intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo "Bàn về tội phạm rõ, tội phạm ẩn trong tội phạm học "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

611
lượt xem
118
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bàn về tội phạm rõ, tội phạm ẩn trong tội phạm học. Tội phạm rõ và tội phạm ẩn là những thuật ngữ thuộc chuyên ngành tội phạm học. Trong lí luận cũng như thực tiễn phòng ngừa tội phạm , việc xác định tội phạm rõ , tội phạm ẩn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bàn về tội phạm rõ, tội phạm ẩn trong tội phạm học. Tội phạm rõ và tội phạm ẩn là những thuật ngữ thuộc chuyên ngành tội phạm học. Trong lí luận cũng như thực tiễn phòng ngừa tội phạm , việc...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo "Bàn về tội phạm rõ, tội phạm ẩn trong tội phạm học "

  1. nghiªn cøu - trao ®æi TS. D−¬ng TuyÕt Miªn * “Tội phạm rõ” (cleared crime) và “tội định tội phạm rõ là khi tội phạm bị đưa ra xét phạm ẩn” (là dark figure of crime hoặc xử về hình sự và có trong thống kê hình sự unreported crime) là những thuật ngữ thuộc hay nói cách khác, con số về tội phạm được chuyên ngành tội phạm học. Trong lí luận thống kê chính thức bởi cơ quan toà án là tội cũng như thực tiễn phòng ngừa tội phạm, phạm rõ. Số liệu này được cơ quan toà án việc xác định tội phạm rõ, tội phạm ẩn có ý thống kê hàng năm. Sở dĩ có quan điểm về nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi vì để có cái thời điểm xác định tội phạm rõ như vậy là vì nhìn khách quan và tương đối toàn diện về các tài liệu này đều cho rằng thống kê xét xử thực trạng của tình hình tội phạm, trước hết hình sự của toà án có tính chính xác cao, ổn cần phải đồng thời dựa vào số liệu về tội định vì đây là giai đoạn cuối cùng của quá phạm rõ và số liệu về tội phạm ẩn. Sở dĩ trình chứng minh. Mặt khác, thực tế cũng cho phải có sự kết hợp này vì không phải mọi tội thấy số người bị toà án xử oan là hãn hữu. phạm xảy ra trên thực tế đều bị phát hiện và Tuy nhiên, tác giả lại có quan điểm khác xử lí về hình sự. Có khá nhiều tội phạm xảy về tội phạm rõ mà thực chất chính là thời ra trên thực tế nhưng do nhiều nguyên nhân điểm để xác định tội phạm rõ. Thời điểm khác nhau nên không bị phát hiện và do vậy được coi là tội phạm rõ khá sớm, ngay từ khi không bị xử lí về hình sự. Vì vậy, việc nhận cơ quan cảnh sát nhận được tin báo về tội thức đúng và thống nhất về tội phạm rõ, tội phạm và có sự xác nhận của cơ quan cảnh phạm ẩn có ý nghĩa vô cùng quan trọng sát hoặc cơ quan áp dụng pháp luật khác là trong công tác thống kê tội phạm cũng như hành vi đó vi phạm luật hình sự. đánh giá được ở mức độ tương đối về thực Xác định tội phạm rõ phải dựa trên thông số về số vụ án xảy ra trên thực tế (chứ không trạng tội phạm ẩn, từ đó giúp cho cơ quan có phải là số vụ án bị đưa ra xét xử trên thực tế) thẩm quyền có được cái nhìn tương đối toàn và chỉ khi làm như vậy mới phản ánh chính diện về tình hình tội phạm, trên cơ sở đó xây xác về thực trạng của tình hình tội phạm. dựng được biện pháp phòng ngừa tội phạm Thông số về số vụ án xảy ra trên thực tế sát với thực tế. được lưu trữ ở cơ quan cảnh sát là đầy đủ 1. Tội phạm rõ(1) nhất vì thông thường, khi có tội phạm xảy ra, Hiện nay, nhìn chung, đa phần các tài người dân thường báo cho cơ quan cảnh sát liệu tội phạm học lưu hành ở Việt Nam đều biết. Khi xác nhận là có tội phạm, cơ quan cho rằng tội phạm rõ là tội phạm đã bị điều tra, truy tố, xét xử về hình sự và có trong * Giảng viên chính Khoa luật hình sự thống kê hình sự. Như vậy, thời điểm để xác Trường Đại học Luật Hà Nội t¹p chÝ luËt häc sè 3/2010 27
