intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chữ trung trong ca dao dân ca người Việt

Chia sẻ: Kiếp Này Bình Yên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

81
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong kho tàng ca dao người Việt có khá nhiều bài ca dao đề cập đến chữ trung với các nội dung: một chữ trung với tinh thần tôn quân tuyệt đối; một chữ trung vì nước, vì dân, vì hai đấng sinh thành và phần lớn chữ trung là đối tượng được mang ra đối sánh với hiếu và tình. Cùng tham khảo bài viết sau đây để hiểu rõ hơn về vấn đề nói trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chữ trung trong ca dao dân ca người Việt

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 7(179)-2013 41<br /> <br /> <br /> <br /> CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA NGƯỜI VIỆT<br /> NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG<br /> <br /> <br /> TÓM TẮT định, các quy tắc, chuẩn hóa cách xử sự<br /> Chữ trung của Nho giáo đã đi vào đời sống chung, hướng người dân hành xử theo<br /> người dân Việt Nam khá sớm, từng là một cách mà nhà nước muốn. Đạo đức Nho<br /> trong những chuẩn mực đạo đức quan giáo đã được thể chế hóa bằng luật định.<br /> trọng nhất của sĩ dân nước ta. Tuy nhiên, Theo thời gian tạo ra nhiều tập quán, nhiều<br /> khi chữ trung thâm nhập vào đời sống của lề thói ăn sâu vào trong nhận thức của mỗi<br /> người bình dân, với vai trò là những chuẩn người, góp phần xây nên hệ thống giá trị<br /> mực đạo đức chứ không phải chỉ là chính đạo đức chung của cộng đồng.<br /> trị, chữ trung cũng có những thay đổi, khúc<br /> Theo sau Nho giáo, nho sĩ là lớp người<br /> xạ sâu sắc. Khảo sát Kho tàng ca dao<br /> được xã hội kính trọng và có uy tín. Cách<br /> người Việt (Nguyễn Xuân Kính chủ biên,<br /> sống, lời nói của họ trở thành khuôn mẫu,<br /> nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin ấn hành<br /> phép tắc, người dân học theo để điều<br /> 2001), chúng tôi tìm thấy khá nhiều bài ca<br /> chỉnh hành vi, hoàn thiện nhân cách. Họ có<br /> dao đề cập đến chữ trung với các nội dung:<br /> ảnh hưởng rất lớn trong việc xây dựng nên<br /> một chữ trung với tinh thần tôn quân tuyệt<br /> ý thức chung của cộng đồng ở nơi họ sinh<br /> đối; một chữ trung vì nước, vì dân, vì hai<br /> sống. Khi xã hội phong kiến ở vào thời<br /> đấng sinh thành và phần lớn chữ trung là<br /> điểm cực thịnh, nho sĩ vừa đại diện cho hệ<br /> đối tượng được mang ra đối sánh với hiếu<br /> tư tưởng thống trị vừa đại diện cho nguyện<br /> và tình.<br /> vọng của dân chúng. Họ trở thành chiếc<br /> cầu nối gắn kết hai luồng tư tưởng thống<br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> trị và bình dân. Thông qua họ triết lý sống<br /> Bắt đầu từ triều Hậu Lê, Nho giáo chính do Nho giáo định hướng đã phổ biến trong<br /> thức được các nhà cầm quyền phong kiến dân chúng. Người dân bảo nhau:<br /> Việt Nam đưa lên vị trí chủ đạo của hệ tư<br /> … Sao chọn sự nghiệp ra người trượng phu<br /> tưởng dân tộc. Ở vị trí chủ đạo, học thuyết<br /> Làm sao nên tiếng danh nho<br /> Nho giáo trở thành cơ sở lý luận chính trị,<br /> Thần trung, tử hiếu để cho khen cùng(1).