Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại TPHCM
lượt xem 193
download

Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại TPHCM

Tháng 5 năm 2002, chính phủ Việt Nam đã hoàn thành Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ( CPRGS) và bắt đầu quá trình triển khai thực hiện CPRGS ở cấp địa phương ....vùng sẽ được sử dụng như những công cụ xây dựng năng lực cho các quy trình lập kế ... đói giảm nghèo, một chương trình đã đạt được nhiều thành tựu đầy sức thuyết phục ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại TPHCM
- Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại TPHCM
- Báo cáo kết quả nghiên cứu thực tế Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh *** Báo cáo được thực hiện bởi Trịnh Hồ Hạ Nghi Huỳnh Thị Ngọc Tuyết với phần bổ sung của Bill Tod Tháng 7‐8/ 2003
- ii
- Mục Lục Danh mục các Bảng và Khung ............................................................................................iii Lời nói đầu của Nhóm hành động chống đói nghèo.........................................................v Lời cảm ơn .............................................................................................................................vii Những chữ viết tắt ................................................................................................................ ix Tóm tắt Báo cáo ...................................................................................................................... 1 Phần 1: Giới thiệu .................................................................................................................. 4 Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu .............................................................................................. 8 Phần 3: Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm, những rủi ro và tính dễ tổn thương .................................................................................. 12 Phần 4: Tham gia và Tăng cường Năng lực trong việc Đưa ra các Quyết định tại Địa phương ............................................................................................................. 25 Phần 5: Cải cách Hành chính công .................................................................................... 32 Phần 6: Di dân và các Vấn đề Đô thị.................................................................................. 39 Tài liệu Tham khảo .............................................................................................................. 48 PHỤ LỤC 1: Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 49 PHỤ LỤC 2: Số liệu Tóm tắt Tham vấn tại Địa bàn Nghiên cứu .................................. 51 PHỤ LỤC 3: Danh sách thành viên nhóm khảo sát thực địa ........................................ 54 PHỤ LỤC 4: Các loại hình thức cư trú đối với quản lý hành chính ............................. 55 PHỤ LỤC 5: Quan hệ đối tác trong Đánh giá nghèo theo vùng ................................... 57 iii
- Danh mục các Bảng và Khung Bảng Bảng 1: Dân số huyện Bình Chánh, Thị Trấn An Lạc và Xã Tân Tạo .............................. 9 Bảng 2: Dân số Quận 8, Phường 4 và Phường 5 ............................................................... 11 Bảng 3: Tính đa khía cạnh của tình trạng nghèo .............................................................. 18 Bảng 4: Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về các lĩnh vực dân chủ cơ sở ........................................................................................................... 27 Bảng 5: Ý kiến của cán bộ và người dân địa phương về cơ chế tăng cường sự tham gia và đảm bảo việc phổ biến, trao đổi thông tin .................................... 29 Bảng 6: Dân chủ cơ sở trực tiếp và đại diện ...................................................................... 30 Khung Khung 1: Tiêu chí xác định hộ nghèo của chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo........... 15 Khung 2: Ý nghĩa của các nguồn lực chính trị và xã hội đối với người nghèo ............ 16 Khung 3: Người nghèo nhận thức được chất lượng cuộc sống của họ thấp kém ....... 17 Khung 4: Quy trình xét chọn hộ hưởng chương trình Xoá đói giảm nghèo tại khu phố ........................................................................................................... 31 Khung 5: Rơi vào cảnh nghèo vì tác động của quy hoạch đô thị................................... 45 iv