  2. nghiªn cøu - trao ®æi cảnh sát sẽ lập hồ sơ. Thống kê của cơ quan Như vậy, nếu dựa vào số liệu của cơ cảnh sát phản ánh đầy đủ, bao quát hơn số quan cảnh sát thì việc đánh giá sẽ chính xác liệu xét xử hình sự của toà án vì nhân tố hơn (tuy chỉ là tương đối) vì cho dù chưa quan trọng nhất phản ánh thực trạng của tình đưa vụ án ra xét xử do không bắt được người hình tội phạm chính là số vụ án hình sự xảy phạm tội nhưng cơ quan cảnh sát vẫn có ra trên thực tế. Bởi vì, không phải mọi vụ án được số liệu về vụ phạm tội xảy ra (trong khi xảy ra thì các cơ quan chức năng đều truy đó, số liệu này không có trong thống kê của tìm ra thủ phạm và tất cả các bị cáo đều bị toà án). Còn nếu dựa vào số liệu tội phạm bị đưa ra xét xử. Thực tế cho thấy số vụ án hình phát hiện và bị xét xử về hình sự có trong sự xảy ra so với số vụ án hình sự đã tìm ra thống kê hình sự của toà án thì thực chất số thủ phạm và bị đưa ra xét xử có độ vênh khá liệu này đã bỏ bớt một phần đáng kể số vụ lớn. Con số vụ án hình sự tìm ra thủ phạm và án có thật trên thực tế, nghĩa là số liệu này bị đưa ra xét xử chiếm tỉ lệ thấp hơn nhiều chỉ phản ánh được phần nào thực trạng của so với con số vụ án hình sự xảy ra trên thực tình hình tội phạm. Tuy nhiên cũng cần lưu ý tế. Do vậy, nếu đánh giá tình hình tội phạm là số liệu của cơ quan cảnh sát vẫn có hạn mà chỉ dựa vào số liệu xét xử của toà án thì chế. Đó là trong một số ít trường hợp, có chắc chắn phản ánh không đúng vì thực chất một số cá nhân bị cơ quan cảnh sát xác định nó chỉ phản ánh phần nổi của tảng băng là có tội nhưng sau đó kết luận của toà án lại chìm. Đó là chưa kể đến số liệu xét xử của khẳng định họ vô tội hoặc họ phạm tội khác, toà án về số vụ, bị cáo sẽ không thể "khớp" không phải là tội phạm theo kết luận của cơ về thời gian so với số vụ, bị cáo xảy ra trên quan cảnh sát. Ở đây đã có sự sai số về thực tế bởi vì nhiều vụ phạm tội xảy ra thời người phạm tội hoặc số tội phạm thực hiện gian khá lâu, sau đó người phạm tội mới bị (nhưng thực tế cho thấy sự sai số này là đưa ra xét xử; hoặc tuy có phát hiện ra thủ không đáng kể). Tuy nhiên, cho dù có thể có phạm nhưng do khách quan, án bị tồn đọng sự sai số về người phạm tội trong một số ít và xét xử chậm.(2) Ví dụ: vụ cướp tài sản xảy trường hợp thì so với số liệu của toà án, số ra vào năm 2002 nhưng mãi đến tận năm liệu thống kê của cơ quan cảnh sát vẫn đầy 2007 nhóm phạm tội mới bị bắt, bị đưa ra đủ hơn vì nó bao hàm cả những vụ có thật xét xử vào cuối năm 2007 và như vậy sẽ có xảy ra trên thực tế nhưng chưa truy tìm ra trong số liệu xét xử của năm 2007. Như vậy, thủ phạm và do vậy chưa bị đưa ra xét xử; đây là vụ án bị xét xử vào năm 2007 chứ hoặc những vụ người phạm tội tuy có tội không phải là xảy ra vào năm 2007. Nếu những sau đó được viện kiểm sát xác định dùng số liệu này làm tội phạm rõ để đánh giá miễn trách nhiệm hình sự. về thực trạng của tình hình tội cướp xảy ra Mặc dù số liệu xét xử của toà án có hạn vào năm 2007 thì sẽ không logic nếu như chế nhất định như đã phân tích ở trên nhưng không muốn nói là phản ánh sai lệch về tình khi đánh giá về thực trạng của tình hình tội hình tội cướp năm 2007 (bởi vì thực chất, vụ phạm vẫn cần tham khảo số liệu này để thấy án xảy ra vào năm 2002). rõ sự chênh lệch về số vụ án xảy ra trên thực 28 t¹p chÝ luËt häc sè 3/2010