<br /> được vận dụng vào việc trị quốc, an dân,<br /> trong đó có cả việc dựa vào các học thuyết Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên<br /> Nho giáo để lập ra luật định, giáo hóa dân quan đến việc tìm hiểu Nho giáo trong ca<br /> chúng. Dựa vào học thuyết Nho giáo, nhà dao dân ca người Việt. Song các công<br /> nước phong kiến Việt Nam đặt ra các luật trình hầu hết dựa trên quan điểm tách<br /> bạch, một bên thuộc văn hóa bác học, sản<br /> phẩm tinh thần của những người có học,<br /> Nguyễn Thị Kim Phượng. Thạc sĩ. Nghiên cứu<br /> một bên là văn hóa dân gian, sản phẩm<br /> sinh chuyên ngành Văn học Trường Đại học<br /> Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ của tầng lớp bình dân. Đứng về phía<br /> Chí Minh. người dân, mục đích đem lại sự công bằng<br /> 42 NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG – CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA…<br /> <br /> <br /> cho người dân và thỏa mãn lòng tự tôn phủ định ở câu thứ hai. Từ “đừng” ở đầu<br /> dân tộc, họ xem các khái niệm Nho giáo câu cùng với kết quả âm tính trong hàm ý<br /> như là những giáo điều hủ bại. Nếu có giả định (nếu không thực hiện đúng thì kết<br /> nhìn thấy mặt tích cực, thì cũng xem đó là quả xấu) đã khẳng định cho tính chân lý<br /> cách khái quát hóa các quan niệm đạo đức của câu thứ nhất. Ý nghĩa cuối cùng mà<br /> đã có sẵn trong dân gian. Nội dung Nho tác giả câu thơ muốn hướng đến là tính<br /> giáo đã mất đi, hay được Việt hóa khi thâm chính thống và hằng thường của triết lý<br /> nhập vào đời sống người dân. Trong khuôn trung quân. Trên hết, đó là đạo lý cơ bản<br /> khổ bài viết này, chúng tôi tìm hiểu về sự mà phận làm tôi phải tuân theo, buông<br /> tiếp nhận khái niệm ”trung” trong Nho giáo lỏng đạo lý ấy người dân sẽ mất phương<br /> của người dân, bước đầu cho thấy thái độ hướng, mất đi sự tự tin, đồng nghĩa với<br /> của người dân đối với đạo đức Nho giáo. việc họ bị rơi vào tâm trạng chơi vơi. Cơ<br /> Trong hệ thống triết lý đạo đức Nho giáo, hội để lập thân không còn và hậu quả là<br /> có thể nói “trung” là một trong những triết khó có thể “ra người trượng phu”.<br /> lý sống còn mang đậm dấu ấn Nho giáo Trong số 30 bài ca dao đề cập đến khái<br /> sau một thời gian dài thâm nhập vào đời niệm Trung, chúng tôi tìm thấy có tám bài<br /> sống người dân. mang nội dung liên quan đến ý nghĩa trên.<br /> Khảo sát 12.487 bài ca dao trong tổng tập Mặc dù số lượng không lớn nhưng chúng<br /> có thể chứng minh một điều: một chữ<br /> Kho tàng ca dao người Việt, Nguyễn Xuân<br /> trung thần tôn quân tuyệt đối đã được<br /> Kính chủ biên, nhà xuất bản Văn hóa-<br /> người dân tiếp nhận, lưu truyền cho đến<br /> Thông tin ấn hành năm 2001, chúng tôi tìm<br /> ngày nay. Họ dường như chấp nhận thân<br /> thấy có ba mươi bài đề cập đến khái niệm<br /> phận kẻ dưới như lời của Đổng Trọng<br /> “trung” của Nho giáo với các nội dung: Một<br /> Thư, người đã đưa thuyết trung quân đến<br /> chữ trung quân với tinh thần tôn quân tuyệt<br /> chỗ cực đoan duy tâm: “Trời là vua nên<br /> đối; một chữ trung biến chuyển theo phép<br /> che phủ và ban ơn bầy tôi; đất là bầy tôi<br /> quyền biến của Khổng Tử là vì nước, vì<br /> nên nâng đỡ và giúp vua” (Phùng Hữu Lan,<br /> dân, vì hai đấng sinh thành và một chữ<br /> 2007, tr. 42). Yếu tố này phù hợp với chế<br /> trung là đối tượng được mang ra đối sánh<br /> độ quân chủ chuyên chế nên nó được khai<br /> với hiếu và tình.