Cơ sở khoa học của việc sử dụng cây thuốc và hợp chất chiết xuất từ thảo dược
lượt xem 92
download
Cơ sở khoa học của việc sử dụng cây thuốc và hợp chất chiết xuất từ thảo dược trong phòng trị bệnh cho ĐVTS Nguồn dược liệu trong tự nhiên rất phong phú và đa dạng, bao gồm thực vật, động vật và khoáng vật. thảo dư Trong đó, dược liệu từ thảo mộc vẫn có vị trí quan trọng nhất về thành phần, chủng loại cũng như giá trị sử dụng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cơ sở khoa học của việc sử dụng cây thuốc và hợp chất chiết xuất từ thảo dược
- Cơ sở khoa học của việc sử dụng cây thuốc và hợp chất chiết xuất từ thảo dược trong phòng trị bệnh cho ĐVTS Nguồn dược liệu trong tự nhiên rất phong phú và đa dạng, bao gồm thực vật, động vật và khoáng vật. Trong đó, dược liệu từ thảo mộc vẫn có vị trí quan trọng nhất về thành phần, chủng loại cũng như giá trị sử dụng. Vì thế, từ thời kỳ thượng cổ, nhân dân ta đã biết dùng các cây thuốc, vị thuốc nam để phòng, trị một số bệnh cho gia súc, gia cầm và người, từ đó đã xây dựng được những học thuyết và tích lũy được những kinh nghiệm quý báu về phương pháp chẩn trị đông y. Tiến theo khoa học hiện đại về vật lý, hóa học, sinh học, …các ngành nhân y, thú y cũng sớm cho ra đời các nghiên cứu chuyên đề về cây thuốc nam, vị thuốc nam cho gia súc, gia cầm và người. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản việc nghiên cứu và sử dụng cây thuốc nam và các hợp chất chiết xuất từ thảo dược còn rất mới. Do đó việc nghiên cứu có hệ thống việc sử dụng cây thuốc, vị thuốc trong phòng trị bệnh cho ĐVTS là rất cần thiết. Việc nghiên cứu có hệ thống bao gồm:
- - Nghiên cứu về dược lý: nghiên cứu về cơ chế tác dụng của cây thuốc, vị thuốc trên đối tượng sử dụng về sinh lý, bệnh lý. - Nghiên cứu về thành phần hóa học, các hoạt chất có tác dụng sinh học có trong cây thuốc, vị thuốc thảo mộc. - Nghiên cứu về dược liệu: phân loại học cây thuốc, phương pháp trồng, thu hoạch và chế biến. - Nghiên cứu xây dựng quy trình tách chiết các hoạt chất và các dạng bào chế thích hợp cho từng loài thảo dược. 2.4.2. Tình hình nghiên cứu sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh ở động vật thuỷ sản trên thế giới Nghiên cứu và ứng dụng các loại thảo dược có hiệu quả tốt trong việc phòng trị bệnh cho con người đã được nghiên cứu từ rất lâu và hiện đang rất phát triển (Nguyễn Thị Vân Thái và ctv, 2003). Tuy nhiên việc nghiên cứu và cho ra đời các loaị sản phẩm thuốc từ thảo dược có tác dụng phòng và trị bệnh cho động vật thuỷ sản nói riêng thì còn rất nhiều khiêm tốn. Nghiên cứu và sử dụng kháng sinh thảo dược đã thực sự có những lợi ích thiết thực ví như chi phí thấp, dễ sử dụng, không gây hại đến môi trường nuôi
- cũng như môi trường xung quanh, tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Lợi ích cuối cùng của việc sử dụng thảo mộc đó là dễ tìm kiếm ngoài tự nhiên hoặc nông dân có thể tự trồng được. Chính vì vậy hiện đã có rất nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu ứng dụng thảo mộc vào trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản, trong số đó phải kể đến Ấn Độ, sự quan tâm đó thể hiện qua các kết quả nghiên cứu và sản phẩm đạt được. Ở Ấn Độ đã tiến hành nghiên cứu trong qui mô phòng thí nghiệm với 3 loại thảo mộc Ocimum sanctum(os), withania somniera (ws) và Myristik fragrans(mf) có ảnh hưởng kháng lại loài vi khuẩn vibrio harvey gây bệnh trên cá song Epinephelus tauvina.[26]. Thí nghiệm được tiến hành với cá Song có trọng lượng 30±0,5g, 3 loại thảo mộc nêu trên được tách chiết trộn vào thức ăn cho cá ăn với các nồng độ tăng dần (100, 200, 400 và 800mg/kg thức ăn). Các lô thí nghiệm đối chứng cho thấy tỷ lệ cá chết lên đến 100%, các lô thí nghiệm cho ăn với nồng độ 100, 200 đã giảm tỷ lệ chết 5%. Vậy bước đầu đã có kết quả tốt trong việc sử dụng Os, Ws, Mf có tính kháng vi khuẩn vibrio harvey. Một nghiên cứu khác cho thấy chất chiết từ lá ổi và quả ổi có tác