  3. nghiªn cøu - trao ®æi tế và số vụ án bị đưa ra xét xử hình sự. Từ đó, lí hơn, phù hợp hơn với xu thế các nước vẫn cơ quan chức năng sẽ đánh giá về hiệu quả sử dụng để xác định tội phạm rõ. hoạt động của mình để có những cải cách cần 2. Tội phạm ẩn thiết thúc đẩy công tác phát hiện tội phạm Thuật ngữ “tội phạm ẩn” do Adolphe cũng như hoạt động điều tra, truy tố, xét xử Quetelet - nhà toán học, xã hội học của Bỉ có hiệu quả. Qua nghiên cứu tài liệu tội phạm đưa ra lần đầu tiên vào năm 1830 (Adolphe học nước ngoài, tác giả nhận thấy các tài liệu Quetelet còn là nhà sáng lập ra khoa học này đều sử dụng số liệu của cơ quan cảnh sát thống kê hiện đại). Chính ông là người đầu để minh chứng về tội phạm rõ và không hề tiên đưa ra thuật ngữ “dark figure of crime”.(6) dùng số liệu của toà án.(3) Ví dụ, theo GS.TS. Nghiên cứu về thực trạng của tình hình Jock Yong: “có 4 nguồn thông tin là cơ sở để tội phạm không chỉ dựa vào con số về tội xác định tội phạm trong xã hội. Đó là: phạm rõ mà còn phải dựa vào việc đánh giá - Số liệu từ cơ quan cảnh sát; về tội phạm ẩn bởi vì số liệu tội phạm rõ chỉ - Số liệu từ cuộc điều tra nạn nhân của phản ánh được phần nào tình hình tội phạm. tội phạm; Theo GS.TS. Tymothy Mason, số lượng - Số liệu từ cuộc điều tra về tội phạm tự tội phạm ẩn lớn hơn 6 đến 10 lần tội phạm tường thuật; rõ.(7) Còn theo cuộc điều tra về tội phạm ẩn ở - Các số liệu khác (ví dụ số liệu về các Anh tiến hành năm 2000, tội phạm ẩn chiếm nạn nhân của vụ tai nạn giao thông được khoảng 70% tổng số vụ phạm tội.(8) Điều này điều trị tại bệnh viện)”.(4) có nghĩa là số lượng tội phạm “nằm trong Trong các nguồn trên thì số liệu của cơ bóng tối” không bị trừng trị bởi pháp luật quan cảnh sát được sử dụng để minh chứng chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng số tội phạm. về tội phạm rõ. Ba nguồn còn lại dùng để Qua nghiên cứu tài liệu tội phạm học xác định tội phạm ẩn. nước ngoài, tác giả nhận thấy nhìn chung các Còn theo GS.TS. Frank Schmalleger: “số tài liệu này có quan điểm này tương đối liệu về tội phạm ở Mỹ được xác định trên cơ giống nhau khi quan niệm về tội phạm ẩn. sở 2 nguồn:(5) Cụ thể như sau: “Tội phạm ẩn là những tội - Số liệu từ Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI). phạm có thực nhưng không được tường thuật - Số liệu từ Cục thống kê tư pháp” . với cảnh sát”.(9) Số liệu của Cục điều tra liên bang Mỹ “Tội phạm ẩn là số lượng lớn tội phạm được sử dụng để minh chứng về tội phạm rõ. không được tường thuật với cảnh sát và không Còn Cục thống kê tư pháp sẽ tiến hành cuộc có trong thống kê hình sự chính thức”.(10) điều tra quốc gia về nạn nhân của tội phạm Như vậy, có thể thấy rõ các quan niệm hàng năm để xác định tội phạm ẩn. về tội phạm ẩn của tội phạm học nước ngoài Từ sự phân tích ở trên, tác giả cho rằng đã nhấn mạnh tới hai đặc tính của nó. Đó là: nên thay đổi quan điểm coi số liệu từ toà án + Chưa được tường thuật; làm căn cứ để mô tả tội phạm rõ, chúng ta + Không có trong thống kê hình sự chính thức. nên lấy số liệu của cơ quan cảnh sát thì hợp Quan điểm của tội phạm học trong nước t¹p chÝ luËt häc sè 3/2010 29