<br /> thác triệt để. Ở Việt Nam nó được vận<br /> 2. NỘI DUNG dụng vào luật pháp để thể chế hoá các<br /> 2.1. Trung quân hành vi có liên quan đến ngôi thiên tử<br /> Chúng ta nghe người dân khuyên bảo nhằm nâng ý thức trung thần lên mức “tín<br /> nhau: “Làm tôi cứ ở cho trung/Đừng ở hai ngưỡng”. Xem Đại Việt sử ký toàn thư,<br /> lòng sau hóa dở dang”. Với cách dùng từ chúng ta thấy bắt đầu từ đời vua Trần Thái<br /> “cứ”, câu thơ không chỉ thể hiện chủ ý Tôn, lòng trung quân đã được quy định<br /> khuyên bảo mà còn cho thấy một niềm tin trong điều lệ, thần dân phải thề: “Làm tôi<br /> tuyệt đối vào kết quả của hành động nếu hết trung, làm quan trong sạch, ai trái thề<br /> được nghiêm túc thực hiện. Kết quả đó này, thần minh giết chết” (Cau Huy Giu<br /> được đưa ra trong một thể mệnh lệnh cách dịch, 1971, tập 2, tr. 439). Đến đời Lê,<br /> NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG – CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA… 43<br /> <br /> <br /> trong Quốc triều chiếu lệnh thiện chính, đại diện về quyền lợi chung của dân tộc.<br /> vua Lê Huyền Tông (1662-1671) ra chỉ dụ: Trung với vua là trung với dân vì thế khái<br /> “Vi nhân hữu tam cương ngũ thường chi niệm trung quân tuyệt đối đã được dân<br /> đạo” (làm người phải lấy tam cương ngũ chúng đồng tình. Tuy nhiên, dù là được<br /> thường làm đường lối mà theo) (Vũ Văn phổ biến trong thời điểm lịch sử nào, với<br /> Mẫu, 1971, tr. 109). Theo Vũ Văn Mẫu, từ mục đích gì thì qua văn bản ca dao chúng<br /> đời nhà Lý cho đến đời Nguyễn, luật hình ta thấy khái niệm trung quân Nho giáo đã<br /> xếp tội lật đổ nền cai trị của vua đứng đầu có một vị trí nhất định trong tâm thức<br /> trong thập ác (Vũ Văn Mẫu, 1971, tr. 165). người dân.<br /> Điều đó cho thấy triều đình phong kiến đã Khái niệm trung quân cực đoan trở thành<br /> đẩy ý nghĩa trung quân từ một cách hành một chuẩn mực luân lý, được hấp thu từ<br /> xử trong hành đạo của người quân tử lên bé. Nó khắc ghi vào tâm khảm của người<br /> thành luật vua, phép nước, lấy hình phạt dân và trở thành lẽ sống, mục đích sống<br /> cao nhất để răn đe. Nó vừa làm tăng sự uy cao nhất của đời họ. Vì thế, khi đứng trước<br /> nghi của vua vừa làm cho đạo lý trung sự chọn lựa giữa tình, hiếu và trung họ đã<br /> quân mang màu sắc thiêng liêng. Trung đau xót chấp nhận bỏ lại chữ tình để làm<br /> không còn đơn giản chỉ là một hành vi ứng tròn đạo hiếu trung.<br /> xử với người trên mà còn là bổn phận cao<br /> Quân xử thần tử,<br /> nhất của một kẻ bề tôi với vị vua - Trung<br /> Thần bất tử bất trung.<br /> quân. Trung quân khắc ghi trong tâm thức<br /> Phụ xử tử vong,<br /> của mỗi người và được lưu truyền bằng<br /> Tử bất vong bất hiếu,<br /> nhiều hình thức, trong đó có cả ca dao.<br /> Phận em liễu yếu vưng (vâng) lịnh nghiêm<br /> Vẫn một văn phong khuyên dạy, bảo ban<br /> đàng,<br /> nhau: “Làm người phải biết cương thường/<br /> Xem trong ngũ đẳng, quân vương đứng Em kết dươn (duyên) với khách, ngỡ<br /> đầu…”. ngàng nước non (Huỳnh Ngọc Trảng, 1998,<br /> tr. 258).