- dụng chống lại các loài vi khuẩn Staphilococcus, Shigella, Salmonella, Pacilus, E. Coli, Cloestridium và Pseudomonas[25] Năm 2004, Hasnabana đã nghiên cứu sử dụng Azadirachta indik, Allium sativum và Poligonum hidropiper là 3 loại thảo mộc dùng để kháng khuẩn [18]. Kết thảo mộc đối với tính miễn dịch của cá chép Ấn Độ. Thí nghiệm tiến hành trên cá có trọng lượng (200±17g) cho ăn thức ăn có chứa 0,5% rễ cây Achyranthes astera (Amaranthaceae) sau 4 tuần cho ăn nhận thấy cá có khả năng sinh ra kháng thể (Vasudeva rao.y; Romesh.m, Syngh a và Chakrabarti, 2004).[23]. Ở Trung Quốc, người ta đã nghiên cứu hiệu quả của 2 loại thảo mộc (Astragalus radix và Scutellavia radiis) lên tính miễn dịch không đặc hiệu của cá Rô phi. Kết quả cho thấy Astragalus radix cho ăn với nồng độ 0,1 và 0,5% trong thời gian 3 tuần là nồng độ và thời điểm có hiệu quả tối ưu nhất. Riêng Scutellavia radiis cần có thêm thí nghiệm để tìm ra nồng độ và thời gian cho ăn thích hợp. Năm 2007 cũng tại Trung Quốc thêm một nghiên cứu khác về tính miễn dịch
- của cá Chép, trộn lẫn một số loại thảo mộc với nhau như Astragalus mempranaceus (phần rễ và thân), Poligonum multiflorum (phần rễ), Isatis tinctoria (phần rễ), Glycyrrhida grabra (phần thân) cho cá Chép ăn 0,5% và 1% trong thời gian 30 ngày, kết quả cho thấy thảo dược giúp tính miễn dịch của cá tăng lên đáng kể (Chuntao Yuan, Dongmei Li, Wei Chen, Fangfang Sun, Guanghong Wu, Yi Gong, Fianqing Tang, Meifang và Xiaodong Han, 2007).[22] Hiện ở Trung Quốc sản phẩm có nguồn gốc từ tỏi (Allium sativum) dạng bột mịn trắng đã được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả cao trong việc phòng và trị bệnh cho ĐVTS nuôi. Theo kết quả nghiên cứu của Muohan Thakảe, 2004. Khi ông tiến hành nghiên cứu tính kháng khuẩn của cây nghệ (Curcuma longa), gừng (Zingiber officinale), hạt tiêu đen (Piper nigrum), cây quế (Cinnamomum cassia), cây húng tây (Thymus vulgaris), Laurus nobilis (Bay leaf), và cây đinh hương (Syzgium aromaticum) với một số loài vi khuẩn cụ thể như E.coli, S.typhimurium, E.faecium, và E.faecalis bằng phương pháp kháng sinh đồ. Kết quả chỉ rõ
- dịch tách chiết từ nghệ có tính kháng E.coli, S.typhimurium, và E.faecalis với nồng độ 130 mg/khoanh, cũng phương pháp tương tự húng tây có tính kháng khuẩn tại nồng độ đạt 30 mg/khoanh, nhưng cả hai loại thảo mộc này lại không có hiệu quả đối với E.faecium, các thảo mộc còn lại chỉ rõ không có hoạt tính kháng 4 loài vi khuẩn được chọn đưa vào nghiên cứu các bước tiếp theo về thử tác dụng độc trên nhiều loài động vật thuỷ sản thì định hương có ảnh hưởng đến sự tăng trọng.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
cơ sở toán học của các phép xử lý thống kê trong nghiên cứu khoa học nông nghiệp: phần 2
246 p | 231 | 13
-
Một số đặc điểm sinh lý, sinh thái loài mây nếp (Calamus tetradactylus Hance)
6 p | 101 | 9
-
Cơ sở khoa học bước đầu chuyển hóa rừng trồng keo lai cung cấp gỗ nhỏ thành rừng gỗ lớn ở Đông Nam Bộ
9 p | 56 | 4
-
Một số đặc điểm dịch tễ của bệnh Carê trên chó tại Hà Nội
9 p | 56 | 4
-
Ứng dụng nhuộm hóa mô miễn dịch phát hiện kháng nguyên virus dịch tả lợn Châu Phi trên lợn mắc bệnh
8 p | 35 | 3
-
Tổng quan những nghiên cứu về đặc điểm sinh học của cá măng Elopichthys bambusa (Richardson, 1844): Hiện trạng và định hướng nghiên cứu
10 p | 3 | 2
-
Một số đặc điểm cấu trúc và tính chất thể nền của rừng ngập mặn trồng ven biển huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
10 p | 2 | 2
-
Một số đặc điểm lâm học của lâm phần nơi loài Mạy chả (Arundinaria sp.) phân bố tại tỉnh Điện Biên
7 p | 5 | 2
-
Đặc điểm hình thái, vật hậu và tái sinh của loài Ràng ràng mít (Ormosia balansae Drake) tại vùng Tây Bắc
9 p | 5 | 2
-
Tương quan sinh trưởng, phát triển của Sâm Ngọc Linh với một số nhân tố sinh thái ở khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà, tỉnh Khánh Hòa
12 p | 8 | 2
-
Bố trí cây trồng vùng Cư Pui, huyện Krông Bông, tỉnh Đăk Lăk trên cơ sở đánh giá thích nghi đất đai
9 p | 16 | 2
-
Đa dạng nguồn tài nguyên cây thuốc chữa trị các bệnh về gan ở vùng Bảy Núi, tỉnh An Giang
10 p | 4 | 1
-
Đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng và kiểu gen của các giống lúa nếp
6 p | 24 | 1
-
Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh hóa theo tuổi phát triển của quả nhãn lồng (Euphoria longan Lamk.) trồng tại Quảng Ninh
7 p | 50 | 1
-
Đánh giá tình hình dịch tễ bệnh cầu trùng ở thỏ nuôi tại thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên
7 p | 5 | 1
-
Một số đặc điểm sinh học sinh sản của loài móng tay Solen thachi Cosel, 2002 ở đầm Thuỷ Triều, Khánh Hoà
7 p | 47 | 1
-
Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh hóa của ba giống mía ROC10, ROC23, ROC26 trồng tại tỉnh Hòa Bình
9 p | 2 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn