intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Chia sẻ: Van Thuong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:7

217
lượt xem
38
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies) là những kỹ thuật Y Sinh học được áp dụng để điều trị vô sinh. Từ khi phương pháp Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) thành công năm 1978 ở Anh, khái niệm các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hình thành và phát triển rất mạnh trên toàn thế giới. Ở các nước phát triển, hiện có khoảng 1-5% số em bé sinh ra hiện nay là từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (không kể thụ tinh nhân tạo)....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

  1. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản 13-09-2006 BS Hồ Mạnh Tường Khoa Hiếm muộn, Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies) là nh ững k ỹ thuật Y Sinh học được áp dụng để điều trị vô sinh. Từ khi phương pháp Th ụ tinh trong ống nghi ệm (IVF) thành công năm 1978 ở Anh, khái niệm các kỹ thuật hỗ trợ sinh s ản hình thành và phát triển rất mạnh trên toàn thế giới. Ở các nước phát tri ển, hi ện có khoảng 1-5% s ố em bé sinh ra hiện nay là từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (không k ể thụ tinh nhân t ạo). Người ta ước tính có trên nửa triệu chu kỳ hỗ trợ sinh sản được thực hiện mỗi năm trên toàn thế gi ới. Trên th ế giới đã có hàng triệu em bé ra đời từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. T ại Vi ệt Nam, con s ố này có thể đạt đến 1000 vào năm nay và hiện nay có khoảng 250 em bé ra đ ời mỗi năm t ừ các k ỹ thu ật TTTON. Theo phân tích của nhiều trung tâm, thụ tinh nhân t ạo (hay IUI) không xếp vào các k ỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies – ART). Ng ười ta định nghĩa r ằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bao gồm những kỹ thuật điều trị vô sinh, trong đó, có ch ọc hút tr ứng và đem trứng ra bên ngoài cơ thể. Tuy nhiên, trong đi ều kiện các kỹ thuật điều trị vô sinh v ừa m ới phát triển, để đơn giản và dễ hiểu trong việc sử dụng thuật ngữ, chúng tôi đề ngh ị nh ập k ỹ thuật thụ tinh nhân tạo vào các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thụ tinh nhân tạo (artificial insemination) Thụ tinh nhân tạo (TTNT) là một trong những kỹ thuật điều trị vô sinh phổ biến nh ất, đ ặc bi ệt trong hoàn cảnh nước ta hiện nay. Hiện nay, hầu hết các trung tâm trên thế gi ới đ ều áp d ụng k ỹ thu ật kỹ thuật bơm tinh trùng sau chuẩn bị vào buồng t ử cung (IUI) đ ể th ực hi ện thụ tinh nhân t ạo. Do đó, khi nói đến TTNT, có thể hiểu là IUI với tinh trùng đã chuẩn b ị. M ột s ố k ỹ thu ật th ụ tinh nhân tạo hiện nay không còn hoặc ít được sử dụng như bơm tinh trùng đã chuẩn b ị vào c ổ t ử cung, bơm môi trường chứa tinh trùng vào đến vòi trứng và ổ bụng. Thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi (IVF/ET) Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) có nghĩa là cho trứng và tinh trùng kết hợp với nhau trong phòng thí nghiệm (thay vì trong vòi tr ứng ng ười ph ụ n ữ). Sau đó, phôi