  4. nghiªn cøu - trao ®æi nhìn chung có điểm khác với quan điểm của phạm tội nhưng do nhận hối lộ của người tội phạm học nước ngoài. phạm tội nên cơ quan điều tra chỉ lập hồ sơ Ví dụ: “Tội phạm ẩn là toàn bộ các tội xử lí hành chính (cố ý làm giảm mức độ sai phạm cụ thể thực tế đã xảy ra và số lượng phạm của hành vi để xử lí hành chính); hoặc người thực hiện các tội phạm đó chưa bị cán bộ điều tra đã được người dân báo về vụ phát hiện và xử lí về hình sự, vì vậy nó phạm tội nhưng không lập hồ sơ xử lí hình không có trong thống kê hình sự”(11) sự mà lại đứng ra làm trung gian xúc tiến “Tội phạm ẩn là số lượng tội phạm đã việc bồi thường của người phạm tội đối với được thực hiện nhưng chưa bị phát hiện vì lí nạn nhân hoặc gia đình nạn nhân để nạn do nào đó”.(12) nhân hoặc gia đình nạn nhân rút đơn (vì vậy, Cả hai quan điểm trên đều chưa nhấn vụ việc không được lập hồ sơ, vào sổ sách). mạnh tới đặc trưng rất quan trọng của tội Trên diễn đàn khoa học, có ý kiến cho phạm ẩn - đó là chưa được tường thuật với rằng ngoài 2 loại tội phạm ẩn nói trên còn có cơ quan cảnh sát. tội phạm ẩn thống kê - trường hợp tội phạm Tác giả cho rằng tội phạm ẩn cần được đã bị phát hiện và đưa ra xét xử về hình sự hiểu như sau: Tội phạm ẩn là số lượng tội nhưng không có trong thống kê hình sự phạm đã thực hiện trên thực tế nhưng không chính thức.(13) Tác giả cho rằng tội phạm ẩn được tường thuật với cơ quan cảnh sát hoặc thống kê thực chất vẫn là tội phạm rõ vì khi chưa bị phát hiện bởi cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra xét xử rồi thì đương nhiên phải là và do vậy chưa bị đưa ra xét xử, chưa có tội phạm rõ, còn việc thông số về vụ án trong thống kê hình sự chính thức. không có trong số liệu thống kê chính thức Có 2 loại tội phạm ẩn, đó là tội phạm ẩn của toà án là do nhiều nguyên nhân khác khách quan và tội phạm ẩn chủ quan. nhau. Xin nêu một số nguyên nhân: Tội phạm ẩn khách quan là trường hợp - Kĩ thuật thống kê còn hạn chế (ví dụ tội phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng do nếu trong vụ án, bị cáo bị xét xử về nhiều tội nguyên nhân khách quan, cơ quan chức năng thì thống kê ở nước ta hiện nay chỉ thống kê không phát hiện ra vụ phạm tội - không có số liệu về tội nặng nhất trong vụ án); thông tin về vụ án (ví dụ: nạn nhân đã bị giết - Do bệnh thành tích nên có địa phương chết trong rừng và người phạm tội đã che không đưa một số vụ án vào số liệu thống kê. giấu bằng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và - Do sai sót của cán bộ thống kê (trình độ không có người chứng kiến vụ việc). chuyên môn hạn chế hoặc thiếu tinh thần trách Tội phạm ẩn chủ quan là trường hợp tội nhiệm nên thống kê thiếu, không đầy đủ). phạm đã xảy ra trên thực tế, cán bộ hoặc cơ Do đó, tác giả cho rằng trường hợp vụ án quan chức năng đã nắm được vụ việc nhưng đã bị xét xử về hình sự nhưng không có do nhiều nguyên nhân khác nhau mà vụ án trong số liệu thống kê của toà án gọi là sai số không được thụ lí, xử lí hình sự và do đó thống kê thì hợp lí hơn. không có trong số liệu thống kê. Ví dụ: cán Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn có bộ điều tra đã được người dân báo về vụ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có thể 30 t¹p chÝ luËt häc sè 3/2010