<br /> Giản Chi đã nhận xét về tình thế tiếp nhận<br /> chữ trung quân từ phía nho sĩ của người Những biến động của xã hội Việt Nam và<br /> dân: “Nhà Nho của ta hồi xưa khi giảng về sự phân hóa mạnh mẽ diễn ra trong tầng<br /> Y Doãn, về vua Thuấn, không hiểu có ai lớp nho sĩ đã dẫn đến sự xuất hiện những<br /> dám đưa những hành động của hai ông đó quan niệm trung linh động. Xã hội phong<br /> lên làm quy tắc không; nếu có thì sao cái kiến Việt Nam bước vào giai đoạn suy vi.<br /> quan niệm về trung, về hiếu của các cụ Triều đình phong kiến thể hiện sự hèn kém<br /> thường hẹp hòi làm vậy” (Giản Chi, không đảm đương nổi vai trò xã hội của<br /> Nguyễn Hiến Lê, 2004, tập 2, tr. 482). mình thì cả nho sĩ lẫn người dân đã có<br /> Người dân đã được “nhồi đầu” triết lý trung những thay đổi về nhận thức. Chữ trung<br /> trinh theo chủ đích của một số nho sĩ. Một không còn cứng nhắc như trên. Nó đã<br /> khả năng khác cũng có thể xảy ra. Khái mang một nét nghĩa mới. Đức trung song<br /> niệm trung quân được phổ biến vào dân hành với đức hiếu hướng đến dân, đến<br /> chúng khi mà nhà nước phong kiến còn là nước và hai đấng sinh thành.<br /> 44 NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG – CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA…<br /> <br /> <br /> 2.2. Trung đi với hiếu, hướng đến nước, am hiểu sâu sắc về Nho học đã hành xử<br /> dân và hai đấng sinh thành theo lời dạy trên, tiêu biểu như Nguyễn<br /> Vào giai đoạn suy vi, triều đình phong kiến Trãi, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh<br /> Việt Nam duy trì một bộ máy quan lại vô Khiêm, Nguyễn Cư Trinh,… Sau này có<br /> đạo, bất tài như người dân phản ánh: Phan Bội Châu. Phan Bội Châu đã bộc lộ<br /> … Những phường dốt nát lên ngồi làm tâm, chí khi đối đáp với một phụ nữ trong<br /> quan… một dịp tham gia hát phường vải: “Đêm<br /> Các quan trung nghĩa trong triều xuân gặp gỡ giữa đường/Non sông một<br /> Về nhà ngồi xó liệu chiều thủ thân đội cương thường hai vai” (Ninh Viết Giao,<br /> Những quân vô nghĩa nịnh thần 2002, tr. 145).<br /> Tìm thầy, tìm cách lần lần thăng quan… Ở đây không có hình ảnh của vua, không<br /> Người đứng đầu nhà nước thì được ví như hô hào tinh thần trung quân cứng nhắc, chỉ<br /> lợn, quỷ, đẩy người dân rơi vào bi kịch, còn một nỗi lòng lo cho nước, cho dân. Lý<br /> hiện thực cuộc sống mâu thuẫn với những tưởng của ông hoàn toàn hướng về dân,<br /> gì được học từ sách thánh hiền. Chua chát trung với dân. Nhiệm vụ vì vận mệnh non<br /> hơn khi họ lại bị chính những lý tưởng mà sông, đất nước được đặt lên hàng đầu.<br /> xưa nay họ tôn thờ phản bội: “Người trung Nỗi lòng đó được người dân chia sẻ, đồng<br /> mắc nạn lao tù/Để cho người nịnh võng dù cảm và khắc họa rõ nét hơn: “Hai vai gánh<br /> nghênh ngang”. Tình cảnh ấy đã đẩy nặng trìu trìu/Vai mang chữ hiếu vai đèo<br /> người dân rơi vào tâm trạng thất vọng bất chữ trung”.<br /> mãn, bất cần. Họ bảo rằng: “Khó thì hết Triều đình phong kiến dần tách bạch<br /> thảo hết ngay/Công cha cũng bỏ, nghĩa quyền lợi gia tộc ra khỏi quyền lợi quốc gia,<br /> thầy cũng quên”. đặt vấn đề phân biệt giữa cá nhân và tập<br /> Các giềng mối xã hội đã dần trở nên lỏng thể, đẩy nho sĩ và người dân đứng trước<br /> lẻo. Người dân đã không thể giữ mãi lòng tình cảnh phải chọn lựa. Chọn lựa bên nào<br /> trung tuyệt đối với vua được. Phép quyền là do cái đức hạnh nhân ái trong họ sẽ<br /> biến của Khổng Tử đã được vận vào