hình thành sẽ được chuyển trở lại vào buồng t ử cung. Quá trình phát tri ển c ủa phôi và thai sẽ diễn ra bình thường trong tử cung người mẹ. Tỉ lệ thành công của m ỗi chu kỳ điều trị IVF/ET trung bình trên thế giới hiện nay khoảng 25%. Tỉ lệ này phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, ch ỉ đ ịnh điều trị và phác đồ điều trị của từng trung tâm. Một số kỹ thuật phát sinh từ TTTON Chuyển giao tử vào vòi trứng (GIFT), chuyển hợp tử vào vòi trứng (ZIFT) chuyển phôi vào vòi tr ứng (TET). Các kỹ thuật này chỉ có thể thực hiện cho những trường hợp có ít nh ất một vòi trứng hoàn toàn bình thường về mặt giải phẫu và chức năng. Kỹ thuật chuyển giao t ử hoặc phôi vào vòi trứng phải được thực hiện qua phẫu thuật nội soi ổ bụng. Tỉ lệt thành công của các k ỹ thuật này nói chung không cao hơn kỹ thuật TTTON, trong khi đó chi phí cao hơn, c ần nhi ều trang b ị ph ức t ạp hơn, tỉ lệ tai biến cao hơn và tỉ lệ thai ngoài tử cung cũng cao h ơn. Do đó, các k ỹ thu ật này hi ện chỉ được áp dụng rất ít, chủ yếu vì lý do tín ngưỡng. Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (Intracytoplasmic Sperm Injection) Kỹ thuật được ra đời nhằm khắc phục tình trạng tỉ l ệ thụ tinh thấp hoặc không thụ tinh khi thực hiện TTTON do bất thường quá trình thụ tinh hay ch ất l ượng tinh trùng thấp. Với kỹ thuật này, người ta có thể t ạo một hợp t ử hoàn ch ỉnh b ằng m ột tr ứng và một tinh trùng duy nhất. Đây được xem là một cuộc cách mạng trong đi ều trị vô sinh do nguyên nhân ở nam giới. ICSI hiện nay đã chiếm khoảng 50% các chu kỳ th ực hi ện k ỹ thuật h ỗ trợ sinh sản và là một kỹ thuật không thể thiếu ở một trung tâm HTSS. Kỹ thuật này có thể cho t ỉ l ệ th ụ tinh cao hơn, làm số phôi có được nhiều hơn, nhiều khả năng chọn lọc đ ược phôi t ốt đ ể chuy ển vào buồng tử cung. Kỹ thuật ICSI hiện nay có thể thực hi ện với tinh trùng t ươi hoặc sau tr ữ l ạnh; tinh trùng trong tinh dịch hoặc tinh trùng sinh thiết t ừ mào tinh và tinh hoàn. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với sự tham gia của “người thứ ba” Các kỹ thuật điều trị trên cũng dựa trên cơ sở kỹ thuật của các KTHTSS đã trình bày. Tuy nhiên, do tính ch ất của bệnh lý vô sinh, đ ể đi ều trị, c ần có s ự hỗ trợ về sinh học của người thứ ba. Đây là những kỹ thuật đi ều trị có liên quan nhi ều đến các vấn đề y học, pháp lý, nhân đạo và quan niệm đạo đức xã hội. Các kỹ thuật này bao gồm: - Xin tinh trùng: kỹ thuật này để điều trị cho các trường hợp vô sinh nam hoàn toàn không có tinh trùng. - Xin trứng: kỹ thuật này áp dụng cho những trường hợp người vợ bị cắt buồng trứng, buồng trứng bị suy yếu. Trứng xin từ người thứ ba có thể để thực hi ện TTTON hoặc ICSI v ới tinh
