intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước: Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Chia sẻ: Minh Nguyet | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:453

130
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách đối với đội ngũ trí thức KH&CN nước ta hiện nay (Chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và các chính sách khác); đề xuất các giải pháp về đổi mới chính sách đói với đọi ngũ trí thức KH&CN (Chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và các chính sách khác) đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, góp phần xây dựng một Nghị quyết của Đảng về chính sách đối với trí thức KH&CN trong giai đoạn mới. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước: Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

  1. BAN KHOA GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐỀ TÀI ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP NHÀ NƯỚC ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Mã số đề tài: ĐTĐL – 2003/27 Chủ nhiệm: GS. TSKH. Nguyễn Hữu Tăng 6457 08/8/2007 Hà Nội, 4/2007
  2. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 P. I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH 5 ĐỐI VỚI TRÍ THỨC KHCN 1.1. Trí thức, đội ngũ trí thức và trí thức KH&CN 5 1.1.1. Trí thức 5 1.1.2. Đội ngũ trí thức 10 1.1.3. Sản phẩm của đội ngũ trí thức 11 1.1.4. Trí thức khoa học và công nghệ (KH&CN) 13 1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức và trí thức KH&CN Việt 14 Nam hiện nay 1.2.1. Một vài nét chủ yếu về đặc điểm trí tuệ con người Việt nam 15 1.2.2. Đặc điểm xã hội của trí thức 15 1.2.3. Đặc điểm về tôn giáo của trí thức 18 1.2.4. Đặc điểm về truyền thống văn hóa dân tộc của trí thức Việt Nam 21 1.2.5. Đặc điểm chuyên môn và học vấn của trí thức 23 1.2.6. Đặc điểm nghề nghiệp của trí thức 24 1.2.7. Đặc điểm phân bố trí thức theo các vùng lãnh thổ 25 1.2.8. Đặc điểm của các nhóm trí thức khoa học và công nghệ 25 1.3. Chính sách và chu trình chính sách 29 1.3.1. Chính sách 29 1.3.2. Chu trình chính sách 30 1.3.3. Chính sách đối với trí thức 32 1.3.4. Mục tiêu đổi mới chính sách đối với trí thức 34 1.4. Vai trò và trách nhiệm của trí thức KH&CN trong sự nghiệp 35 CNH, HĐH 1.4.1. Vai trò và trách nhiệm của trí thức 35 1.4.2. Vai trò trách nhiệm của đội ngũ trí thức KH&CN 38 1.5. Kinh nghiệm trong và ngoài nước về chính sách đối với trí 41 thức và trí thức KH&CN ii
  3. 1.5.1. Kinh nghiệm về chính sách đối với trí thức và trí thức KH&CN 41 của nước ta 1.5.2. Kinh nghiệm về chính sách đối với trí thức KH&CN của một số 50 nước trên thế giới 1.5.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc về chính sách đối với trí thức 50 KH&CN 1.5.2.2. Kinh nghiệm của các nước khác về chính sách đối với trí thức 59 KH&CN 1.5.3 Một số bài học kinh nghiệm của các nước đối với Việt Nam P. II BỐI CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG ĐỘI 64 NGŨ TRÍ THỨC KH&CN CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1. Bối cảnh kinh tế xã hội 64 2.1.1 Những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội từ đổi mới đến nay 66 2.1.2. Những hạn chế của nền kinh tế hiện nay 72 2.1.3. Cấu trúc lực lượng lao động của Việt Nam 75 2.2. Thực trạng về trí thức KH&CN nước ta hiện nay 79 2.2.1. Cơ cấu của đội ngũ trí thức 82 2.2.2. Cơ cấu đội ngũ trí thức hình thành trong quá trình sử dụng 87 2.2.3. Về năng lực hoạt động nghề nghiệp của trí thức 99 2.3. Những đóng góp của trí thức KH&CN của nước ta trong 101 những năm qua 2.3.1. Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn 102 2.3.2. Trong lĩnh vực giáo dục 103 2.3.3. Trong lĩnh vực KHCN 103 2.3.4. Những hạn chế của trí thức nước ta hiện nay 107 P. III THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRÍ THỨC 113 KH&CN TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY 3.1. Quan điểm và chủ trương của Đảng đối với đội ngũ trí thức 114 trong thời kỳ đổi mới 3.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về KH&CN đến năm 2010 120 3.2.1. Mục tiêu phát triển KH&CN và đội ngũ trí thức KH&CN 121 3.2.2. Các giải pháp lớn về phát triển KH&CN từ nay đến năm 2010 122 iii
  4. 3.3. Thực trạng về các nhóm chính sách đối với trí thức KH&CN 124 3.3.1. Nhóm các chính sách đào tạo 124 3.3.2. Nhóm CS đào tạo lại, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức 137 3.3.3. Nhóm các chính sách sử dụng 142 3.3.4. Nhóm chính sách đãi ngộ, tôn vinh 154 3.3.5. Các chính sách thu hút sự giúp đỡ từ bên ngoài và trí thức người 155 Việt ở nước ngoài 3.4. Đánh giá tác động của chính sách đối với trí thức KH&CN 156 3.4.1. Tác động của các chính sách sắp xếp lại, kiện toàn hệ thống tổ 156 chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ 3.4.2. Tác động của các chính sách bố trí lại lực lượng nghiên cứu 156 khoa học và phát triển công nghệ 3.4.3. Tác động của các chính sách đổi mới cơ chế quản lý hoạt động 163 KH&CN 3.4.4. Đánh giá về đóng góp của trí thức KH&CN 165 3.4.5. Các chính sách mở rộng nguồn vốn đầu tư hoạt động nghiên cứu 176 khoa học và phát triển công nghệ 3.4.6. Các chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu 179 3.4.7. Tạo lập thị trường KH&CN 179 3.4.8. Các chính sách tuyển dụng và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN 180 3.4.9. Các chính sách tôn vinh và chế độ đãi ngộ đối với các hoạt động 183 sáng tạo của người trí thức 3.4.10. Các chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài 186 3.4.11. Đánh giá về quá trình thực hiện chính sách 186 3.4.12. Kết luận 189 P. IV ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC 193 KH&CN TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 4.