- Lời nói đầu của Nhóm hành động chống đói nghèo Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam đã hoàn thành Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) và bắt đầu quá trình triển khai thực hiện CPRGS ở cấp địa phương. Thông qua các chiến dịch thông tin và hàng loạt các hội thảo vùng, cán bộ của các bộ ngành chủ chốt đã giải thích cho đại diện của các chính quyền địa phương về các phương pháp sao cho các quy trình lập kế hoạch của địa phương có thể được thực hiện theo định hướng vì người nghèo hơn, dựa trên số liệu thực tế hơn, chú trọng vào kết quả hơn, cân đối tốt hơn trong các quyết định phân bổ nguồn lực và được giám sát tốt hơn. Năm 2003 Nhóm hành động chống đói nghèo (PTF) đã hỗ trợ thực hiện cho các đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng (PPAs) ở 12 tỉnh của Việt Nam. Những đánh giá nghèo này đã sử dụng khung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chung để tìm hiểu những vấn đề nghèo đói mà các số liệu định lượng đã không mô tả được hết. Mục đích của việc làm này là đưa ra một nghiên cứu có thể sử dụng cùng với số liệu của Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam để cung cấp thông tin cho Ban thư ký CPRGS về tiến độ thực hiện CPRGS cho tới nay. Đánh giá nghèo cũng được thiết kế để cung cấp thông tin cho các nghiên cứu mới về nghèo đói ở các vùng và trên toàn quốc và các nghiên cứu này cũng đã được công bố riêng. Các đánh giá nghèo theo vùng sẽ được sử dụng như những công cụ xây dựng năng lực cho các quy trình lập kế hoạch với định hướng vì người nghèo ở các cấp chính quyền địa phương. Tám nhà tài trợ đã đóng góp nguồn lực tài chính và nhân lực để hỗ trợ cho các đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng, là cơ sở cho việc xây dựng báo cáo này và các đánh giá nghèo theo vùng bổ sung. Các nhà tài trợ bao gồm ADB, AusAID, DFID, GTZ, JICA, SCUK, UNDP và Ngân hàng Thế giới. Mỗi nhà tài trợ đóng vai trò chính ở một vùng của Việt Nam. Việc phân bố các vùng giữa các nhà tài trợ được tóm tắt ở Bảng A, và dựa trên định hướng hoạt động của các nhà tài trợ trong từng lĩnh vực. Bằng cách lựa chọn vùng nào mình thấy quen thuộc nhất, thông qua các dự án và hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, các nhà tài trợ có thể tận dụng hoàn toàn được những hiểu biết tích luỹ được khi đã làm việc tại vùng đó. Các nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng ở 43 xã rải rác trên toàn quốc. Trong số đó có hai tổ chức phi chính phủ quốc tế (Action Aid và SCUK), các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan nghiên cứu của Việt Nam, bao gồm Trung tâm phát triển nông thôn, Viện xã hội học (IOS), Trung tâm Chăm sóc sức khoẻ ban đầu Long An, Trung tâm dịch vụ phát triển nông thôn (RDSC) và Vietnam Solutions. Ngoài ra, có hai nhà tài trợ đã tiến hành nghiên cứu bằng cách lập các nhóm nghiên cứu gồm các chuyên gia trong nước dưới sự quản lý trực tiếp của nhà tài trợ. Kiến thức và kinh nghiệm của các tổ chức phi chính phủ và cơ quan nghiên cứu đóng vai trò then chốt đối với chất lượng của công tác này. Một cơ chế phối hợp đã được hình thành cho công tác đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng v
- đồng. Các thành viên của hầu hết các nhóm nghiên cứu đã tham gia xây dựng khung nghiên cứu và đi đến thống nhất về mục tiêu cần đạt được trong công tác nghiên cứu thực địa. Công tác thực địa đã được một số nhóm tiến hành thí điểm, và đề cương nghiên cứu cũng được chỉnh sửa cho phù hợp với những bài học kinh nghiệm được rút ra. Khuôn khổ nghiên cứu cuối cùng bao quát những lĩnh vực nghiên cứu như sau: • Nhận thức về nghèo đói và xu hướng nghèo, nguyên nhân dẫn tới nghèo và khả năng dễ bị tổn thương; • Tiến bộ trong công tác tăng cường dân chủ ở cấp cơ sở, đặc biệt là mức độ các hộ nghèo có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào các quy trình xây dựng kế hoạch và lập ngân sách; • Những thách thức trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản, tập trung vào sự tương tác của các hộ gia đình nghèo với các nhà cung cấp dịch vụ và các hộ nghèo có thể được tăng cường quyền lực như thế nào để có thể yêu cầu quyền lợi được cung cấp các dịch vụ cơ bản một cách hiệu quả hơn; • Các cơ chế trợ cấp xã hội hiện nay (liên quan tới công tác xác định đối tượng ưu tiên ở trên) và cách thức cải thiện các cơ chế này; • Tình hình cải cách hành chính công ở các cấp chính quyền địa phương; • Những thách thức trong vấn đề di dân và mối liên hệ giữa sự di chuyển của hộ gia đình, nghèo đói và tiếp cận với dịch vụ; và, • Thông tin về môi trường đối với người nghèo và sự thay đổi của tình hình này. Những Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng hiện nay đang được công bố thành bộ. Một báo cáo tổng hợp các kết quả của cả 43 xã và phân tích một cách tổng hợp hơn các chủ đề này cũng sẽ được công bố. Cũng sẽ có một báo cáo khác tóm tắt phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu được sử dụng và những câu hỏi nghiên cứu chi tiết. vi