  2. trùng chồng sau đó chuyển phôi lại vào tử cung người vợ. - Xin phôi: phôi dư từ các cặp vợ chồng làm TTTON sau khi đã thành công, có đủ con, được t ự nguyện hiến lại cho ngân hàng phôi. Phôi được chuyển vào tử cung người xin. - Mang thai hộ: kỹ thuật này thường được áp dụng cho những trường hợp người phụ nữ có buồng trứng bình thường nhưng đã bị c ắt t ử cung hoặc bị bệnh lý nội khoa nặng (Ví dụ: bệnh tim) khiến việc mang thai có th ể nguy hi ểm đ ến tính mạng của mẹ và con. Tinh trùng chồng và trứng người vợ được cho TTTON. Sau đó phôi đ ược chuyển vào tử cung người mang thai hộ. Sự phát triển rất nhanh của các kỹ thuật h ỗ trợ sinh sản đã đặt cho chúng ta một vấn đề lớn về quản lý. Ngoài việc chọn các ch ỉ đ ịnh thích h ợp và đánh giá mặt lợi hại của từng kỹ thuật, chúng ta cần đảm bảo về m ặt y đ ức c ủa các k ỹ thu ật trên để đảm bảo chúng phục vụ tốt cho việc điều trị vô sinh và tránh việc lạm d ụng các k ỹ thuật điều trị. Tài liệu tham khảo: - IFFS International Consensus. Executive Committee of IFFS (2001): 2-13 Thụ tinh nhân tạo. Nhà xuất bản Y học (2002): 1-12 http://www.bacsisanphu.com/content/browse.php?action=shownews&topicid=6342 Điều trị vô sinh chưa rõ nguyên nhân bằng kỹ thuật IUI BS. Đỗ Quang Minh IUI với VSCRNN Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) là một thủ thuật đã được sử dụng từ lâu trong điều trị vô sinh. Với  những cải tiến liên tục trong thời gian gần đây, thủ thuật này ngày càng an toàn và được áp dụng rộng rãi ở  nhiều trung tâm điều trị vô sinh trong cả nước. Đề điều trị bằng kỹ thuật IUI, bệnh nhân phải có buồng trứng còn hoạt động, tối thiểu một ống dẫn trứng còn  chức năng và tinh trùng chồng không quá yếu. Thêm vào đó, việc kích thích buồng trứng để tăng số lượng  nang noãn phát triển cũng có khả năng giúp tăng tỉ lệ có thai do tăng số nang noãn phát triển, tăng số trứng  thụ tinh và tăng khả năng có phôi làm tổ. Trong tất cả các nhóm bệnh nhân khám và điều trị vô sinh, nhóm  vô sinh chưa rõ nguyên nhân (CRNN) là nhóm phù hợp nhất với các điều kiện của kỹ thuật IUI (xem Sinh  sản và Sức khỏe số 1 năm 2002). Kết quả Tổng cộng có 432 bệnh nhân vô sinh chưa rõ nguyên nhân, được thực hiện 511 chu kỳ điều trị trong 2 năm  2000 và 2001 được tổng kết. Tuổi trung bình của vợ là 29,36 và của chồng là 32,70. Thời gian vô sinh trung  bình khoảng 3,54 năm. Kết quả cho thấy bệnh nhân vô sinh CRNN đáp ứng tốt với kỹ thuật điều trị bơm tinh trùng vào buồng tử  cung (xem bảng 1). So với chỉ 2,2% có thai tự nhiên và khoảng 30­40% có thai sau thụ tinh trong ống  nghiệm thì tỉ lệ 31,3% có thai sau IUI thực sự nói lên vai trò của kỹ thuật trong nhóm nguyên nhân này. Đây  là tỉ lệ thành công khá cao so với các nghiên cứu khác với tỷ lệ từ 8,3% đến 26% khi kích thích buồng trứng  bằng clomiphene citrate và từ 9% đến 33% khi dùng gonadotropin. Cũng cần lưu ý là nghiên cứu này không  khảo sát sâu về nhóm nguyên nhân do cổ tử cung. Tỷ lệ nguyên nhân này, nếu có, chiếm khoảng 5% trong  toàn bộ nguyên nhân gây vô sinh được ghi nhận trong y văn. Trong nghiên cứu này, 42 trường hợp nội mạc dưới 7 mm đều nằm trong nhóm có dùng clomiphene citrate  (dùng đơn thuần hoặc dùng kèm với gonadotropin). Clomiphere Citrate đã được báo cáo có tác dụng kháng 