để mách bảo. Lịch sử đã ghi lại nhiều gương<br /> thích ứng với hoàn cảnh. Vua không còn vì trung thần như Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến<br /> dân, không còn đại diện cho quyền lợi của Thành, Nguyễn Trãi, sau này là Trương<br /> quốc gia dân tộc thì họ chọn việc lo cho Định, Lê Văn Khôi,… Điều đó phần nào<br /> vận nước, lo cho dân làm lý tưởng sống. giúp người dân nhận ra đạo lý trung trinh<br /> Xưa kia Khổng Tử đã từng khuyên các học không có sự cứng nhắc, ngu muội. Người<br /> trò của mình: “Các ngươi hãy lắng nghe. trung là người phải vì quyền lợi của cộng<br /> Nước trong thì giặt dải mũ, nước đục thì đồng của dân tộc mà hành xử, đặt vận<br /> rửa bàn chân. Đó là người tùy theo sự mệnh quốc gia dân tộc lên trên hết.<br /> trong đục, xấu tốt mà dùng vậy” (Đoàn Trách nhiệm của một công dân thôi thúc<br /> Trung Còn, 2006, tr. 19). Người dạy học họ tìm kiếm con đường giúp dân giúp<br /> trò phải biết tùy thời mà hành đạo mới là nước. Khi vua Hàm Nghi ra chiếu Cần<br /> người nhân, trí. Ở Việt Nam, những nho sĩ Vương, thân là phụ nữ không thể thực<br /> NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG – CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA… 45<br /> <br /> <br /> hiện được ước muốn, người mẹ gửi ước với cha mẹ trở thành là lẽ sống, là niềm an<br /> nguyện ấy vào con, mong muốn con làm ủi, là điểm đậu an toàn nhất khi sóng gió<br /> thay. Bằng lời ru người mẹ nhẹ nhàng cuộc đời vây lấy họ. Họ tuyên bố:<br /> nhắn gửi tâm nguyện của mình và định Nên thì lập kiểng trồng hoa,<br /> hướng lý tưởng cho đứa con: Chẳng nên đá kiểng, trồng cà dái dê.<br /> Giấc hòe giấc quế êm êm Chẳng nên thiếp trở lộn về<br /> Chữ trung chữ hiếu mẹ tìm mẹ ru Dưỡng nuôi từ mẫu trọn bề hiếu trung.<br /> Ru con ước những khang cù Hiếu trung với cha mẹ không chỉ là việc<br /> Ru con tạc tỉnh hữu chu đạo thường thực thi cái lễ đối với người trên mà trong<br /> Ru con bất khải bất môn đó bao gồm cả tình thâm, sự đền ơn đáp<br /> Ru con ứng chiếu cầu hiền quốc gia… nghĩa đối với những bậc sinh thành. Đạo<br /> Nhưng thực tế phong trào Cần Vương và hạnh lớn nhất đối với người dân lúc bấy<br /> nhiều cuộc khởi nghĩa khác đi đến chỗ thất giờ là hiếu trung với cha mẹ. Thế rồi chính<br /> bại. Sự hy sinh, mất mát quá lớn có lẽ đã cái đại đạo ấy đã đẩy họ đến một bi kịch,<br /> làm họ co lại. Người dân một lần nữa phải mang tâm trạng dằn vặt khó xử khi tình<br /> đứng trước tình huống chọn lựa giữa trách yêu lứa đôi trỗi dậy. Chúng ta thấy bối<br /> nhiệm của một công dân và bổn phận của cảnh bộc lộ lòng trung hiếu trong ca dao<br /> một người con. Họ nghiêng về gia đình, thường là do bi kịch tình yêu dẫn dắt. Tình<br /> thực hiện bổn phận của người con. Họ tập thâm máu mủ, cùng với bóng cả nghĩa mẹ,<br /> trung vào việc đền ơn, đáp nghĩa sinh ơn cha không thể làm dịu được tình yêu<br /> thành của cha mẹ. Vì thế, hàm nghĩa chữ khi người con bước vào tuổi yêu đương.<br /> trung của người dân có thêm một nét Vì thế, nhiều lần họ đã phải cân nhắc giữa<br /> trung, hiếu và tình.