các trường đại học có đào tạo đại học ngành NTTS như trường ĐHTS, trường ĐH Cần Thơ, Trường ĐH Nông Lâm TP Hồ Chí Minh đều có các phòng NC về BHTS. Ngoài ra, tại các địa phương có nghề NTTS phát triển, đều có các trạm kiểm dịch giúp nông dân phát hiện và phòng chống dịch bệnh trong NTTS.
  13. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS Từ năm 1960 đến 1990 các công trình nghiên cứu về bệnh ĐVTS ở Việt nam, chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các khu hệ KST và các bệnh do KST ký sinh gây ra ở cá. Công trình đầu tiên: “NC khu hệ KST và bệnh của cá nước ngọt miền Bắc Việt Nam " của Hà Ký, NC này thực hiện trong 15 năm (1960- 1975), đã mô tả 120 loài ký sinh trùng ký sinh trên cá nước ngọt ở miền Bắc Việt Nam, trong đó có 42 loài ký sinh trùng mới, một giống và một họ phụ mới đối với khoa học. Công trình nghiên cứu: "khu hệ KST ký sinh trên 41 loài cá nước ngọt ĐBSCL" của Bùi Quang Tề và ctv (1984-1990). Công trình này đã phát hiện được 157 loài ký sinh trùng và một số loài mới với khoa học. Công trình nghiên cứu: "Khu hệ KST ký sinh ở 20 loài cá nước ngọt ở miền Trung và Tây Nguyên" của Nguyễn Thị Muội và Đỗ Thị Hòa (1980-1985). Công trình này đã phát hiện được 57 loài ký sinh trùng.
  14. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS Công trình nghiên cứu " Thành phần KST ký sinh trên một số loài cá biển có giá trị kinh tế tại Phú Khánh (Khánh hòa )" của Nguyễn Thị Muội và Đỗ Thị Hòa (1978-1980). Công trình này đã phát hiện được 80 loài KST ký sinh trên cá biển. Từ năm 1990 đến nay, nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam đã có bước phát triển mới, những đối tượng có giá trị kinh tế lớn như: tôm sú (Penaeus monodon), tôm hùm (Panulirus spp.), cá mú (Epinepherus spp.), cua biển (Scylla spp.), cá chẽm (Lates calcalifer), tôm càng xanh (Macrobranchium rosenbergii)... đã được đưa vào nuôi ở mức độ bán thâm canh và thâm canh ở nhiều địa phương trong cả nước và dịch bệnh là trở ngại lớn nhất, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế của nghề nuôi các đối tượng này. Do vậy, trong thời kỳ này, NC về BHTS ở Việt Nam đã có nhiều thành tựu mới: "Bước đầu tìm hiểu bệnh tôm sú ở Khánh Hòa và đề ra biện pháp phòng trị" của Nguyễn Trọng Nho (1990-1991). " NC một số bệnh trên tôm sú nuôi ở các tỉnh Nam Trung bộ " của Đỗ Thị Hòa (1992-1995), NC này đã phát hiện một số bệnh do Protozoa, vi khuẩn và nấm gây ra trên tôm sú nuôi tại khu vực này.
  15. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS " NC các biện pháp phòng trị bệnh cho 13 bệnh khác nhau ở tôm và cá nuôi tại Việt Nam" của Hà Ký và CTV (1990-1995). Trong nghiên cứu này đã đi sâu về biện pháp phòng trị của 1 số bệnh quan trọng như: Bệnh đốm đỏ ở cá trắm cỏ, bệnh phát sáng ở ấu trùng tôm sú, bệnh ăn mòn vỏ kitin ở tôm sú, bệnh xuất huyết cá ba sa nuôi bè, bệnh hoại tử do vi khuẩn ở cá trê, bệnh hoại tử đốm nâu ở tôm càng xanh, bệnh viêm sau khi cấy trai ngọc... " Tìm hiểu nguyên nhân gây chết tôm nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long" của Nguyễn Việt Thắng và CTV (1994-1996). Nghiên cứu này đã thu hút sự tham gia của nhiều Viện NC và trường ĐH, nhằm tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng tôm chết dữ dội ở các tỉnh Nam bộ. Đây là dấu hiệu thể hiện sự quan tâm của nhà nước, bộ thủy sản và các nhà khoa học về vấn đề dịch bệnh tôm ở Việt Nam. "Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên cá trắm cỏ" tập trung chủ yếu ở phòng bệnh của viện NCNTTS I. "Nghiên cứu bệnh xuất huyết trên cá Ba sa ở các tỉnh đồng bằng sông cửu long" tập trung chủ yếu ở viện NCNTTS II.