  3. estrogen trên nội mạc tử cung, do vậy cần lưu ý tác dụng này của thuốc trong quá trình điều trị cho từng  bệnh nhân riêng biệt. Loại vô sinh cũng như thời gian vô sinh liên quan đến tỷ lệ có thai. Vô sinh càng lâu càng khó có thai và vô  sinh thứ phát khó có thai hơn vô sinh nguyên phát, dù đều không tìm ra nguyên nhân trên những khảo sát  ban đầu. Tuy không tương quan rõ rệt nhưng khả năng thành công dường như càng giảm khi điều trị nhiều chu kỳ.  Một mặt, tuổi bệnh nhân ngày càng tăng, dự trữ buồng trứng càng giảm; mặt khác cơ chế chọn lọc khiến  những bệnh nhân này có tỉ lệ thành công giảm hơn những bệnh nhân khác. Do vậy, mặc dù nhóm bệnh  nhân vô sinh CRNN là nhóm đáp ứng tốt với kỹ thuật IUI, cần lưu ý trong điều trị để sớm chuyển sang biện  pháp khác hữu hiệu hơn (thụ tinh trong ống nghiệm, tiêm tinh trùng vào bào tương trứng) khi khả năng điều  trị của IUI đã giảm nhiều (sau 4­6 chu kỳ IUI). Kết luận Vô sinh chưa rõ nguyên nhân là nhóm nguyên nhân đáp ứng tốt với kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử  cung. Bệnh nhân vô sinh nguyên phát với thời gian vô sinh ngắn có tỷ lệ thành công cao so với các bệnh  nhân khác. Đáp ứng kém của nội mạc tử cung tương ứng với giảm khả năng có thai, tình trạng này có thể có  liên quan đến dùng Clomiphere Citrate. Với bệnh nhân đã thất bại trong những chu kỳ trước, cần lưu ý để  chuyển sang chế độ điều trị khác phù hợp hơn. http://www.ivftudu.com.vn/article/1153/ Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản BS Hồ Mạnh Tường Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies) là những kỹ thuật Y Sinh học được áp  dụng để điều trị vô sinh. Từ khi phương pháp Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) thành công năm 1978 ở Anh,  khái niệm các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hình thành và phát triển rất mạnh trên toàn thế giới. Ở các nước phát  triển, hiện có khoảng 1­5% số em bé sinh ra hiện nay là từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (không kể thụ tinh  nhân tạo). Người ta ước tính có trên nửa triệu chu kỳ hỗ trợ sinh sản được thực hiện mỗi năm trên toàn thế  giới. Trên thế giới đã có hàng triệu em bé ra đời từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tại Việt Nam, con số này có  thể đạt đến 1000 vào năm nay và hiện nay có khoảng 250 em bé ra đời mỗi năm từ các kỹ thuật TTTON. Theo phân tích của nhiều trung tâm, thụ tinh nhân tạo (hay IUI) không xếp vào các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản  (Assisted Reproductive Technologies – ART). Người ta định nghĩa rằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bao  gồm những kỹ thuật điều trị vô sinh, trong đó, có chọc hút trứng và đem trứng ra bên ngoài cơ thể. Tuy  nhiên, trong điều kiện các kỹ thuật điều trị vô sinh vừa mới phát triển, để đơn giản và dễ hiểu trong việc sử  dụng thuật ngữ, chúng tôi đề nghị nhập kỹ thuật thụ tinh nhân tạo vào các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thụ tinh nhân tạo (artificial insemination) Thụ tinh nhân tạo (TTNT) là một trong những kỹ thuật điều trị vô sinh phổ biến nhất, đặc biệt trong hoàn 