- Lời cảm ơn Chúng tôi xin chân thành cám ơn sự chỉ đạo và hỗ trợ quý báu và kịp thời của Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh, Ban Chỉ Đạo Chương Trình Xóa Đói Giảm Nghèo và Việc Làm (Sở Lao Động Thương Binh Xã Hội), chính quyền Huyện Bình Chánh, Thị trấn An Lạc, Xã Tân Tạo, và chính quyền Quận 8, Phường 4, và Phường 5, trong suốt quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, xin cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình và đầy tính trách nhiệm của các cán bộ chuyên trách chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo cấp thành phố, quận/huyện và phường/ xã/ thị trấn đã góp phần quyết định vào sự thành công của đợt khảo sát, đồng thời minh chứng cho tính tham gia là phương pháp chủ đạo của tất cả các cuộc đánh giá nghèo được thực hiện từ năm 1999 đến nay. Chúng tôi cũng xin cám ơn các tổ chức đoàn thể, các tổ trưởng tổ dân phố, ban vận động khu phố/ ấp được chọn khảo sát đã vận động người dân tham gia tích cực và tổ chức chu đáo các buổi họp dân, tạo ra bầu khí cho sự tham gia tích cực, cởi mở để nhóm nghiên cứu có được các thông tin xác thực từ chính người dân địa phương. Xin cám ơn T.S. Martin Rama, Th.S. Carrie Turk (Ngân Hàng Thế Giới), và Th.S. Nguyễn Văn Thuần (Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc), đã hỗ trợ công việc nghiên cứu, đặc biệt về phương pháp, trong suốt các giai đoạn chuẩn bị, thực địa, cũng như viết báo cáo. Cuối cùng, xin chân thành cám ơn những người dân đã trực tiếp tham gia nghiên cứu thông qua các hoạt động thảo luận nhóm, phân hạng kinh tế hộ, phỏng vấn sâu trường hợp điển cứu và các ý kiến thực tế, chân tình, xây dựng để nghiên cứu này có thể hoàn thành tốt đẹp. vii
- Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh viii
- Tóm tắt Báo cáo Những chữ viết tắt BHYT Bảo Hiểm Y Tế CCHC Cải Cách Hành Chính CG Consultative Group (Nhóm Tư Vấn Các Nhà Tài Trợ) CP Chính Phủ CPRGS Chiến Lược Toàn Diện về Tăng Trưởng và Xoá Đói Giảm Nghèo DCCS Dân Chủ Cơ Sở GDP Gross Domestic Products (Tổng sản phẩm quốc nội) HDI Human Development Index (Chỉ số phát triển con người) HĐND Hội Đồng Nhân Dân LĐTBXH Lao Động Thương Binh Xã Hội NĐ‐CP Nghị Định Chính Phủ PPA Participatory Poverty Assessment (Đánh giá Nghèo có sự tham gia của cộng đồng) SCUK Save The Children United Kingdom (Tổ Chức Cứu Trợ Trẻ Em Anh) TDP Tổ Dân Phố TPHCM Thành Phố Hồ Chí Minh UBND Ủy Ban Nhân Dân XĐGN Xóa Đói Giảm Nghèo ix
- Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh x
- Tóm tắt Báo cáo Tóm tắt Báo cáo Nhận thức về nghèo, xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm, những rủi ro và tính dễ tổn thương Cuối năm nay (2003), Thành phố Hồ Chí Minh phấn đấu xoá nghèo theo tiêu chí nghèo của Thành phố. Tuy nhiên, kết quả cuộc nghiên cứu Đánh giá tình trạng nghèo có sự tham gia này cho thấy có sự chênh lệch đáng kể giữa số hộ nghèo được chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo xác định và con số hộ được người dân địa phương cho là nghèo. Khi phân hạng kinh tế hộ, trong mỗi tổ dân phố, người dân xác định có khoảng 30% đến 50% hộ gia đình là “nghèo” hay “rất nghèo” (so với hộ “khá giàu” và “trung bình”). Trong khi đó, chương trình Xoá Đói Giảm Nghèo thường xác định có từ 2 đến 7 hộ trong mỗi tổ dân phố, tức khoảng 4% đến 15% tổng số hộ là nghèo. Trong khi có một số người dân được tham khảo ý kiến cho rằng cuộc sống khá lên trong vài năm qua (nhất là nhờ bán đất hay tài sản khác – dù điều này không đảm bảo sinh kế bền vững), số đông còn lại cho rằng cuộc sống trở nên khó khăn hơn và than phiền không đủ ăn, cho con cái nghỉ học sớm và sống lây lất qua ngày. Có nhiều nguyên nhân lý giải cho cuộc sống ngày càng khó khăn, chứng tỏ rằng nghèo không chỉ là thu nhập ít ỏi, mà còn là chi phí sống cao, công việc bấp bênh, sức khỏe kém, không được học hành, nhà cửa không an toàn và kém vệ sinh, các mối quan hệ xã hội bị hạn chế, và cách biệt giàu nghèo ngày càng tăng. Công việc làm vẫn còn là thách đố lớn đặt ra cho người nghèo. Người nghèo gần như không thể tìm việc làm nhờ các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước. Còn tìm việc nhờ các dịch vụ việc làm tư nhân thì có rủi ro cao, và có nhiều dịch vụ mang tính ʺlừa đảoʺ. Những công nhân không có tay nghề, lớn tuổi, hay sức khoẻ kém gặp nhiều trắc trở trên con đường tìm việc. Một khi tìm được, tình trạng thiếu luật lệ hoặc luật lệ không được thực thi làm cho quyền lợi của công nhân thường không được bảo vệ. Công nhân nữ trẻ (chiếm 90% lực lượng lao động trong nhiều xí nghiệp) tỏ ra lo ngại về sự cô lập xã hội của họ. Tham gia và tăng cường năng lực trong việc đưa ra các quyết định tại địa phương Lúc đợt nghiên cứu đánh giá nghèo có sự tham gia này đang tiến hành, các phường/ xã/ thị trấn đang tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định 29 (Dân chủ cơ sở – DCCS) chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sau: 14 việc dân biết đến, 6 việc dân bàn bạc và quyết định trực tiếp, 8 việc dân tham gia ý kiến, HĐND và UBND quyết định, 10 việc dân giám sát, kiểm tra. Các cán bộ và người dân địa phương đều đồng ý rằng đã có nhiều tiến bộ trong việc thực hiện các nội dung tuyên truyền, phổ biến DCCS và các chính sách khác của nhà nước, thái độ tiếp dân tích cực hơn trong các cơ quan nhà nước, bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân, đóng góp vào các khoản quỹ địa phương và phát triển cơ sở hạ tầng địa phương. Các cán bộ chính quyền quận/ huyện và phường/ xã/ thị trấn cho rằng khâu có nhiều hạn chế duy nhất là vấn đề công khai ngân sách địa phương. 1
- Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh Tuy nhiên, người dân địa phương còn thấy được các điểm yếu kém khác như: những người dân nhập cư nghèo, thanh niên, và trẻ em ít tham gia hơn so với những nhóm dân thường trú; các tổ trưởng tổ dân phố (những người đóng vai trò thiết yếu trong việc đưa ra các ý kiến hướng dẫn) có năng lực làm việc rất khác nhau; đại biểu Hội đồng Nhân dân thường là các cán bộ địa phương; việc thực hiện DCCS chỉ giới hạn trong khuôn khổ UBND, không ít trường hợp bị hạn chế vì thiếu sự phối kết hợp với các cơ quan ngành dọc như giáo dục và quản lý đô thị. Ý kiến đề xuất chủ yếu là cần thay đổi bản chất tham gia từ khá bị động và một chiều (chẳng hạn như được thông báo) như hiện nay trở nên chủ động hơn và có sự bàn bạc, trao đổi, tham khảo ý kiến hai chiều (ví dụ như về việc đóng các khoản phí ngoài học phí), và chuyển sang giám sát chủ động hơn sau này (chẳng hạn như xác định đối tượng hỗ trợ xã hội và giám sát việc thực hiện chương trình XĐGN). Cần phải thu hẹp khoảng cách nhận thức của các cán bộ địa phương và của người dân địa phương về các vấn đề vừa nêu trên. Cải cách hành chính Các cán bộ địa phương và người nghèo ghi nhận có một số cải tiến đáng kể trong lĩnh vực dịch vụ quản lý hành chính, điển hình là dịch vụ “một cửa một dấu” cho chứng nhận các loại giấy tờ tuỳ thân. Tuy nhiên, theo ý kiến người nghèo, còn nhiều vấn đề tồn tại trong lĩnh vực nhà đất – địa chính và đăng ký nhân hộ khẩu, chẳng hạn như vẫn còn nhiều các thủ tục phức tạp và làm mất nhiều thời gian, tình trạng tham nhũng và năng lực, phẩm chất cán bộ địa phương làm việc trong các ngành này, đã và đang ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của họ. Về phân cấp quản lý, cán bộ cấp quận/ huyện và phường/ xã cho rằng còn có sự mơ hồ, chồng chéo, không phân biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các ban ngành. Cán bộ cả hai cấp đều tán thành phân cấp quản lý nhiều hơn cho cấp cơ sở phường/ xã theo hướng vì người nghèo, tuy nhiên, sự phân cấp này phải đi cùng với các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực, ví dụ như hợp lý hoá sự phân công phân cấp, cải thiện các luồng thông tin và các mối liên kết, phối hợp công tác, tăng cường tính công khai, minh bạch và đơn giản hóa các thủ tục và quy định, tạo ra nhiều hơn sự kiểm tra, giám sát và xem xét việc phân bổ kinh phí và nhân sự cho phù hợp với thực tế tình hình các địa phương (có tính đến tốc độ phát triển và sự gia tăng dân số ở một số khu vực phường/ xã). Bản thân người nghèo có những nhận thức khác nhau, nhưng thường rất hạn chế, về cải cách hành chính và các ảnh hưởng, liên quan giữa cải cách hành chính công (CCHC) với họ, đồng thời họ thấy mình khó tác động đến tiến trình thực hiện CCHC. Di dân và các vấn đề đô thị Một số thông tin quan trọng nhất ghi nhận được về các quan tâm của cộng đồng về các vấn đề di dân và đô thị hóa tại hai quận huyện khảo sát có thể được tóm tắt như sau: ‐ Có khoảng 34% ‐ 40% dân số không có hộ khẩu thường trú (đặc biệt ở một xã của huyện Bình Chánh, tỉ lệ này lên đến 65%) ‐ Từ năm 1999 đến nay, số cư dân của các khu vực khảo sát tăng khoảng 28% đến 39% (có một xã của huyện Bình Chánh tỉ lệ tăng dân số lên đến 64%) 2
- Tóm tắt Báo cáo Các hệ quả của tình trạng thiếu hộ khẩu thường trú một lần nữa lại được người dân nêu ra (tương tự như lần đánh giá nghèo năm 1999 và tham khảo ý kiến cộng đồng về Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo năm 2002), như: không bình đẳng quyền lợi trong tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, thụ hưởng chương trình Xoá đói giảm nghèo, các chương trình tín dụng và các hỗ trợ xã hội khác cũng như phải trả các chi phí cao cho điện, nước và các phí tổn cho gia hạn đăng ký tạm trú. Ngoài ra, trong khi người nhập cư là người phải gánh chịu sự thiếu an toàn do tình trạng cư trú tạm thời của họ thì người dân nghèo tại chỗ là những người bị ảnh hưởng bởi các dự án quy hoạch đô thị lại phàn nàn nhiều về tình trạng bấp bênh, không ổn định, thiếu sự công khai rõ ràng, thiếu tư vấn cộng đồng và sự chậm trễ, kéo dài (trong một số trường hợp đến hơn 5 năm) của các dự án thuộc quy hoạch “treo”. Các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội không căn cứ trên số cư dân hiện đang sinh sống tại địa phương (vì chỉ có lực lượng công an nắm số liệu về số dân nhập cư để quản lý trật tự trị an) mà chỉ căn cứ trên số dân có đăng ký thường trú. Các kế hoạch này vì thế không theo hướng giảm nghèo, chí ít là xét trên khía cạnh không tính đến các nhóm dân nghèo mới di chuyển từ nông thôn vào thành phố. Cũng vì thế, người nhập cư là người nghèo không được nhận diện. Tuy nhiên, nếu so sánh với các cuộc đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng trước đây, có sự thay đổi đáng ghi nhận nhất về thái độ của các lãnh đạo và viên chức các cấp là hiện nay nhiều người cởi mở chấp nhận có những thiếu sót trong cách tiếp cận hiện hành, công nhận nhiều hơn các quyền lợi bình đẳng của người nhập cư với tư cách là những công dân Việt Nam như là những người Việt Nam khác, nhìn nhận vai trò quan trọng của họ trong sự phát triển kinh tế của Thành phố và vì thế cần có sự vận dụng mềm dẻo, linh hoạt hơn các quy định về đăng ký cư trú. 3
- Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh Phần 1: Giới thiệu Cơ sở và mục đích nghiên cứu Theo số liệu chính thức năm 2003, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đạt thành tựu về tổng sản phẩm quốc nội đầu người (GDP per capita) cao thứ nhì1 và chỉ số phát triển con người (HDI) cao thứ ba2 trong 61 tỉnh thành trên toàn quốc. Theo Ban Chỉ Đạo Xóa Đói Giảm Nghèo và Việc Làm Thành phố, số người sống dưới ngưỡng nghèo hiện nay đang giảm dần, còn 1.74% đến tháng 10/20033, và Thành phố phấn đấu cuối năm nay sẽ xóa nghèo theo chuẩn nghèo hiện tại. Cũng xin lưu ý rằng ngưỡng nghèo Thành phố được quy định ở mức tương đối cao hơn nhiều so với các tỉnh thành khác. Tuy nhiên, các thông số trên chưa phản ánh tình trạng có một số lượng lớn người dân chưa hoặc không đăng ký cư trú, hầu hết là những người nhập cư từ các tỉnh khác đến Thành phố mưu sinh, hoặc sinh sống tạm thời hoặc có thể định cư lâu dài tại đây. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá tình trạng nghèo có sự tham gia lần này4 nhằm tìm hiểu thực chất những vấn đề nghèo phát sinh trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ đang diễn ra tại Thành phố mà các con số thống kê không đo lường được. Với mục tiêu như vậy, nghiên cứu này vừa là một nghiên cứu về vấn đề nghèo đô thị của thành phố Hồ Chí Minh, vừa là một phần của nghiên cứu đánh giá tình trạng nghèo trên cả nước, với khung nghiên cứu được Bộ Kế hoạch Đầu tư, Ngân hàng Thế giới, và Nhóm Hành động chống đói nghèo, các viện nghiên cứu và tổ chức phi chính phủ Việt Nam cùng thực hiện; với công tác thực địa và báo cáo được Nhóm Hành động chống đói nghèo, chính quyền địa phương các cấp, và người dân tại cộng đồng của 12 tỉnh thành thuộc 7 vùng trên toàn quốc cùng đồng loạt tiến hành. Vì vậy, kết quả của nghiên cứu này, cùng với các nghiên cứu Đánh giá Tình trạng nghèo (PPA) khác và Điều tra Mức sống Hộ gia đình 2002, sẽ đóng góp vào báo cáo tiến độ thực hiện Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Giảm nghèo, sẽ được trình bày tại cuộc họp Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ tháng 12 năm 2003, cũng như đóng góp vào bản Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004 của các tổ chức tài trợ. Nói một cách khác, một mặt, kết quả của nghiên cứu này sẽ góp phần nâng cao năng lực cán bộ chính quyền ở cấp tỉnh thành và các cấp thấp hơn nhằm làm cho các quá trình lập kế hoạch địa phương nhận được thông tin dữ liệu tốt hơn nhờ các công trình nghiên cứu phân tích được xây dựng trên nền tảng tham gia mang tính chất đối thoại của người nghèo về chính sách. Mặt khác, kết quả nghiên cứu sẽ được hướng đến việc lấp đầy những khoảng trống phân tích trong Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Giảm nghèo và hỗ trợ tăng cường khung giám sát Chiến lược, đặc biệt về những vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ. 1 5.209 đô‐la Mỹ (sau Bà Rịa Vũng Tàu: 14.470) (Đổi mới và Phát triển Con người ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 2001.) 2 0,796 (sau Bà Rịa – Vũng Tàu 0,835 và Hà Nội 0,798 (Đổi mới và Phát triển Con người ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 2001.) 3 Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 16/10/2003, trang 1. 4 Nghiên cứu Đánh giá tình trạng nghèo có sự tham gia vào năm 1999 (SCUK 1999) và Tham khảo ý kiến cộng đồng về Chiến Lược Toàn Diện về Tăng Trưởng và Xóa Đói Giảm Nghèo (CPRGS) vào cuối năm 2001 (SCUK 2002) đã có một số phát hiện về các khía cạnh nghèo và mối tương quan giữa vấn đề nghèo và di dân. 4