  5. nghiªn cøu - trao ®æi chia làm 4 nhóm: hiện, đảm bảo để họ không phải lo lắng về sự - Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội tiết lộ thông tin với người tiến hành điều tra phạm: Nạn nhân không tố cáo về vụ phạm cũng như không sợ hãi sẽ bị bắt giữ và bị xử tội có thể là do: lí về hình sự do đã thực hiện tội phạm. Đối + Bị người phạm tội (hoặc người nhà tượng mà các nhà nghiên cứu hướng tới thường người phạm tội) đe doạ; là những người trẻ tuổi vì đây là nhóm có + Không tin tưởng vào cơ quan bảo vệ nguy cơ phạm tội cao. Kết quả thu được từ điều pháp luật; tra về tội phạm tự tường thuật cho thấy số tội + Sợ phiền hà hoặc sợ công khai bí mật phạm xảy ra trên thực tế cao hơn rất nhiều so đời tư... với số tội phạm có trong thống kê chính thức. - Nguyên nhân từ phía người phạm tội: Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu còn biết Người phạm tội thực hiện tội phạm bằng thủ được một số vấn đề khác không thể có được đoạn quá tinh vi xảo quyệt hoặc người phạm trong thống kê chính thức của cơ quan thống tội đã đe doạ nạn nhân, người làm chứng kê như những nhân tố tiêu cực tác động đến hoặc người phạm tội đã đưa hối lộ cho người việc gây ra tội phạm. Đồng thời, “bức tranh” có chức vụ quyền hạn... về tội phạm đã sáng tỏ hơn khi kết hợp xem - Nguyên nhân từ phía cơ quan chức xét, đánh giá cả số liệu về tội phạm rõ cũng năng: Thiếu tinh thần trách nhiệm, cán bộ có như số liệu tội phạm ẩn đã xảy ra. hành vi nhận hối lộ để không xử lí vụ việc Tuy nhiên, phương pháp này cũng có hoặc do nể nang, quen biết nên bao che một số hạn chế. Cụ thể là do đối tượng được không xử lí vụ việc... nghiên cứu thường nhằm vào người trẻ tuổi - - Nguyên nhân từ phía người làm chứng. diện nghiên cứu còn chưa rộng và sự tự Người làm chứng không dám tố cáo hoặc tường thuật của một số người có thể không đứng ra làm chứng vụ việc do nhiều nguyên trung thực hoặc do tội phạm xảy ra đã lâu so nhân khác nhau như: sợ bị trả thù, sợ liên lụy với thời điểm tự tường thuật, do vậy có thể khó khăn cho bản thân, quen biết hoặc là đưa tới kết quả nghiên cứu chỉ mang tính người thân của người phạm tội... chính xác tương đối. Để xác định tội phạm ẩn, các nhà tội - Điều tra về nạn nhân của tội phạm (the phạm học trên thế giới thường tiến hành hai victimization survey): Ở các nước có nền tội phương pháp điều tra sau đây: phạm học phát triển như Anh, Mỹ, Australia, - Điều tra về tội phạm tự tường thuật điều tra về nạn nhân của tội phạm được tiến (offender self-report surveys): Ở các nước có hành hàng năm. Với loại điều tra này, nhà nền tội phạm học phát triển như Anh, Mỹ, nghiên cứu cũng phải cam kết giữ bí mật danh Australia, điều tra về tội phạm tự tường thuật tính của nạn nhân tham gia tự tường thuật bởi được tiến hành hàng năm. Để tiến hành các vì sự tiết lộ danh tính của họ trong nhiều cuộc điều tra loại này, các nhà nghiên cứu trường hợp có thể gây bất lợi cho nạn nhân phải cam kết giữ bí mật danh tính của người (nhất là đối với nạn nhân của nhóm tội xâm tham gia tự tường thuật về tội phạm đã thực phạm tình dục, tội phạm bạo lực gia đình). t¹p chÝ luËt häc sè 3/2010 31
  6. nghiªn cøu - trao ®æi Điều cần chú ý là việc thiết kế mẫu điều tra về nạn nhân của tội phạm phải khác với vấn đề này, xem: tr. 77, 78. (3). Trong các tài liệu tội phạm học nước ngoài, số mẫu điều tra về tội phạm tự tường thuật vì đây liệu của toà án thường dùng để đánh giá “chỉ số tái là những đối tượng nghiên cứu khác nhau. phạm” - đánh giá về tỉ lệ người phạm tội bị kết án tù Hạn chế của phương pháp này là không với số người sau khi mãn hạn tù lại tiếp tục phạm tội. phải nạn nhân nào cũng tường thuật đúng sự (4).Xem: Bài giảng “Extend of Crime” của