  4. cảnh nước ta hiện nay. Hiện nay, hầu hết các trung tâm trên thế giới đều áp dụng kỹ thuật kỹ thuật bơm tinh  trùng sau chuẩn bị vào buồng tử cung (IUI) để thực hiện thụ tinh nhân tạo. Do đó, khi nói đến TTNT, có thể  hiểu là IUI với tinh trùng đã chuẩn bị. Một số kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hiện nay không còn hoặc ít được sử  dụng như bơm tinh trùng đã chuẩn bị vào cổ tử cung, bơm môi trường chứa tinh trùng vào đến vòi trứng và ổ  bụng. Thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi (IVF/ET) Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) có nghĩa là cho trứng và tinh trùng kết hợp với nhau trong  phòng thí nghiệm (thay vì trong vòi trứng người phụ nữ). Sau đó, phôi hình thành sẽ được chuyển trở lại vào  buồng tử cung. Quá trình phát triển của phôi và thai sẽ diễn ra bình thường trong tử cung người mẹ. Tỉ lệ  thành công của mỗi chu kỳ điều trị IVF/ET trung bình trên thế giới hiện nay khoảng 25%. Tỉ lệ này phụ thuộc  vào tuổi bệnh nhân, chỉ định điều trị và phác đồ điều trị của từng trung tâm. Một số kỹ thuật phát sinh từ TTTON Chuyển giao tử vào vòi trứng (GIFT), chuyển hợp tử vào vòi trứng (ZIFT) chuyển phôi vào vòi trứng (TET).  Các kỹ thuật này chỉ có thể thực hiện cho những trường hợp có ít nhất một vòi trứng hoàn toàn bình thường  về mặt giải phẫu và chức năng. Kỹ thuật chuyển giao tử hoặc phôi vào vòi trứng phải được thực hiện qua  phẫu thuật nội soi ổ bụng. Tỉ lệt thành công của các kỹ thuật này nói chung không cao hơn kỹ thuật TTTON,  trong khi đó chi phí cao hơn, cần nhiều trang bị phức tạp hơn, tỉ lệ tai biến cao hơn và tỉ lệ thai ngoài tử cung  cũng cao hơn. Do đó, các kỹ thuật này hiện chỉ được áp dụng rất ít, chủ yếu vì lý do tín ngưỡng. Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (Intracytoplasmic Sperm Injection) Kỹ thuật được ra đời nhằm khắc phục tình trạng tỉ lệ thụ tinh thấp hoặc không thụ tinh khi thực hiện TTTON  do bất thường quá trình thụ tinh hay chất lượng tinh trùng thấp. Với kỹ thuật này, người ta có thể tạo một hợp  tử hoàn chỉnh bằng một trứng và một tinh trùng duy nhất. Đây được xem là một cuộc cách mạng trong điều  trị vô sinh do nguyên nhân ở nam giới. ICSI hiện nay đã chiếm khoảng 50% các chu kỳ thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và là một kỹ thuật không  thể thiếu ở một trung tâm HTSS. Kỹ thuật này có thể cho tỉ lệ thụ tinh cao hơn, làm số phôi có được nhiều  hơn, nhiều khả năng chọn lọc được phôi tốt để chuyển vào buồng tử cung. Kỹ thuật ICSI hiện nay có thể  thực hiện với tinh trùng tươi hoặc sau trữ lạnh; tinh trùng trong tinh dịch hoặc tinh trùng sinh thiết từ mào tinh  và tinh hoàn. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với sự tham gia của “người thứ ba” Các kỹ thuật điều trị trên cũng dựa trên cơ sở kỹ thuật của các KTHTSS đã trình bày. Tuy nhiên, do tính chất  của bệnh lý vô sinh, để điều trị, cần có sự hỗ trợ về sinh học của người thứ ba. Đây là những kỹ thuật điều trị  có liên quan nhiều đến các vấn đề y học, pháp lý, nhân đạo và quan niệm đạo đức xã hội. Các kỹ thuật này bao gồm: ­ Xin tinh trùng: kỹ thuật này để điều trị cho các trường hợp vô sinh nam hoàn toàn không có tinh trùng.
  5. ­ Xin trứng: kỹ thuật này áp dụng cho những trường hợp người vợ bị cắt buồng trứng, buồng trứng bị suy yếu.  Trứng xin từ người thứ ba có thể để thực hiện TTTON hoặc ICSI với tinh trùng chồng sau đó chuyển phôi lại  vào tử cung người vợ. ­ Xin phôi: phôi dư từ các cặp vợ chồng làm TTTON sau khi đã thành công, có đủ con, được tự nguyện hiến  lại cho ngân hàng phôi. Phôi được chuyển vào tử cung người xin. ­ Mang thai hộ: kỹ thuật này thường được áp dụng cho những trường hợp người phụ nữ có buồng trứng bình  thường nhưng đã bị cắt tử cung hoặc bị bệnh lý nội khoa nặng (Ví dụ: bệnh tim) khiến việc mang thai có thể  nguy hiểm đến tính mạng của mẹ và con. Tinh trùng chồng và trứng người vợ được cho TTTON. Sau đó phôi  được chuyển vào tử cung người mang thai hộ. Sự phát triển rất nhanh của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã đặt cho chúng ta một vấn đề lớn về quản lý.  Ngoài việc chọn các chỉ định thích hợp và đánh giá mặt lợi hại của từng kỹ thuật, chúng ta cần đảm bảo về  mặt y đức của các kỹ thuật trên để đảm bảo chúng phục vụ tốt cho việc điều trị vô sinh và tránh việc lạm  dụng các kỹ thuật điều trị. http://www.ivftudu.com.vn/article/1152/ Một số từ viết tắt thường dùng trong hỗ trợ sinh sản Khoa hiến muộn bệnh viện Từ Dũ AI: artificial insemination Thụ tinh nhân tạo: Kỹ thuật đưa tinh trùng vào đường sinh dục người phụ nữ để điều trị vô sinh. Hiện nay chủ  yếu thực hiện bằng cách bơm tinh trùng đã chuẩn bị vào buồng tử cung. AID, DI: artificial insemination using donor sperm, donor insemination Thụ tinh nhân tạo với tinh trùng người cho. Hiện nay thường sử dụng thuật ngữ DI để thay thế cho AID. AIH: artificial insemination with husband’s sperm Thụ tinh nhân tạo với tinh trùng chồng. ART: assisted reproductive technology Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: Đây là một lãnh vực thuộc chuyên ngành Y học sinh sản (Reproductive medicine).  ART bao gồm các kỹ thuật can thiệp đến giao tử, phôi nhằm làm tăng khả năng thụ thai để điều trị vô sinh. CBAVD: congenital bilateral absence of the vas deferens Tắc ống dẫn tinh 2 bên bẩm sinh: CBAVD là một nguyên nhân dẫn đến vô sinh nam không có tinh trùng do  tắc. CC: clomiphene citrate Thuốc uống, thường được sử dụng để kích thích buồng trứng. Thuốc có tác dụng kích thích tuyến yên tiết  FSH và LH.