<br /> nghĩa mới:<br /> Hữu bằng tự viễn phương lai 2.3. Trung đặt đối sánh với hiếu và tình<br /> Lạc hồ quân tử lấy ai bạn cùng Chữ trung, hiếu, được mang ra đối sánh,<br /> Chữ hiếu, chữ trung là trung với mẹ cân nhắc với chữ tình, cấu trúc đối sánh<br /> Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân… chúng ta thường thấy trong ca dao:<br /> <br /> Tình cảm và niềm hy vọng của người dân Mình về ta chẳng cho về<br /> tập trung vào gia đình với những người Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ<br /> thân yêu nhất. Nơi đó ngoài tình thâm máu Câu thơ ba chữ rành rành,<br /> mủ, còn là nơi mà những chuẩn mực luân Chữ “trung”, chữ “hiếu”, chữ “tình” là ba.<br /> lý vẫn còn nguyên giá trị. Nơi đó bậc sinh Trong đạo lý của những người con dân<br /> thành là những hình mẫu thống nhất hài quê không chỉ có cái lý trí của đạo hiếu,<br /> hòa giữa đạo lý và hành động. Với họ, cha lòng trung mà còn có cái tình. Chữ trung<br /> mẹ không chỉ là người sinh dưỡng mà còn biểu hiện trách nhiệm công dân, vì nước;<br /> là bậc tín thật, đáng kính nhất. Lẽ sống, chữ hiếu là đạo làm con trong gia đình;<br /> mục đích sống của người con trở nên đơn chữ tình là nghĩa tào khang, sự đòi hỏi<br /> giản hơn. Họ dồn tâm sức vào việc đền thỏa mãn tình cảm, ham muốn cá nhân.<br /> công cha, ghi nhớ nghĩa mẹ. Hiếu trung Đây là ba đạo lý mà Nho giáo đã từng đề<br /> 46 NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG – CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA…<br /> <br /> <br /> cập. Tuy nhiên, chưa có sự cân bằng, vùng vẫy thoát khỏi sợi dây cột bắt đầu<br /> thường vẫn thiên về trung hay hiếu. Còn mục rữa, những chuẩn tắc đạo đức cứng<br /> tình, tình cảm lứa đôi được đặt trong giới nhắc của Nho giáo. Sự giằng co giữa cuộc<br /> hạn ràng buộc trách nhiệm, bổn phận giữa sống vì người và vì mình cho thấy những<br /> các thành viên trong gia đình biểu hiện qua giáo lý đạo đức Nho giáo đã bị nghi ngờ.<br /> mối quan hệ thứ ba trong ngũ luân (hay Nó phải đối đầu với những ham muốn dục<br /> trong tam cương): Vua tôi, cha con, vợ vọng bản năng. Trong thế đối đầu đó nhiều<br /> chồng, anh em, bằng hữu, thiếu cái xúc lần dục tình đã thắng. Nó đánh thức ham<br /> cảm ngọt ngào, say đắm của tình trai gái. muốn cá nhân trong mỗi con người. Người<br /> Trong ca dao, cả ba đã được đặt cạnh con trai đã trăn trở, dằn vặt vì đã phụ tình<br /> nhau trong thế đối sánh, tạo nên một thế vì trung hiếu:<br /> đứng kiềng ba chân, một thế đứng lý Đêm nằm day mặt trở ra,<br /> tưởng bởi sự vững chắc của nó. Đối với Ngày nay mới biết cô ta thương mình.<br /> đời sống người dân lao động thế đứng đó Mình giữ chữ trung, chữ hiếu<br /> giúp cho đời sống tâm hồn của họ cân Còn thiếu chữ ân tình.<br /> bằng, thoải mái, giúp họ giải thoát được Đạo chồng nghĩa vợ sao mình vội vong.<br /> trạng thái ức chế đến nghẹt thở bởi sự áp Làm thơ giấy trắng cẩn phong,<br /> đặt phi lý của những giáo điều. Đó cũng là Tình thương ngãi nhớ ở trong…<br /> một nét đẹp của ca dao và cũng là mục Chủ đề lớn nhất của ca dao là tình cảm<br /> đích ra đời của nó. Ở khía cạnh đạo đức, lứa đôi, khỏa lấp các nội dung khác. Trong<br /> chúng ta thấy ca dao Việt Nam đã chỉ ra và khi đó thì đạo lý Nho giáo lại có hướng<br /> khỏa lấp điểm khiếm khuyết mà lâu nay ngược lại như chúng ta thấy. Sự tương<br /> chúng ta cho là một trong những mặt tiêu phản này đôi khi chúng ta vẫn tưởng giữa<br /> cực lớn nhất của Nho giáo. ca dao và Nho giáo có sự đối kháng quyết<br /> Nho giáo luôn tin vào sự ảnh hưởng bên liệt. Điều này có phải là bản chất của các<br /> ngoài, sự lĩnh hội lý lẽ từ giáo dục giúp con hiện tượng trên hay không?