GS.TS. Jock Young, Nguồn: http://www.malcolmread.co.ukJock thật do e ngại bị ảnh hưởng đến đời sống Youngthe_extent_of_crime.pdf ngày 21/8/2009. riêng tư hoặc do thái độ bất hợp tác... Mặt GS.TS. Jock Young là học giả người Anh nổi tiếng khác, diện nghiên cứu của phương pháp này trên thế giới về tội phạm học, xã hội học. Trong sự có thể không bao quát được hết tất cả các nạn nghiệp của mình, ông nhận được nhiều giải thưởng uy tín. Cụ thể là “Giải thưởng Sellin Glueck cho học giả nhân của tội phạm, do vậy kết quả nghiên cứu quốc tế xuất sắc” của Hiệp hội tội phạm học Mỹ năm theo phương pháp này cũng chỉ có tính chính 1998; “Giải thưởng thành tựu suốt đời” năm 2003 xác tương đối. Bên cạnh đó còn có một số tội theo sự phân hạng các nhà tội phạm học phê phán của phạm không có nạn nhân, do vậy, trường hợp Hiệp hội tội phạm học Mỹ. (5).Xem: GS.TS. Frank schmalleger, Criminology này không thể tiến hành phương pháp điều Today, Prentice Hall Publisher, 2002, tr. 36. GS.TS. tra về nạn nhân của tội phạm. Nhưng phương Frank schmalleger là học giả nổi tiếng người Mỹ về pháp điều tra về nạn nhân của tội phạm đã chuyên ngành tội phạm học, xã hội học, hiện ông giúp cho các nhà tội phạm học đánh giá đang giảng dạy tại Trường đại học North Carolina at Pembroke của Mỹ. chính xác hơn về tội phạm ẩn cũng như nhận (6).Xem: “The Dark Figure of British Crime”, Tạp diện được rõ hơn bức tranh hiện thực về tội chí City Journal, Spring 2009, Nguồn: http:// www. phạm - tình hình tội phạm. berlinski.com/node/116 Ngoài 2 phương pháp trên, để xác định (7).Xem: Bài giảng: “Official statistics & the dark figure”, của S.Timothy Mason, Paris University, tội phạm ẩn còn có thể dựa vào một số Nguồn: http://www.deviance 2-official statistics & nguồn khác như: số liệu từ bệnh viện, trạm y the dark figure.htm ngày 9/5/2006. tế để xác định tội phạm ẩn đối với một số tội (8).Xem: Bài giảng “Extend of Crime” của GS.TS. Jock như tội phạm giao thông, tội cố ý gây thương Young, Nguồn: http://www.malcolmread.co. ukJock Youngthe_extent_of_crime.pdf ngày 21/8/2009. tích. Số liệu từ các trung tâm tư vấn, trợ giúp (9).Xem: Bài giảng “Official statistics & the dark pháp lí, trung tâm hỗ trợ nạn nhân, nhà tạm figure” của S.Timothy Mason, Paris University, lánh để xác định tội phạm ẩn đối với một số Nguồn: http://www.deviance 2 - official statistics & tội như nhóm tội phạm tình dục, tội phạm the dark figure.htm ngày 9/5/2006. (10).Xem: GS.TS. Frank Schmalleger, “Criminology bạo lực gia đình./. Today”, Prentice Hall Publisher, 2002, tr. 61. (11).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình (1). Một số tài liệu tội phạm học ở Việt Nam có sử dụng tội phạm học, Nxb. CAND, Hà Nội, 2003, tr. 98. thuật ngữ “Phần hiện của tình hình tội phạm” hoặc (12).Xem: Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo “phần ẩn của tình hình tội phạm” là chưa chính xác vì trình tội phạm học, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, qua nghiên cứu khá nhiều tài liệu tội phạm học nước 1999, tr. 78. ngoài, tác giả nhận thấy không có những thuật ngữ này. (13). Các tài liệu tội phạm học nước ngoài mà tác giả (2). Giáo trình tội phạm học của Khoa luật, Đại học có điều kiện nghiên cứu chưa có tài liệu nào đề cập quốc gia Hà Nội có quan điểm tương tự với tác giả về đến tội phạm ẩn thống kê. 32 t¹p chÝ luËt häc sè 3/2010
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2