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển kinh tế - xã 198 hội đến năm 2020 và kế hoạch 5 năm 2006-2010 4.1.1. Bối cảnh kinh tế- xã hội trong thời gian tới 194 4.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 194 4.1.3. Mục tiêu phát triển đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu 197 iv
  5. HĐH, CNH 4.1.4. Huớng tới nền kinh tế trí thức 198 4.1.5. Chính sách đối với trí thức gắn với việc xây dựng nền kinh tế trí thức 201 4.2. Quan điểm, mục tiêu và nguyên tắc đề xuất giải pháp đổi 203 mới chính sách đối với trí thức KH&CN trong thời kỳ mới 4.2.1. Một số quan điểm đề xuất các giải pháp chính sách 204 4.2.2. Mục tiêu của việc đề xuất các giải pháp chính sách 204 4.2.3. Nguyên tắc của việc đề xuất các giải pháp chính sách 205 4.2.4. Những giải pháp tổng quát về chính sách đối với trí thức 206 KH&CN 4.3. Các nhóm giải pháp đổi mới chính sách đối với trí thức 210 KH&CN trong thời kỳ mới 4.3.1. Những yêu cầu đặt ra về đổi mới chính sách đối với trí thức 210 KH&CN trong tình hình hiện nay 4.3.2. Nhóm các chính sách phát triển đội ngũ trí thức KH&CN 212 4.3.3. Nhóm các giải pháp chính sách cải thiện điều kiện và môi trường 218 làm việc cho đội ngũ trí thức KH&CN 4.3.4 Các giải pháp chính sách đãi ngộ, tôn vinh, thu hút trí thức 237 4.4. Những điều kiện thực hiện chính sách đối với trí thức 247 P. V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận 248 5.2. Kiến nghị 251 Danh mục tài liệu tham khảo 251+1 Danh mục phụ lục của đề tài 251+5 v
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNXH Chủ nghĩa xã hội ĐH đại học ĐH, CĐ Đại học, cao đẳng ĐTN đào tạo nghề ĐT Đào tạo GCCN Giai cấp công nhân GDPT Giáo dục phổ thông GD & ĐT Giáo dục và đào tạo KH&ĐT Kế hoạch và đầu tư KHĐT Kế hoạch đầu tư KHH Kế hoạch hoá KH&CN khoa học và công nghệ KH XH khoa học xã hội KT - XH kinh tế - xã hội KHTC kế hoạch tài chính KTQD Kinh tế quốc dân LĐKT Lao động kỹ thuật NN Nhà nước THCN Trung học chuyên nghiệp THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông QLGD Quản lý giáo dục XHCN Xã hội chủ nghĩa vi
  7. DANH SÁCH THÀNH VIÊN ĐỀ TÀI 1 Chủ nhiệm đề tài P. chủ tịch chuyên trách Liên hiệp các hội KHKT GS. TSKH Nguyễn Hữu Tăng Việt nam 2 Thư ký đề tài TS. Phan Tùng Mậu PVT. Vụ KHTN, CN&MT, Ban KGTW 3 Thành viên đề tài 1 TS. Hồ Ngọc Luật VT Vụ KHTN, CN&MT, Ban KGTW 2 TS. Bùi Văn Hưng Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, VPTW Đảng 3 TS. Nguyễn Văn Ba P.Vụ trưởng Vụ KHXH, Ban KGTW 4 Ths. Nguyễn Đông Hanh Viện CL & CTGD, Bộ GD&ĐT 5 KS. Nguyễn Việt Hùng Viện CL & CTGD, Bộ GD&ĐT 6 TS. Nguyễn Quang PVT Vụ KHTN,CN&MT, Ban KGTW 7 TS. Trần Hồng Hà PVT Vụ KHTN,CN&MT,Ban KGTW 8 PGS.TS. Hồ Uy Liêm PCT, kiêm tổng TK Liên hiệp các hội KHKT VN 9 TS. Nguyễn Quân Vụ trưởng Vụ Tổ chức- Cán bộ, Bộ KHCN 10 TS. Lê Đình Tiến Viện trưởng Viện CL&CS KHCN, Bộ KH&CN 11 TS. Nguyễn Đình Minh Vụ trưởng vụ Khoa giáo VPCP 4. Cộng tác viên đề tài 1 GS.TSKH.Phạm Mạnh Hùng PTB, Ban Khoa giáo Trung ương 2 TS. Trần Ngọc Tăng PTB, Ban Khoa giáo Trung ương 3 PGS. TS. Nghiêm Đình Vỳ PTB, Ban Khoa giáo Trung ương 4 TS. Phạm Anh Tuấn Chánh văn phòng Ban KGTW 5 TS. Tạ Nguyên Ngọc Vụ trưởng, Uỷ ban người Việt nan ở nước ngoài 6 TS. Nguyễn Trọng Khanh Chánh văn phòng Liên hiệp hội 7 TS. Nguyễn Thị Anh Thu Trưởng ban, Viện CL&CS KHCN, Bộ KH&CN 8 TS. Hoàng Xuân Long Viện Chiến lược và chính sách KHCN, Bộ KH&CN 9 TS. Nguyễn Văn Thành Trưởng ban, Viện CLPT, Bộ KH & ĐT 10 TS. Nguyễn Văn Bách P. Văn phòng, Ban Khoa giáo Trung ương 11 GS. TS Hoàng Chí Bảo Hội đồng Lý luận Trung ương vii
  8. Tên đề tài: ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC Mã số đề tài: ĐTĐL – 2003/27 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cần thiết nghiên cứu: Sự phát triển của khoa học và công nghệ (KH&CN) trong thời đại ngày nay đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong mọi mặt đời sống xã hội. Trong quá trình đó, nguồn lực con người, đặc biệt là đội ngũ trí thức KH&CN ngày càng trở thành nguồn lực chủ chốt nhất, đóng vai trò quyết định trong phát triển. Vấn đề chính sách đối với trí thức KH&CN đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia, vì thực chất đó là chiến lược tăng tốc phát triển. Thực tế cho thấy, một quốc gia muốn có được những bước tiến nhảy vọt về phát triển thì cần phải hội đủ một số yếu tố cơ bản như: tài nguyên thiên nhiên, trình độ khoa học, môi trường chính trị - xã hội. Có tài nguyên thiên nhiên phong phú đó là một lợi thế tiềm năng, nhưng nếu thiếu nguồn nhân lực có trình độ KH&CN