<br /> người có đủ lý trí để kiềm nén, kiểm soát Khảo sát của chúng tôi cho thấy, người<br /> những dục vọng bản năng bên trong, trong dân đã lĩnh hội chữ trung như là một đức<br /> đó có tình cảm lứa đôi. Chính sự tách bạch hạnh quan trọng. Trung là một trong những<br /> ham muốn bản năng và lý trí, tập trung vào thước đo phẩm giá của xã hội đối với nhân<br /> trí xem nhẹ tình đã làm giảm ý nghĩa nhân cách của một người. Đồng thời, với hình<br /> văn của Nho giáo. Và nó đã gặp sự phản thức xuất hiện dưới lớp vỏ ngôn ngữ là<br /> ứng, khi con người tìm về cái tôi cá nhân, “chữ trung” thường thấy, khái niệm trung<br /> thời điểm mà đời sống riêng tư của mỗi phức tạp, thâm thúy của Nho giáo được cô<br /> người được quan tâm hơn. Mặt khác, đạo đọng thành một dạng bài học đơn giản,<br /> lý trung hiếu đã trở thành giáo điều, khi thực tế để người dân dễ lĩnh hội. Người<br /> người dân bị chính những người xưa nay dân đã thu nhận và trân trọng lưu giữ, rồi<br /> họ tôn thờ phản bội. Triết lý đạo đức Nho truyền dạy cho nhau những đạo lý Nho<br /> giáo xuất xướng trở thành giáo điều, trói giáo, trong đó có chữ trung, như những<br /> buộc người dân đến ngạt thở. Họ tìm cách phẩm hạnh tốt đẹp nhất. Chữ trung của<br /> NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG – CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA… 47<br /> <br /> <br /> Nho giáo đã có những ảnh hưởng tích cực khuôn vàng thước ngọc, luôn phải khắc ghi.<br /> trong việc hình thành nên nhân phẩm, đạo Kết hợp với thể loại ca hát làm tăng khả năng<br /> đức của người dân Việt Nam, cương trực, thâm nhập vào bộ nhớ của người dân.<br /> ngay thẳng và nghĩa khí như hình ảnh của Trong sự thâm nhập đó có lẫn những yếu<br /> Tử Trực, Hớn Minh trong Lục Vân Tiên tố tiêu cực khó kiểm soát được, nên trung<br /> của Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, cách vì vua, sống vì vua không phải chỉ tồn tại<br /> biểu hiện quá thẳng thắn. Xưa kia Khổng trong triết lý của một số nho sĩ ngu trung<br /> Tử có nói: “Ngay thẳng quá lễ thành ra gắt mà còn có cả trong một bộ phận dân<br /> gỏng, cấp bách” (Đoàn Trung Còn, 2006, tr. chúng. Nội dung này có sự tiếp sức tích<br /> 121), làm chúng ta hiểu rằng đây là một cực và quyết định của các luật định, xuất<br /> cách chống lại lễ giáo phong kiến của phát từ mục đích giáo hóa của triều đình<br /> người dân. phong kiến. Tuy nhiên, người dân không<br /> Từ khảo sát cũng cho thấy một vấn đề, cứng nhắc bị động tiếp thu nghĩa tiêu cực<br /> ngay cả khi vì mãi theo đuổi chữ trung, đó. Chúng ta thấy trong hơn 12.000 lời ca<br /> chữ hiếu mà đánh mất tình yêu, trong mỗi dao dân ca, với ba mươi bài có đề cập đến<br /> người dân vẫn tồn tại một tâm trạng day chữ trung chỉ có tám bài đề cập đến nội<br /> dứt, một ý thức cố gìn giữ đạo lý, khuôn dung này. Phần còn lại là ý nghĩa của chữ<br /> phép mà Nho giáo đã đặt ra như bài ca trung mới mẻ, thực tế là trung với nước,<br /> dao trên: “Đạo chồng nghĩa vợ sao mình với dân và với cha mẹ. Họ phân định rõ<br /> vội vong”. Người con trai, người chồng vẫn ràng “Chữ trung thì để phần cha, chữ hiếu<br /> mang một tâm trạng hối hận, vì đã lỗi đạo