  6. E2: estradiol Dạng estrogen chủ yếu của cơ thể. 90% E2 trong cơ thể do nang noãn ở buồng trứng tiết ra trong quá trình  phát triển của nang noãn, dưới ảnh hưởng của FSH. ET: embryo transfer Kỹ thuật chuyển phôi vào buồng tử cung, được thực hiện bằng cách đưa một catheter qua cổ tử cung để  bơm phôi vào buồng tử cung. FER: frozen embryo replacement Kỹ thuật chuyển phôi vào buồng tử cung, trong đó các phôi được chuyển là những phôi được trữ lạnh  (cryopreserve) và sau đó rã đông (thaw). FSH: follicle stimulating hormone Nội tiết tố kích thích sự phát triển của nang noãn, do tuyến yên tiết ra. FSH thường được sử dụng để kích  thích buồng trứng trong các chu kỳ điều trị vô sinh. GIFT: gamete intra­fallopian transfer Chuyển giao tử vào vòi trứng: đây là một kỹ thuật HTSS hiện nay ít được sử dụng. Trong kỹ thuật này, tinh  trùng được chuẩn bị, trứng được chọc hút ra ngoài, sau đó, tinh trùng và trứng được bơm vào vòi trứng. GIFT  được thực hiện qua nội soi ổ bụng. GnRH: gonadotrophin releasing hormone Nội tiết tố do vùng hạ đồi ở não tiết ra. GnRH kích thích tuyến yên sản xuất ra FSH và LH. G nRHa: gonadotrophin releasing hormone agonist Là những nội tiết tố tổng hợp có cấu trúc và tác dụng sinh học tương tự như GnRH. hCG: human chorionic gonadotrophin Nội tiết tố được tiết ra bởi lớp tế bào ngoài của phôi nang và nhau (sau khi phôi đã làm tổ). hCG kích thích  hoàng thể tiếp tục tiết estradiol và progesterone. Các test thử thai thường dựa vào nồng độ của hCG trong  máu. ICSI: intracytoplasmic sperm injection Kỹ thuật hỗ trợ sự thụ tinh giữa trứng và tinh trùng. ICSI được thực hiện bằng cách tiêm một tinh trùng vào  bào tương của trứng để thụ tinh trứng và tạo phôi. Sau đó phôi được chuyển vào buồng tử cung. Đây là kỹ  thuật được sử dụng rộng rãi tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản. IUI: intra­uterine insemination Bơm tinh trùng vào buồng tử cung: đây là một kỹ thuật phổ biến nhất và hiệu quả nhất để thực hiện thụ tinh  nhân tạo. IUI được thực hiện bằng cách bơm tinh trùng đã được chuẩn bị vào buồng tử cung. IVF: in­vitro fertilization Thụ tinh trong ống nghiệm: quá trình thụ tinh của trứng và tinh trùng diễn ra bên ngoài cơ thể. IVF là kỹ thuật 
  7. hỗ trợ sinh sản được thực hiện nhiều nhất ở phần lớn các trung tâm hỗ trợ sinh sản trên thế giới. Trong IVF,  tinh trùng và trứng được cho nuôi cấy với nhau trong phòng thí nghiệm để tạo phôi. IVF­ET: in­vitro fertilization and embryo tranfer Thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi, thường được viết đơn giản là IVF. LH: luteinizing hormone Một trong hai nội tiết tố chính do thùy trước tuyến yên tiết ra. LH tăng nhanh và cao trước thời điểm rụng  trứng, có tác dụng kích thích sự phát triển cuối cùng của noãn và kích thích sự rụng trứng. LH còn có vai trò  kích thích tế bào vỏ tiết androgen trong pha nang noãn và tiết progesterone trong pha hoàng thể. Ở nam giới, LH kích thích tế bào Leydig tiết testosterone, nội tiết tố nam chính. Ngoài ra LH cũng đóng vai  trò quan trọng trong quá trình sinh tinh.  MESA: microsurgical epididymal sperm aspiration Hút tinh trùng từ mào tinh bằng vi phẫu: kỹ thuật bộc lộ mào tinh vào hút tinh trùng từ mào tinh qua vi phẫu.  Kỹ thuật này thường được thực hiện với những trường hợp vô sinh nam không có tinh trùng do tắc. Tinh trùng  sau đó sẽ được sử dụng để thực hiện ICSI. OHSS: ovarian hyperstimilation syndrome Hội chứng quá kích buồng trứng: là hội chứng xảy ra do đáp ứng quá mức của buồng trứng đối với thuốc  kích thích buồng trứng, thường xảy ra trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đa số nhẹ và tự khỏi. Một tỉ lệ nhỏ,  khoảng 1%, có triệu chứng nặng, cần theo dõi và điều trị tích cực. http://www.ivftudu.com.vn/article/1035/
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2