cao thì việc sử dụng tài nguyên chỉ ở mức tối giản về hiệu quả (khai thác và sử dụng ở dạng thô, hàng hoá có giá trị thấp, không có tính cạnh tranh trong xuất khẩu); tuy nhiên để có tầm vóc một nền kinh tế giàu tính trí tuệ thì mỗi quốc gia phải tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn định, khuyến khích và khơi dậy được tiềm năng con người. Nghĩa là, bằng cơ chế, chính sách nhà nước có thể tạo ra sự giải phóng tối ưu trí tuệ cá nhân, hình thành một đội ngũ trí thức KH&CN ngày càng đông về số lượng, cao về chất lượng làm hạt nhân cho nền kinh tế tri thức, làm thay đổi về chất cho cơ cấu nguồn nhân lực của đất nước. Thực tế cho thấy rằng, để hoàn thành công nghiệp hóa, các nước tư bản phát triển trước đây phải mất hàng trăm năm, trong khi đó các nước công nghiệp mới chỉ mất khoảng một phần ba thế kỷ nhờ tận dụng được lợi thế của các nước đi sau và có chính sách đúng đối với đội ngũ trí thức KH&CN. Đảng và Nhà nước ta luôn coi “con người là trung tâm, vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển”. Trong suốt quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển giáo dục và đào tạo, KH&CN, coi đó là quốc sách hàng đầu, coi “trí thức là tài sản quý” là nền tảng và 1
  9. động lực để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc"(1), quan điểm đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của cách mạng ở nước ta, liên tiếp được nêu trong Nghị quyết ở các kỳ Đại hội Đảng V, VI, VII, VIII, IX và X. Nước ta đang tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN đang trở thành vấn đề cấp thiết. Nghị quyết TƯ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ: “Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Nói cách khác, muốn thực hiện CNH, HĐH ở nước ta trước hết phải có đội ngũ trí thức KH&CN là lực lượng then chốt trong việc ứng dụng và phát tiển thành tựu KH&CN vào thực tiễn cuộc sống. Từ quan điểm đó, Đảng ta chủ trương tiếp tục xây dựng và ban hành những chính sách nhằm "phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội"(1a). Có thể nói, đội ngũ trí thức KH&CN nước ta, về số lượng, có bước phát triển nhanh chóng. Từ năm 1990 đến nay tốc độ phát triển bình quân hàng năm đạt trên 5%. Đến năm 2006 đội ngũ trí thức KH&CN nước ta đã có khoảng trên hai triệu người; phân bố khắp các lĩnh vực kinh tế - xã hội (KT-XH), các địa phương với những nhiệm vụ khác nhau: từ tham mưu cho lãnh đạo, thực hiện nghiên cứu khoa học, cho đến trực tiếp chỉ đạo ứng dụng, chuyển giao công nghệ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, khi bước sang cơ chế thị trường việc đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN còn chưa gắn với nhu cầu phát triển của các lĩnh vực KT-XH. 1 và 1a. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng khóa X, Mục X. Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân 2
  10. Hiệu quả sử dụng trí thức KH&CN chưa cao. Các chính sách về sử dụng trí thức KH&CN chậm đổi mới và kém hiệu lực, đặc biệt là khu vực kinh tế quốc doanh. Gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức KH&CN ở nước ta, trong đó có vấn đề đào tạo và sử dụng, song các công trình đó mới dừng lại ở việc nghiên cứu lịch sử hình thành đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam thập kỷ 90, với các số liệu thiếu cập nhật và chính xác. Ngay các cơ quan quản lý nhà nước cũng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về thực trạng trí thức KH&CN, phân tích sự phân bố đội ngũ trí thức KH&CN theo ngành, theo lĩnh vực kinh tế - xã hội, theo địa phương và vùng lãnh thổ; chưa đánh giá hiệu quả của các chính sách đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường. Điều đó đẫn đến còn thiếu cơ sở khoa học trong việc phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách hiện hành đối với đội ngũ trí thức KH&CN và tạo cơ sở khoa học để xây dựng hệ thống chính sách phát triển đội ngũ trí thức KH&CN đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, phân tích sâu sắc, đánh giá toàn diện và chính xác thực trạng đội ngũ và chính sách đối với trí thức KH&CN, cũng như tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước, hình thành hệ thống các quan điểm mới, tạo cơ sở để xây dựng hệ thống chính sách hợp lý, có hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là hết sức cần thiết. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: "Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" là yêu cầu cấp thiết hiện nay. 2. Mục tiêu của đề tài: - Phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách đối với đội ngũ trí thức KH&CN nước ta hiện nay (Chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và các chính sách khác). - Đề xuất giải pháp về đổi mới chính sách đối với đội ngũ trí thức KH&CN (Chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và các chính sách khác) đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, góp phần xây dựng một Nghị quyết của Đảng về chính sách đối với trí thức KH&CN trong giai đoạn mới. 3. Phương pháp nghiên cứu: a. Nghiên cứu lý luận: thu thập, phân tích, xử lý các thông tin, tư liệu; nghiên cứu tổng hợp các tài liệu cơ sở lý luận trong và ngoài nước, hình thành các luận cứ khoa học về chính sách đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN đáp ứng yêu 3