  16. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS “NC bệnh Monodon Type Baculovirus (MBV) trên tôm sú nuôi tại Khánh Hòa của Đỗ Thị Hòa và CTV (1997-2000) cho thấy tỷ lệ nhiễm phổ biến của virus này trên tôm sú (Penaeus monodon) ở Khánh Hòa và miền Trung Việt nam và cảnh báo sự suy giảm của chất lượng tôm giống sản xuất tại địa phương do tác hại của virus này. "NC bệnh virus đốm trắng (WSSV) ở tôm sú nuôi (Penaeus monodon) và đề xuất biện pháp phòng trị tại Khánh Hòa" của Đỗ Thị Hòa và CTV (2000-2002) đã cho thấy tác hại, đặc điểm dịch tễ học và mức độ nhiểm của virus WSSV trên tôm sú tại Khánh Hòa. Đặc biệt tác giả cũng thông báo về sự nhạy cảm của bệnh này dưới những tác động của các nhân tố gây stress từ môi trường như: Độ mặn, pH, nồng độ của Ammonia trong nước ao. "NC một số bệnh nguy hiểm ở tôm sú và tìm hiểu các yếu tố nguy cơ để đưa ra các PP chẩn đoán, phòng trị bệnh" của Nguyễn Văn Hảo và CTV (2000-2003) chủ yếu thực hiện trên địa bàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu này nhằm tìm ra được biện pháp phòng bệnh từ các giải pháp môi trường, xác định mùa vụ và tăng cường sức khỏe vật nuôi.
  17. III. Lịch sử PT ngành KH BHTS "Điều tra về công tác quản lý sức khỏe cá nước ngọt ở ĐBSCL" của Từ Thanh Dung (1999), trường ĐH Cần Thơ đã đề cập đến một số bệnh thường gặp trên các loài cá nước ngọt nuôi tại các tỉnh Nam Bộ và hiện trạng quản lý sức khỏe ĐVTS tại khu vực này. "NC bệnh đốm trắng (bệnh hoại tử nội tạng) của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) nuôi công nghiệp "của Trần Thị Minh Tâm và các CTV (2003) đã phát hiện được tác nhân gây bệnh là 1 loài vi khuẩn mới: Hafnia alvei. Đặc biệt trong NC, tác giả lần đầu tiên ở Việt nam đã áp dụng phương pháp ngưng kết huyết thanh để chẩn đoán bệnh ở ĐVTS. Đặc biệt, đến 2001, chúng ta đã phân lập được một số virus gây bệnh ở tôm sú nuôi như bệnh đốm trắng (WSSV), bệnh đầu vàng (YHD) (Văn Thị Hạnh, 2001)
  18. Trường ĐHNN1 Tr Khoa CN-TS CN Chương I NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ BỆNH HỌC VÀ BỆNH HỌC THỦY SẢN ThS. GV. Kim Văn Vạn Bộ môn: Nuôi trồng thủy sản
  19. I. ĐỊNH NGHĨA, ĐẶC ĐIỂM VÀ I. PHÂN LOẠI BỆNH Ở ĐỘNG VẬT PHÂN 1. Định nghĩa ngh Một cơ thể động vật đang sống được đặc trưng bởi các hoạt động sống của cơ thể như: Trao đổi chất, sinh trưởng, phát triển, sinh sản...các hoạt động này giúp cơ thể động vật sống, lớn lên và duy trì nòi giống. Khi cơ thể khỏe mạnh, các họat động sống diễn ra theo một cơ chế chặt chẽ và thống nhất dưới sự điều khiển của trung tâm thần kinh. Khi cơ thể động vật bị tấn công, hay xậm nhập của một Khi hay nhiều yếu tố khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, yếu tố vô sinh hay hữu sinh, bên ngoài hay bên trong làm một hay nhiều hoạt động sống của động vật đó bị rối loạn, ngừng trệ hoặc bị phá hủy thì gọi động vật đó đang bị bệnh.
  20. Vậy, bệnh ở động vật nói chung, động vật thủy sản nói riêng là trạng thái bất bình thường của cơ thể, khi một hay một số hoạt động sống bị rối loạn, ngừng trệ dưới tác động trực tiếp hay gián tiếp của các nhận tố vô sinh (yếu tố môi trường, hoặc dinh dưỡng) hoặc hữu sinh (virus, vi khuẩn, nấm, và các loại ký sinh trùng khác nhau). Khi động vật thủy sản bị bệnh thường có một số biểu hiện: Trạng Khi thái hoạt động không bình thường (không giữ được thăng bằng, nổi đầu, dạt bờ), bỏ hoặc kém ăn, có sự thay đổi màu sắc của 1 bộ phận hay toàn bộ cơ thể, kèm theo dấu hiệu chậm lớn, yếu và nếu các hoạt động sống bị rối loạn, phá hủy ở 1 hay nhiều cơ quan quan trọng như: hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, thần kinh... thì bệnh xảy ra nặng và động vật bị bệnh có thể chết.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2