phần mẹ”. Ý nghĩa này phản ánh sự thay<br /> phu phụ cho dù là phải nghe theo cha mẹ. đổi trong nhận thức của người dân. Lẽ<br /> Đạo lý Nho giáo vẫn như là kim chỉ nam, sống, mục đích sống của họ giờ là “dưỡng<br /> định hướng hành xử cho mọi người thì sao nuôi từ mẫu cho trọn bề hiếu trung”. Phần<br /> chúng ta có thể cho rằng người dân chống tâm trí khác họ hướng đến tình yêu. Cái<br /> đối lại các lễ giáo phong kiến? mà luôn trào dâng trong họ nhưng nếu<br /> tuân theo những chuẩn tắc đạo đức cứng<br /> 3. KẾT LUẬN nhắc của Nho giáo, họ buộc phải đè nén.<br /> Việc nho sĩ tham gia sáng tác ca dao, tạo Đến một giới hạn thì sự đè nén phải được<br /> ra một mối quan hệ tương hỗ, biện chứng. giải thoát, người dân chọn hướng giải<br /> Ca dao là nơi họ bộc bạch tâm, chí, tình, thoát bằng cách bộc bạch thẳng nỗi lòng.<br /> phần nào chia sẻ, giải tỏa những u uất Nỗi lòng đang dằn vặt giữa lý trí và dục<br /> đang chất chứa trong họ. Đồng thời, cũng vọng, giữa đạo lý và xúc cảm. Họ không<br /> chính họ là những nhân tố mang các triết ngần ngại tỏ rõ xu hướng họ ngả theo vế<br /> lý Nho giáo, trong đó có chữ trung vào ca thứ hai. Đó là đời sống thật, là nhu cầu<br /> dao, từ đó nó được lan tỏa khắp nơi. Với thật của mỗi con người, bất kể một học<br /> phương tiện là ca dao về mặt văn bản, dân thuyết, lý luận hướng tới con người nào<br /> ca về hình thức truyền khẩu thì hiệu ứng cũng cần phải quan tâm. Ý nghĩa này đã<br /> của nó càng cao. Sự trân trọng của người từng hiểu là sự đấu tranh chống lễ giáo<br /> dân đối với bậc túc Nho, lời của họ là phong kiến của ca dao dân ca. Trên<br /> 48 NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG – CHỮ TRUNG TRONG CA DAO DÂN CA…<br /> <br /> <br /> phương diện đạo đức, tách hẳn ý nghĩa Nxb. Thuận Hóa.<br /> chính trị, đây có thực sự là một cuộc đấu 3. Đoàn Trung Còn. 2006. Luận ngữ. Huế:<br /> tranh hay là một cách phản biện để hoàn Nxb. Thuận Hóa.<br /> thiện một hệ thống triết lý nhân văn chưa 4. Giản Chi-Nguyễn Hiến Lê. 2004. Đại<br /> phù hợp với đời sống hiện thực?‰ cương triết học Trung Quốc. Tập 2. Hà Nội:<br /> Nxb. Thanh Niên.<br /> CHÚ THÍCH 5. Huỳnh Ngọc Trảng. 1998. Ca dao dân ca<br /> (1)<br /> Tất cả những câu ca dao không đánh số Nam kỳ lục tỉnh. Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai.<br /> chú thích trong bài viết được trích từ Kho 6. Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên), Phan Đăng<br /> tàng ca dao người Việt, tập 1, 2. Nguyễn Nhật, Phan Đăng Tài, Nguyễn Thúy Loan,<br /> Xuân Kính (chủ biên), Phan Đăng Nhật, Đặng Diệu Trang. 2001. Kho tàng ca dao<br /> Phan Đăng Tài, Nguyễn Thúy Loan, Đặng người Việt. Tập 1, 2. Hà Nội: Nxb. Văn hóa-<br /> Diệu Trang. Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, Thông tin.<br /> 2001. 7. Ninh Viết Giao. 2002. Hát phường vải. Hà<br /> Nội: Nxb. Văn hóa-Thông tin.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO 8. Phùng Hữu Lan. 2007. Lịch sử triết học<br /> 1. Cau Huy Giu (dịch). 1971. Đại Việt sử ký Trung Quốc. Tập 2. Hà Nội: Nxb. Khoa học<br /> toàn thư. Tập 2. Hà Nội: Nxb. Văn hóa- Xã hội.<br /> Thông tin. 9. Vũ Văn Mẫu. 1971. Cổ luật Việt Nam<br /> 2. Đoàn Trung Còn. 2006. Mạnh Tử. Huế: thông khảo. Sài Gòn: Nxb. Sài Gòn.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2