  11. cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta. b. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: tổ chức nghiên cứu, đánh giá tổng kết kinh nghiệm đào tạo, sử dụng và các chính sách khác nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức KH&CN đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH ở nước ta. c. Áp dụng phương pháp chuyên gia: tiến hành lấy ý kiến chuyên gia; tổ chức hội thảo khoa học, sử dụng các phương pháp “tấn công não”, thảo luận nhóm, v.v . Đề tài đã tọa đàm trực tiếp với lãnh đạo và trí thức của 15 trường ĐH; 8 tỉnh thành phố; 9 viện nghiên cứu, 7 doanh nghiệp và 2 bộ ngành về chính sách đối với trí thức. d. Điều tra - khảo sát bằng phiếu về thực trạng đội ngũ và chính sách đối với trí thức KH&CN nước ta (số lượng, cơ cấu....); thăm dò về các giải pháp chính sách sẽ thực hiện cho các đối tượng, lĩnh vực và vùng lãnh thổ. Đề tài thiết kế 5 loại phiếu điều tra P0, P1, P2, P3, P4 (điều tra cán bộ tham gia xây dựng và tổ chức thực thi chính sách đối trí thức ở bộ, ngành và địa phương; cán bộ quản lý doanh nghiệp; trí thức là giáo viên và cán bộ nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, cán bộ làm công tác khoa giáo từ trung ương đến huyện trong cả nước, với tổng số phiếu của 5 loại phiếu là trên 3.500 phiếu). e. Khảo sát kinh nghiệm của Trung quốc và tài liệu của nhiều nước trên thế giới về chính sách đối với trí thức (cán bộ KH&CN). Nội dung báo cáo tổng hợp đề tài gồm các phần: Phần mở đầu I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách đối với trí thức KH&CN II. Bối cảnh kinh tế-xã hội và thực trạng đội ngũ trí thức KH&CN của nước ta hiện nay III. Thực trạng các chính sách đối với trí thức KH&CN từ khi đổi mới đến nay IV. Đổi mới chính sách đối với đội ngũ trí thức KH&CN trong giai đoạn mới Kết luận và kiến nghị 4
  12. PHẦN I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 1.1. TRÍ THỨC, ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ngày nay, cách mạng KH&CN đang phát triển như vũ bão, tạo nên những biến đổi sâu sắc và từng bước làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội. Ở nước ta, đội ngũ trí thức nói chung và trí thức KH&CN nói riêng có vai trò là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy, để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức KH&CN, hệ thống chính sách phát huy vai trò của họ cần phải được quan tâm đúng mức và kịp thời. Đó là cơ sở nâng cao nhận thức để mỗi người phải tự rèn luyện cho mình năng lực trí tuệ sắc bén, có tư duy năng động, linh hoạt, đủ sức giải quyết những vấn đề mà cuộc sống không ngừng đặt ra. Ông cha ta đã từng đánh giá rằng, hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí mạnh thì quốc gia hưng thịnh, nguyên khí yếu thì quốc gia suy vong. Người cầm quyền phải thường xuyên chăm lo phát triển, bồi dưỡng và trọng đãi hiền tài, đó là điều hệ trọng không được sao nhãng. “Phi trí bất hưng” là một tổng kết và cảnh báo có giá trị mãi mãi, gắn liền với tên tuổi của Lê Quý Đôn - nhà bác học nổi tiếng của nước ta từ thế kỷ XVIII. Trong những năm qua, mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng, luôn có những Hội nghị Trung ương dành thời gian để bàn về sự phát triển của KH&CN - động lực cho sự phát triển KT-XH và là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cơ sở cho CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 24/12/1996 đã chỉ rõ: "Muốn tiến hành CNH, HÐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục, đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững". Điều này cũng có nghĩa, muốn thực hiện CNH, HÐH thắng lợi cần phát huy tốt tiềm lực trí tuệ của đội ngũ trí thức KH&CN. Đây chính là điều kiện để các thành tựu của KH&CN được đưa vào thực tiễn KT-XH một cách nhanh chóng và vững chắc, làm nền tảng cho sự phát triển đất nước bền vững. 1.1.1. Trí thức Trí thức là gì và thế nào được gọi là trí thức? Câu hỏi này đặt ra trong nhận thức của mọi người, của xã hội, tưởng như bình thường, đơn giản nhưng thật ra lại chứa 5
  13. đựng nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ để đạt tới một nhận thức chung, thống nhất. Hiểu đúng về trí thức và vai trò của trí thức trong đời sống xã hội mới có thể đề ra chính sách và giải pháp đúng để xây dựng đội ngũ và tạo động lực cho họ phát triển. Nói về trí thức có nhiều định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu “trí thức là một phạm trù lịch sử. Mỗi nước có các khái niệm khác nhau. Trong các thời đại khác nhau chức năng của trí thức cũng khác nhau…Người ta có thể chia trí thức thành kỹ sư và quan chức, thành nhà phản biện xã hội, nhà luân lý học, nhà hoạt động chính trị, nhà cách mạng...”(2) Khái niệm trí thức là một phạm trù lịch sử, nên nội hàm của nó có thể thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội. Mỗi người, mỗi nước và mỗi thời kỳ, tùy theo cách nhìn nhận của cá nhân, của dân tộc và của thời đại đó mà có cách hiểu riêng về trí thức (người/nhà trí thức). Vì thế nội hàm của khái niệm trí thức/nhà trí thức luôn thay đổi theo cả không gian và thời gian. (xem khung 1). Khung 1. Các cách định nghĩa khái niệm trí thức khác nhau ở một số nước 1/ Từ điển Bách khoa Liên xô (1985 do Prokhorov chủ biên): Trí thức là tầng lớp những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hóa. 2/ Từ điển bách khoa triết học (tiếng Nga 1983): trí thức là tầng lớp những người làm nghề lao động trí óc và thường có học vấn tương ứng, có chức năng sáng tạo, phát triển và phổ biến văn hóa. 3/ Bách khoa toàn thư Pháp (tập X): Trí thức là một phạm trù lịch sử. Trong các nước khác nhau khái niệm trí thức có khác nhau. Trong các thời đại khác nhau chức năng của trí thức cũng khác nhau.… Người ta có thể chia trí thức thành kỹ sư và quan chức, thành nhà phản biện xã hội, nhà luân lý học, nhà hoạt động chính trị, nhà cách mạng. 4/ Từ điển Wikipedia: Trí thức là người sử dụng trí tuệ để làm việc, nghiên cứu, phản ánh, dự đoán hoặc để hỏi và trả lời các câu hỏi có liên quan về hàng loạt những ý tưởng khác nhau. 5/ Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tri thức là gỉ?: Tri thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là sự hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc, tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”. 2 Bách khoa toàn thư Pháp - tập X 6
  14. Mặc dù có rất nhiều sự khác nhau trong cách diễn đạt khái niệm trí thức, tuy nhiên, nét chung nhất nổi bật lên ở khái niệm này là hai điểm: - Trí thức là người có học vấn cao; - Trí thức là những người làm công việc trí óc có sáng tạo và truyền bá những hiểu biết và sáng tạo của minh đem lại lợi ích cho xã hội. Ở nước ta, trong đời sống thường ngày, từ vựng “trí thức” được sử dụng thông thường trong tiếng Việt rất gần gũi, quen thuộc, nhưng đó là một khái niệm khoa học với những hàm nghĩa khác nhau. Nghiên cứu về trí thức là nghiên cứu một đối tượng đặc thù trong cơ cấu xã hội gắn liền với những phương thức lao động, bản chất xã hội và những đặc điểm hình thành, phát triển của trí thức như một cá thể - chủ thể mang nhân cách sáng tạo, như một tầng lớp, một nhóm xã hội - nghề nghiệp và như một cộng đồng trong quan hệ với xã hội và nhà nước, với dân tộc và giai cấp, với truyền thống và hiện đại. Nói tới trí thức là nói tới con người tự biểu hiện mình trước hết ở sự hiểu biết, ở nhu cầu tự nhận thức, có niềm tin khoa học, hoài nghi để mà tin, nghĩa là niềm tin dựa trên hiểu biết với tinh thần phê phán và tự phê phán, không tin bất cứ một cái gì mà không trải qua lao động nhận thức, phân tích khoa học, khảo duyệt trong thực tiễn, qua những thực chứng và cả những sự trải nghiệm bản thân hoặc lĩnh hội từ kinh nghiệm của cuộc sống. Do vậy, người trí thức chân chính phải là người luôn trọng sự thật, chân lý và đạo lý, không nhận thức theo cảm tính, theo tâm lý số đông, không tin một cách dễ dãi, không tự lừa dối chính mình vì kém hiểu biết, phù phiếm, sĩ diện, hư danh hoặc tệ hại hơn do xu thời và cơ hội chủ nghĩa, tự đánh mất mình, tự tha hoá nhân cách. Bởi vậy, bản chất của trí thức là gắn bó sự nghiệp lao động sáng tạo của mình một cách tự nhiên, mật thiết với nhân dân và dân tộc. Cái gọi là “chuyên môn thuần tuý”, sống cô độc trong tháp ngà, xa lánh cuộc đời, bất cần chính trị là điều không thể và xa lạ với người trí thức chân chính. Trí thức do có trình độ hiểu biết và đầu óc duy lý nên phải hiểu rõ xu thế vận động của lịch sử, nhạy cảm và mẫn cảm với thời đại và thời cuộc mà mình đang sống. Nói tới trí thức là nói tới nhu cầu về thông tin, giao tiếp và đối thoại văn hoá gắn liền với môi trường xã hội - nhân văn, từ một cộng đồng nhỏ như một tập thể lao động nghiên cứu, sáng tác, tư duy trừu tượng, biểu diễn, một hoạt động chuyên môn hoá cao đến đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc, quốc tế và nhân loại. Với trí thức, lao động không phải là gánh nặng mưu sinh, vì miếng cơm, manh áo của 7
  15. tồn tại, mà là nhu cầu tự biểu hiện và tự khẳng định mình trong hoạt động sống. Say mê, tận tuỵ và tâm huyết với công việc - thái độ lao động đó của người trí thức là năng lực tự ý thức của họ về trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận đối với xã hội. Đó là lòng tự trọng với mình và tôn trọng với người, với cuộc sống. Lười biếng, cẩu thả, vô trách nhiệm là xa lạ với hoạt động và phẩm giá của người trí thức. Nói đến trí thức là nói đến hoạt động của họ gắn liền với lao động trí óc và đời sống. Và nghề nghiệp của trí thức đòi hỏi phải thường xuyên sáng tạo ra những cái mới, tiến bộ, văn minh và văn hoá. Từ những điều trình bày trên đây có thể rút ra một vài nhận xét khái quát về trí thức: Thứ nhất, trí thức là người có hiểu biết rộng và sâu, có năng lực sáng tạo, có trình độ phát triển cao về trí tuệ, làm việc bằng trí óc, nhạy bén với cái mới và đổi mới để phát triển. Thứ hai, học vấn, học thức của người trí thức được gây dựng qua đào tạo, được bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, tự trau dồi và hoàn thiện của cá nhân trong lao động và hoạt động sáng tạo. Thứ ba, trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị tinh thần, trọng sự thật, chân lý và đạo lý. Trí thức là người có cá tính sáng tạo, có lòng tự trọng cao, có đầu óc duy lý và phê phán để khẳng định cái tôi - cá thể, đồng thời gắn bó với cộng đồng, phụng sự nhân dân và dân tộc. Thứ tư, khát vọng tự do, dân chủ, đấu tranh cho lẽ phải và sự công bằng là sự nổi trội trong nhân cách trí thức sáng tạo. Thứ năm, trí thức thể hiện lý tưởng chính trị và trách nhiệm xã hội của mình thông qua hoạt động nghề nghiệp, qua hoạt động chuyên môn đặc thù. Ngọn nguồn sâu xa của sức mạnh sáng tạo và phát triển tài năng trí thức là thực tiễn cuộc sống, là sự gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân, là tình cảm yêu nước và tinh thần dân tộc. Tóm lại, trong quan niệm thông thường, trí thức được hiểu là những người lao động sáng tạo (lao động chủ yếu bằng trí óc) với trình độ nghề nghiệp chuyên môn nhất định, người có trình độ học vấn cao, được đào tạo trong nhà trường, có bằng cấp và vươn lên trong thực tiễn cuộc sống (có trình độ đại học và tương đương trở lên)3, trọng nhân nghĩa, sự thật và chân lý và là người hết lòng truyền 3 Đó là những người có trình độ đại học (có bằng) và những người có trình độ tương đương trình độ đại học nhưng không có bằng, họ học từ thực tiễn cuộc sống. Trong thực tế, học vấn, học thức cao lại gắn với những trình độ, cấp độ khác nhau. Con đường và phương thức đạt tới học vấn, học thức cao lại có thể qua đào tạo ở nhà trường, là kết quả của một nền giáo dục nhất định nhưng cũng có thể chỉ bằng con đường tự học, không qua trường, lớp nào. Những đối tượng thụ hưởng giáo dục ấy, khi đã thành sản phẩm, họ có trở thành trí thức hay không, đặc biệt là 8
  16. bá những hiểu biết và sáng tạo của minh đem lại lợi ích cho xã hội. Hơn nữa họ còn là người có năng lực làm chủ phương pháp, biết dùng phương pháp để mở rộng và nâng cao hiểu biết và ở một trình độ cao hơn, đóng góp vào sự khám phá, sáng tạo cái mới, những giá trị mới thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học và phát triển xã hội, mà tiêu biểu nhất là người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu (trong các cơ sở đào tạo đại học, trên đại học và các tổ chức nghiên cứu). Đặc trưng nhận thức và hiểu biết khoa học của người trí thức không chỉ thuần tuý nói về trình độ học vấn (cao hơn mặt bằng chung của xã hội - phổ cập), mà trước hết, họ là đối tượng phát triển vượt trội về học vấn, về năng lực trí tuệ. Với trí thức chân chính, hiểu biết và niềm tin gắn liền với đạo đức, thế giới quan đi liền với nhân sinh quan, xác định một thái độ sống, một lối sống tích cực, hướng tới nhân dân, dân tộc và xã hội. Chất nhân văn của người trí thức là vị tha chứ không vị kỷ, là khát vọng tự do sáng tạo để tự biểu hiện, tự khẳng định mình như một nhân cách, được đem hiểu biết và vốn học vấn, văn hoá của mình phụng sự xã hội và nhân dân, không tính toán vụ lợi. Từ những đặc trưng trên đây của người trí thức, có thể nhận thấy người trí thức có những chức năng cơ bản sau đây: a. Chức năng sáng tạo khoa học, duy trì và phát triển những giá trị cơ bản của xã hội theo hướng chân, thiện, mỹ, ích; b. Chức năng phản biện, phê phán xã hội, biết nhìn rõ sự vật, suy nghĩ đến cùng và dám phê phán những gì không đúng, không hợp lí; c. Chức năng đào tạo lớp trí thức mới cho đất nước; những nhà trí thức lớn, thành danh, có uy tín, nổi tiếng ở trong nước và ngoài nước, lại chủ yếu là tự đào tạo và tự bồi dưỡng suốt đời của họ. Văn bằng, chứng chỉ (theo nghĩa thực chất và nghiêm túc nhất) là một thước đo đánh giá kết quả và mức độ được đào tạo nhưng nó không phải là căn cứ chủ yếu và duy nhất để xác định và định danh cho người trí thức. Cần phải căn cứ vào năng lực thực chất và hiệu quả công việc của họ. Thông tin và trí thức khoa học càng bùng nổ dữ dội bao nhiêu, tuổi thọ của văn bằng càng bị rút ngắn bấy nhiêu, nếu chủ nhân của nó không thường xuyên cập nhật được những cái mới, trước hết là những trí thức mới trong lý thuyết và phương pháp thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình. Cuộc cách mạng về phương pháp đang đặt ra như một giải pháp chiến lược cho phát triển, cho sự chấn hưng giáo dục và khoa học mà rất nhiều quốc gia - dân tộc, rất nhiều nhà nước và chính phủ đang hết sức quan tâm. Không có năng lực, nhu cầu và thói quen tự làm mới vốn liếng học vấn của mình, con người ta, nhất là người trí thức sẽ rơi vào tình trạng lạc hậu, tụt hậu rất nhanh chóng, đến mức không còn tồn tại được. Trong thế giới đương đại ngày nay, cái đáng sợ và nguy hiểm nhất đối với sự phát triển - từ phát triển khoa học và giáo dục đến phát triển xã hội, đó là sự lạc hậu, tụt hậu về năng lực trí tuệ. Vấn đề học vấn và bằng cấp được đào tạo của người trí thức cần được nhận thức lại cho đúng. Những dấu hiệu hay tiêu chí này chỉ có ý nghĩa khi vấn đề thực chất của nó được bảo đảm và những dấu hiệu ấy không bị tuyệt đối hoá cứng nhắc, không biến thành hình thức và một thứ chủ nghĩa hình thức trong đánh giá, nhất là trong tình hình hiện nay khi giáo dục đang bị suy thoái nghiêm trọng dẫn tới không ít trường hợp “bằng thật mà học giả”, tệ hại hơn là “bằng giả mà như thật, mà được sử dụng thật” làm rối loạn kỷ cương, phép nước, làm tổn hại tới sự thật và đạo lý. 9