- Phần 1: Giới thiệu Mục tiêu cụ thể Nghiên cứu Đánh giá Tình trạng nghèo này nhằm tìm hiểu quan điểm cấp cơ sở về nguyên nhân và xu hướng nghèo, và phản hồi của người dân nghèo về những nỗ lực thực hiện chính sách hướng về người nghèo như chính sách giảm nghèo, quy chế dân chủ cơ sở, cải cách hành chính, vấn đề di dân và các vấn đề đô thị khác. Cụ thể, đợt nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các vấn đề sau: • nhận thức về nguyên nhân và xu hướng nghèo, động thái nghèo, việc làm, những rủi ro, tính tổn thương • tiến độ tăng cường thực hiện dân chủ cấp cơ sở, đặc biệt là mức độ các hộ nghèo có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào quá trình lập kế hoạch và ngân sách ở địa phương • việc cải cách hành chính diễn ra ở cấp chính quyền địa phương như thế nào • vấn đề về di dân trong bối cảnh đô thị và những vấn đề liên quan. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này là một nghiên cứu Đánh giá Tình trạng nghèo có sự tham gia của người dân (PPA), là một phương pháp không ngừng được công nhận trong thập kỷ vừa qua như là “một công cụ để ghi nhận quan điểm người nghèo trong phân tích vấn đề nghèo và hình thành các chiến lược để giảm nghèo bằng chính sách công”5. Là một PPA, trước hết nghiên cứu này nhằm nâng cao khái niệm và sự hiểu biết về vấn đề nghèo bằng cách tham vấn ý kiến người nghèo về nguyên nhân nghèo, dựa trên đó các chính sách giảm nghèo có thể được thực hiện hiệu quả hơn nhờ xác định những hành động ưu tiên giải quyết các vấn đề mà người nghèo nhận thấy quan trọng. Thứ hai, nghiên cứu nhằm tăng cường sự tham gia của người nghèo, nhờ vậy khuyến khích cơ chế hiệu quả hơn cho việc học hỏi và phản hồi về các kết quả của các chính sách và chương trình. Thứ ba, nghiên cứu cũng nhằm làm sáng tỏ mức độ các chính sách chủ yếu của nhà nước (như Nghị định Dân chủ cơ sở và Cải cách Hành chính) được biết đến và hiểu như thế nào, tác động được người dân cảm nhận của những chính sách này, và mức độ các cơ quan nhà nước khác nhau được người dân tin cậy để phân phối lợi ích6. Dùng các phương pháp và công cụ PPA, nghiên cứu này được thiết kế để bổ sung cho đánh giá nghèo rút ra từ cuộc Điều tra Mức sống Hộ gia Đình của Tổng Cục Thống Kê bằng việc cung cấp những thông tin một nghiên cứu định lượng như cuộc Điều tra không thể thu thập nắm bắt được, như sự đa khía cạnh của tình trạng nghèo, đơn vị phân tích (phân tích các yếu tố nghèo ngoài đơn vị hộ gia đình như tác động của nghèo lên những cá nhân khác nhau về tuổi tác và giới tính trong nội bộ hộ gia đình, hoặc các yếu tố cộng đồng như tiếp cận cơ sở hạ tầng), tính dễ tổn thương và các quá trình động thái. Để đạt được điều trên, nghiên cứu Đánh giá Tình trạng nghèo này dùng một loạt các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội như thu thập thông tin thứ cấp để có được bối cảnh, cơ sở, và đối chiếu các ghi nhận chính; thảo luận nhóm tập trung, quan sát trực tiếp, phân hạng kinh tế hộ gia đình7, phỏng vấn cá nhân không cấu trúc và bán cấu trúc. 5 Norton, Andy. Đánh giá Tình trạng nghèo có sự tham gia của người dân – Lý thuyết và Thực hành. Overseas Development Institute. 2001. 6 ibid. 7 Xem Phụ lục 1. 5
- Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh Dựa trên mục tiêu và phương pháp nghiên cứu trên, cuộc nghiên cứu tình trạng nghèo có sự tham gia của người dân lần này được thực hiện ở Thị trấn An Lạc và Xã Tân Tạo thuộc Huyện Bình Chánh, Phường 4 và Phường 5 Quận 8, là các quận huyện đang đô thị hóa có những đặc điểm và tốc độ phát triển khác nhau. Nghiên cứu thực địa kéo dài hai tuần, từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 8 năm 2003. Ngoài ra còn có các giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu, tập huấn, viết và thông qua báo cáo kết quả nghiên cứu. Trong mỗi phường, xã, hoặc thị trấn, để tham khảo ý kiến người nghèo, có 4 cuộc phân hạng kinh tế hộ, mỗi cuộc có 4 tham dự viên; và có 9 cuộc thảo luận nhóm, mỗi cuộc có khoảng 12 tham dự viên, gồm phụ nữ nghèo địa phương, nam nghèo địa phương, phụ nữ nghèo nhập cư, nam nghèo nhập cư (ở độ tuổi từ 35‐55), thanh niên nam nữ nghèo địa phương và thanh niên nam nữ nghèo nhập cư (ở độ tuổi 18‐25), thiếu nhi nghèo địa phương và thiếu nhi nghèo nhập cư (ở độ tuổi 12‐16 tuổi), và chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương. Tương tự ở cấp quận huyện, thông tin và ý kiến được thu thập qua các buổi thảo luận nhóm với chính quyền quận huyện và chủ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mỗi nhóm khoảng 12 người tham dự. Tổng cộng toàn đợt nghiên cứu có 16 cuộc phân hạng kinh tế hộ, 41 cuộc thảo luận nhóm, và 20 cuộc phỏng vấn sâu các trường hợp điển cứu với 457 người tham dự, được phân chia theo lứa tuổi, giới tính, và vị trí xã hội như sau (xem phụ lục 2): • Theo tuổi: 271 người lớn (35‐55 tuổi), 92 thanh niên (18‐25 tuổi), và 94 trẻ em (12‐16 tuổi) • Theo giới: 223 nữ và 234 nam • Theo vị trí xã hội: 70 cán bộ chính quyền, 17 đại diện doanh nghiệp nhỏ và vừa, và 370 người dân địa phương (trong đó 193 người thuộc diện KT1 và KT2, 177 người thuộc diện KT3 và KT4) • Theo dân tộc: Đại đa số tham dự viên là người Kinh. Chỉ có một số rất ít (11 người) là người Hoa, và một (01) người là dân tộc thiểu số (Tày). Tổng số thành viên tham gia nghiên cứu gồm 47 người từ các tổ chức chính quyền, đoàn thể, các cơ quan nghiên cứu và giáo dục, được điều phối bởi tổ chức phi chính phủ là Tổ chức Cứu Trợ Trẻ Em Anh (SCUK). Trong số này có 5 người là nghiên cứu viên của phía SCUK, 9 người từ các viện nghiên cứu và trường đại học, cao đẳng; 15 người là cán bộ chính quyền, ban ngành, đoàn thể địa phương 3 cấp (thành phố, quận/ huyện, phường/ xã/ thị trấn) đã tích cực tham gia như là các nghiên cứu viên chính thức (xem Phụ lục 3). Trung bình mỗi quận/ huyện có 3 cán bộ quận/ huyện và một số cán bộ phường/ xã/ thị trấn tham gia hỗ trợ thảo luận nhóm bằng cách cùng hướng dẫn thảo luận hoặc ghi biên bản. Ngoài ra, các tổ trưởng và trưởng ban nhân dân khu phố/ ấp đã tích cực hỗ trợ xác định người dân nghèo tham gia phân hạng kinh tế hộ, thảo luận nhóm, phỏng vấn trường hợp điển cứu để nhóm nghiên cứu thu thập ý kiến và ghi nhận thông tin. 6