  17. d. Chức năng tham gia các hoạt động xã hội phù hợp với vai trò của người trí thức.4 Đó là những “thiên chức” mang tính khách quan, phổ biến của giới trí thức nói chung ở mọi quốc gia, trong mọi thời đại. 1.1.2. Đội ngũ trí thức Trong cơ cấu xã hội - giai cấp, đội ngũ trí thức là một tầng lớp xã hội, một nhóm xã hội lớn, có thể coi như một tập hợp, một phân hệ của cơ cấu xã hội chỉnh thể, đa dạng về nghề nghiệp. Tầng lớp trí thức có những biến đổi lịch sử qua mỗi hình thái xã hội, mỗi thời đại và chế độ, gắn với một chính thể và các thể chế do giai cấp cầm quyền tạo ra và chi phối. Trong lịch sử, giai cấp cầm quyền dùng ý thức hệ của giai cấp mình để chi phối xã hội, biểu hiện thành ý thức hệ của xã hội. Sự chi phối tư tưởng này ảnh hưởng trực tiếp tới trí thức và thế giới quan, nhân sinh quan, tới hoạt động nghề nghiệp, thái độ và lối sống của trí thức. Ở Việt Nam, các thế hệ trí thức nối tiếp nhau, đã đồng hành cùng nhân dân và dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, cho công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trước đây, nhân dân ta đã đánh thắng đế quốc, phong kiến, ngày nay nhân dân ta còn phải đánh thắng nghèo nàn, lạc hậu, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tiến tới hiện đại hoá. Trí thức Việt Nam có trọng trách trong sự nghiệp vẻ vang đó là vì Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của nhân dân. Tổ quốc - nhân dân - dân tộc - thời đại và CNXH, là hệ giá trị và lý tưởng sống của người trí thức cách mạng hiện nay. Vai trò to lớn đó của đội ngũ trí thức được Đảng ta khẳng định: "... liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" 5. Quan điểm đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của cách mạng nước ta, đã được thể hiện trong Nghị quyết ở các kỳ Đại hội Đảng V,VI, VII, VIII, IX và X. Đội ngũ trí thức nước ta xuất thân từ các giai cấp, các lực lượng, các tập đoàn và các nhóm xã hội khác nhau trong xã hội, có mặt trong tất cả mọi giai cấp, 4 Theo Phạm Tất Dong, Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam, TLĐ D, tr. 111 5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tr. 116. Nxb Chính trị quốc gia, 2006. 10
  18. mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và hình thành một nhóm xã hội lớn theo cách nhìn của xã hội học, có đặc điểm lao động và phương thức (cách thức) sản xuất riêng để sản xuất và truyền bá tri thức. Tùy theo nguồn gốc xuất thân của mình, họ mang theo những đặc điểm xã hội của giai cấp, tầng lớp xuất thân và vì vậy tầng lớp trí thức có những đặc điểm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, trí thức cũng có những điểm chung, đó là người có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng. Mặt khác, do đặc điểm lao động của họ là hoạt động sáng tạo cá nhân, nên các sản phẩm sáng tạo mang đậm dấu ấn cá nhân. Với lẽ đó, trí thức không trực tiếp tham dự vào sở hữu tư liệu sản xuất vật chất của xã hội, nhưng lại rất nổi trội trong sở hữu trí tuệ. Trong tiến trình phát triển đất nước, đội ngũ trí thức có những đóng góp to lớn cho sự phát triển KT-XH của đất nước. Để phát huy vai trò và khả năng của người trí thức, cần quan tâm đến các nội dung: - Xã hội cần tạo cơ hội cho người trí thức phát huy năng lực của mình, lao động sáng tạo có hiệu quả, trọng dụng sản phẩm lao động của họ một cách đúng mức,... Do vậy, cần có chính sách hợp lý để phát huy vai trò của trí thức. - Đối với bản thân, người trí thức, trên cơ sở không ngừng tự bồi dưỡng nâng cao năng lực của mình, cần mang hết khả năng và trí tuệ đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, sáng tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị phục vụ cho sự nghiệp phát triển KT-XH. Đội ngũ trí thức, bao hàm trí thức KH&CN, trí thức văn hoá - nghệ thuật đều bị chi phối bởi các đặc điểm trên. 1.1.3. Sản phẩm của đội ngũ trí thức Nghiên cứu những chính sách đối với đội ngũ trí thức không thể không tìm hiểu về sản phẩm mà đội ngũ trí thức tạo ra, đó là tri thức (sự hiểu biết). Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế, sự hiểu biết - tri thức, là một loại hàng hóa công không hoàn toàn. Nó có hai đặc điểm đặc trưng khác với các loại hàng hóa truyền thống khác: - Thứ nhất, một người sử dụng tri thức không thể ngăn cản được người khác sử dụng cũng chính tri thức đó, nghĩa là tri thức là một loại hàng hóa không có tính chất loại trừ. Nó không giống như ổ bánh hay chiếc áo, những hàng hóa này khi đã thuộc quyền sở hữu của một người thì người khác không còn được quyền sử dụng nữa. 11