- Phần 1: Giới thiệu Phạm vi và hạn chế của nghiên cứu Là một PPA, nghiên cứu này không nhằm đưa ra một bức tranh tổng thể về sự phát triển kinh tế xã hội của TPHCM, cũng không nhằm đánh giá việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, một chương trình đã đạt được nhiều thành tựu đầy sức thuyết phục trong thập kỷ qua. Mục tiêu nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các khía cạnh của thực trạng nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2003 cũng như nêu bật những thách thức còn tồn tại trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân bằng nhiều biện pháp và phương thức phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo được khẳng định trong Chiến lược Toàn diện về Tăng trưởng và Giảm nghèo. Tham gia nghiên cứu này có 370 người dân địa phương nghèo (người lớn, thanh niên, và trẻ em), trong số 1.248 hộ nghèo (được chương trình Xóa đói Giảm nghèo xác định) tại các phường, xã, thị trấn nơi nghiên cứu được tiến hành. Vì vậy, để đảm bảo các kết luận được xác thực, đáng tin cậy và không thiên kiến, các phương pháp so sánh đối chiếu thông tin dữ liệu được áp dụng để đưa ra thực tiễn, kinh nghiệm, ưu tiên và cảm nhận đại diện của người nghèo. Bố cục của báo cáo Báo cáo này được chia làm 6 phần. Phần 1 giới thiệu chung về mục tiêu, địa điểm, phương pháp và thành phần tham gia nghiên cứu. Các phần sau viết về bối cảnh của các địa bàn nghiên cứu thuộc TPHCM (Phần 2) và các thông tin liên quan đến nhận thức về nghèo (Phần 3), sự tham gia và trao quyền (Phần 4), cải cách hành chính (Phần 5), di dân và các vấn đề đô thị khác (Phần 6). Để tiện cho độc giả tham khảo, có một phần tóm tắt báo cáo (trang 1‐3), và ở đầu mỗi phần (từ Phần 3 đến 6) có phần tóm lược các thông tin ghi nhận chính. 7
- Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu Huyện Bình Chánh Huyện Bình Chánh nằm phía tây nam Thành phố Hồ Chí Minh, nối liền Thành phố với Đồng bằng Sông Cửu Long bằng Quốc lộ 1. Huyện Bình Chánh có tổng diện tích 30.458 héc‐ta, trong đó có khoảng 20.000 héc‐ta đất nông nghiệp và 3.000 héc‐ta đất thổ cư. Huyện Bình Chánh có 1 thị trấn và 19 xã. Huyện có một (01) Trung tâm y tế, 3 phòng khám khu vực, 25 trường mẫu giáo, 53 trường tiểu học và phổ thông cơ sở, 4 trường phổ thông và trung học cơ sở, một (01) trường đặc biệt bán tập trung cho trẻ khuyết tật, một (01) Trung tâm Dạy nghề (một cơ sở chính và 4 cơ sở phụ) trực thuộc Phòng Lao Động Thương Binh Xã hội), một (01) Trung tâm Giáo dục Thường xuyên. Quá trình phát triển kinh tế và xã hội mạnh mẽ bắt đầu diễn ra tại Huyện Bình Chánh từ giữa những năm 1990. Quá trình này đã thu hút một làn sóng người nhập cư từ các quận huyện cũng như tỉnh thành khác đến. Hiện tại có 4 khu công nghiệp và khoảng 900 xí nghiệp và doanh nghiệp (ngoài ra còn có hơn 11.000 hộ kinh doanh cá thể) hoạt động trên địa bàn Huyện, đa số tập trung vào một số xã như Tân Tạo, Lê Minh Xuân, Vĩnh Lộc A, và Thị trấn An Lạc. Vì vậy, dân số tăng trưởng với tốc độ hết sức nhanh, đến mức chính quyền địa phương cho rằng họ khó có thể đưa ra một con số thống kê chính xác về số lượng những người chưa/ không có hộ khẩu thường trú. Theo thống kê vào tháng 8 năm 2003, có 43.733 hộ gồm 461.647 người cư trú tại Huyện Bình Chánh. Trong số này 182.449 người không có hộ khẩu thường trú (78.844 diện KT3 và 103.605 diện KT4) (xem Phụ lục 4 về các loại hình thức cư trú đối với quản lý hành chính: KT1, KT2, KT3, và KT4). Sự tăng trưởng dân số, đặc biệt là số không có hộ khẩu thường trú đã tăng lên rất nhanh. So với thống kê điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999, dân số đã tăng thêm khoảng 130.000 người (Bảng 1). Thị trấn An Lạc Thị trấn An Lạc có diện tích 600 héc‐ta, trong đó khoảng 170 héc‐ta đất thổ cư gồm 7 khu phố và 185 tổ dân phố. Nằm dọc theo Quốc lộ 1 và là cửa ngõ vào đồng bằng sông Cửu Long, thị trấn này đã chứng kiến quá trình đô thị hóa từ những năm 1980, sớm hơn khá nhiều so với những xã còn lại của Huyện, khi các xí nghiệp và cơ sở kinh doanh bắt đầu phát triển. Từ đó, quá trình đô thị hóa ở đây tiếp tục diễn ra cùng với quá trình đô thị hóa của Huyện Bình Chánh, làm cho dân số thị trấn cũng tăng nhanh tương ứng. Hiện nay thị trấn có 7.962 hộ với dân số 47.920 người, trong đó khoảng 16.000 (tức một phần ba) người không trong diện đăng ký thường trú. Trong số này, đáng chú ý là gần 10.000 nhân khẩu thuộc diện KT4 chỉ được ghi nhận như là nhân khẩu chứ không được phân loại là hộ như các diện cư trú khác (KT1, KT2, KT3). Xã Tân Tạo Xã Tân Tạo là một trong những xã có diện tích lớn nhất của Huyện Bình Chánh (1.738 héc ta), với khoảng 70 héc ta đất thổ cư với 4 ấp và 158 tổ dân phố Tân Tạo cũng là một trong 4 xã có tiến trình đô thị hoá nhanh và mạnh nhất trong huyện. So với Thị trấn An Lạc, sự gia tăng dân số của Tân Tạo đột biến hơn nhiều. Đến nay, Tân Tạo có 61.023 cư 8
- Phần 2: Địa điểm Nghiên cứu dân với khoảng hai phần ba (2/3) (khoảng 40.000) thuộc diện đăng ký KT3 và KT4. Cũng như ở Thị trấn An Lạc, trong số này, khoảng 35.000 nhân khẩu diện KT4 chỉ được ghi nhận như là nhân khẩu. Có sự gia tăng dân số cao đột biến như vậy là do trên địa bàn xã các khu công nghiệp và các xí nghiệp, doanh nghiệp lớn, nhỏ, và vừa liên tục thành lập và đi vào hoạt động trong vòng 5 năm qua. Theo số liệu thống kê mới nhất của UBND huyện, hiện tại xã có 3 khu công nghiệp và 116 xí nghiệp lớn mới thành lập. Bảng 1. Dân số Huyện Bình Chánh, Thị trấn An Lạc và Xã Tân Tạo. Huyện Bình Chánh Thị trấn An Lạc Xã Tân Tạo Diện tích (héc-ta) 30,458 600 1,738 Dân số 461,6478 47,9209 61,02310 - Có thường trú tại TPHCM (KT1 + KT2) 279,198 31,944 21,501 - Không có thường trú (KT3 + KT4) 182,449 15,976 39,522 (40%) (33%) (65%) Mức độ tăng trưởng dân số (so với 129,558 9,911 38,940 Tổng điều tra dân số 1/4/1999) (28%) (21%) (64%) Dân tộc Kinh11 95.5% 88.9% 97.0% Dân tộc Hoa12 4.3% 10.9% 2.8% Dân tộc khác13 0.2% 0.2% 0.2% * Lưu ý: các con số thống kê không hoàn toàn tương ứng do lấy từ vài nguồn khác nhau Quận 8 Quận 8, nằm ở phía tây nam TPHCM, cũng là một địa bàn gắn với cửa ngõ vào Đồng Bằng Sông Cửu Long nhờ một số tuyến đường và quốc lộ mới xây dựng và mở rộng (Bắc Nhà Bè – Nam Bình Chánh). Đặc điểm địa lý của Quận 8 khác hơn nhiều quận huyện khác là có nhiều hệ thống sông rạch và kênh đào nhỏ, chằng chịt, chiếm khoảng 14% của tổng diện tích toàn quận là 18,8 km2. Trải qua quá trình đô thị hoá nhanh chóng, Quận 8 đã giảm hẳn số phường nông nghiệp, từ 4 (trên tổng số 16 phường) cách đây vài năm, nay không còn phường nông nghiệp nào; toàn bộ 16 phường đã trở thành phường bán nông nghiệp. Quận 8 có một Trung tâm Y tế mới xây dựng, 17 trường mẫu giáo, 18 trường tiểu học, 11 trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học, một trường đặc biệt cho trẻ khuyết tật, một trung tâm giáo dục thường xuyên, và một trường dạy nghề. Dân số có đăng ký (thường và tạm trú) của Quận 8 là 538.547 người, trong số đó 89% là người Kinh, 10,39% là người Hoa, 0,44% người Chăm, và 0,17% người Khơ‐me và 8 Số liệu do công an địa phương cấp 14/8/2003. 9 Số liệu UBND cấp tháng 8/2003. 10 Số liệu do công an địa phương cấp 29/8/2003. 11 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999. 12 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999. 13 Số liệu theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999. 9
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sự cần thiết khách quan và giải pháp phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
21 p |
668 |
259
-
Đánh giá nghèo theo vùng: Vùng đồng bằng sông Cửu Long
97 p |
320 |
177
-
Bài giảng " Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia "
6 p |
454 |
120
-
Sự tham gia của Cộng đồng trong Giao thông Nông thôn - Chương trình tiếp cận Cộng đồng Đông Nam Á SEACAP 15
86 p |
381 |
108
-
Tham gia TPP - Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay
10 p |
121 |
58
-
Bài giảng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và sự tham gia của Việt Nam
21 p |
88 |
33
-
SỰ cần thiết phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN - 1
8 p |
111 |
29
-
Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Đồng bằng sông Cửu Long
71 p |
72 |
22
-
Sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam
34 p |
62 |
18
-
Bài giảng Thẩm quyền của hội đồng nhân dân trong quy trình ngân sách - PGS.TS. Đặng Văn Thanh
38 p |
43 |
15
-
Khuôn khổ Hỗ trợ phát triển của Liên Hiệp Quốc cho nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (UNDAF) - Giai đoạn 2006 - 2010
37 p |
78 |
13
-
Các tổ chức kinh tế trên địa bàn cấp xã và vai trò của nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Sự tham gia của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới
24 p |
29 |
13
-
TÍNH TẤT YẾU CHUYỂN ĐỔI TỪ NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
24 p |
50 |
10
-
Pháp luật đảm bảo sự phát triển của gia đình ở Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện
13 p |
38 |
8
-
Cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai qui mô nhỏ và những đề xuất trong quản lý đầu tư
8 p |
23 |
3
-
THAM LUẬN CỦA CHUYÊN GIA TƯ VẤN PIM - TA – MWH
0 p |
24 |
2
-
Lập kế hoạch phát triển KT-XH có sự tham gia tại huyện Bác Ái tỉnh Ninh Thuận
15 p |
19 |
2