  19. - Thứ hai, khi một tri thức đã thuộc về lĩnh vực công cộng - đã được công bố trong xã hội thì người tạo ra tri thức rất khó ngăn người khác sử dụng sản phẩm của mình, nghĩa là nó có tính chất không độc quyền sử dụng. Nó tương tự như cây đèn biển, người xây dựng nên nó không thể cấm bất cứ ai trong xã hội sử dụng nó. Hai đặc điểm này biểu thị đặc điểm cơ bản của một loại hàng hóa công (public goods), mọi người có thể cùng sử dụng một loại tri thứcvà không ai có khả năng độc quyền chiếm dụng. Điều này không chỉ làm giảm, mà còn công hữu hóa hoàn toàn những lợi ích mà người tri thức tạo ra. Việc không có khả năng thu được lợi tối đa đã hạn chế việc đầu tư vào những nghiên cứu và triển khai rất tốn kém để tạo ra tri thức mới, phổ biến và cung cấp tri thức cho xã hội. Lúc này nhà nước đại biểu cho quyền lợi của xã hội, có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi của trí thức và sự phát triển. Nhà nước phải xây dựng được các thiết chế để giải quyết mâu thuẫn trên đây, khuyến khích việc tạo ra tri thức mới như: bảo hộ các bằng sáng chế, chế độ bản quyền và những bảo hộ sở hữu trí tuệ khác. Đồng thời, nhà nước cũng cần tạo điều kiện để những tri thức mới được sử dụng rộng rãi trong xã hội, tạo điều kiện cho nhiều người có cơ hội sử dụng các tri thức mới thông qua các chính sách hỗ trợ hợp lý để người sử dụng tri thức chỉ phải trả một khoản kinh phí thấp hơn nhiều chi phí tạo ra nó hoặc thậm chí không phải trả tiền. Hầu hết các nước đều có mục tiêu tăng năng suất lao động và cải thiện chất lượng hàng hóa để tăng thu nhập và lợi từ sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Những cố gắng này đều kéo theo sự gia tăng chi phí đầu tư cho việc tạo ra tri thức hoặc nhập khẩu tri thức từ các nước đi trước. Đây chính là lý do các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các nước nghèo, vốn ít, có nhiều hạn chế đầu tư cho nghiên cứu và triển khai để tạo mới hoặc tái tạo tri thức đã có ở các nước khác. Để cải thiện điều kiện sản xuất của mình, các cơ sở này thường có xu hướng chọn giải pháp khôn ngoan hơn, với chi phí ít tốn kém hơn, đó là giải pháp tiếp nhận các tri thức đã được tạo ra từ các nước đi trước. Nhật bản và nhiều nước công nghiệp mới là những điển hình cho sự lựa chọn này. Một yếu tố có tác dụng lớn đối với việc phát triển nguồn vốn tri thức của một đất nước là những thiết chế liên quan đến sự thúc đẩy việc làm tăng số lượng tri thức trong kho tàng tri thức của đất nước, nguồn gốc để sản sinh ra của cải vật chất, là cội rễ của việc tăng năng suất lao động, mở rộng, nâng cao sản lượng xã hội giúp cho sự phát triển KT-XH bền vững và cũng là cơ sở để xoá đói giảm nghèo. Đây là những 12
  20. thiết chế tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu tri thức công nghệ của các nước đi trước, cũng như các thiết chế khuyến khích động viên đội ngũ trí thức nghiên cứu tiếp thu tích cực các tri thức nhập (tiếp thu có sáng tạo) và tạo ra tri thức mới. Những thiết chế này, cơ bản được thể hiện dưới những hình thức, như: bằng sáng chế, bản quyền, giấy phép công nghệ và những hình thức khác của các quyền sở hữu trí tuệ. Thiết chế này bao gồm cả những khoản lợi ưu đãi hợp lý nhằm mục đích tạo cho những cá nhân, tổ chức, quốc gia "tích cực đổi mới" công nghệ có cơ hội, điều kiện thu hồi những chi phí đã bỏ ra để nhập khẩu và thích nghi công nghệ hoặc chi phí tạo ra tri thức mới. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành một tài sản quan trọng. Việc có những thiết chế bảo vệ quyền lợi cho những cơ sở sản xuất kinh doanh đã đầu tư cho việc tìm kiếm, lựa chọn tri thức để nhập khẩu, đầu tư cho nghiên cứu thích nghi các tri thức nhập khẩu để nó phù hợp hơn với điều kiện sản xuất, kinh doanh trong nước, đầu tư cho nghiên cứu triển khai tạo ra tri thức mới là một định hướng chính sách cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển mở rộng nguồn vốn tri thức của đất nước. Đồng thời cũng cần có những thiết chế đảm bảo quyền lợi một cách tương xứng và hợp lý để khuyến khích động viên trí thức đã nghiên cứu thực hiện các công việc đó. Bên cạnh những nỗ lực nhằm khuyến khích tạo ra tri thức, việc phổ biến, quảng bá rộng rãi tri thức trong nước cũng là điều hết sức cần thiết, vì đây chính là cách sử dụng sản phẩm của người trí thức hiệu quả nhất, tiền đề để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền KT-XH. Việc quảng bá tri thức trong xã hội, đặc biệt là những thông tin về tính ưu việt của những tri thức công nghệ mới, những yêu cầu về thuộc tính của sản phẩm trên thị trường là điều kiện để giúp cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tránh được những thất bại trong kinh doanh. Điều này lại càng đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nếu những nước này không muốn tụt lại phía sau. 1.1.4. Trí thức khoa học và công nghệ (KH&CN) Với đặc trưng là lao động trí óc và làm nghề sáng tạo, đội ngũ trí thức là một tầng lớp trong cấu trúc của xã hội được hợp thành từ rất nhiều loại hình (căn cứ vào cách thức lao động và hoạt động), nhiều nghề nghiệp khác nhau. Nói trí thức KH&CN là nói đến nghề nghiệp và lĩnh vực hoạt động của họ. Đó là lực lượng trí thức hoạt động trong lĩnh vực KH&CN, từ những người nghiên cứu đến giảng dạy; từ nghiên cứu cơ bản, lý thuyết đến nghiên cứu ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ… Có thể khái quát, trí thức KH&CN là một bộ phận của trí thức nói chung, hoạt động trong lĩnh vực KH&CN (khoa học xã hội-nhân văn, khoa học tự nhiên, 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2