intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài “Đạo đức cách mạng và những suy nghĩ về đạo đức của người lãnh đạo trong tương lai”

Chia sẻ: Nguyễn Hoàng Giang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

180
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo bài viết 'đề tài “đạo đức cách mạng và những suy nghĩ về đạo đức của người lãnh đạo trong tương lai”', luận văn - báo cáo, khoa học xã hội phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài “Đạo đức cách mạng và những suy nghĩ về đạo đức của người lãnh đạo trong tương lai”

  1. LỜI NÓI ĐẦU  Lý do chọn đề tài: Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời di huấn dặn dò về Đảng, và vấn đề đạo đức cách mạng: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Cả cuộc đời của mình, Người đã tự thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức cách mạng; Người vừa là nhà lý luận đạo đức cách mạng, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng gần gũi và độc đáo nhất. Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: "Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Và theo cách diễn đạt bình dị của Người: Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người, sức có mạnh mới gánh được nặng, và đi được xa. Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta tiến hành s ự nghiệp vĩ đ ại giải phóng và thống nhất đất nước, Người đã khái quát và cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Người cũng thường xuyên nhấn mạnh: "Đảng phải là đạo đức, là văn minh", cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng phải vừa hồng vừa chuyên, hội tụ đủ đức tài, đức là gốc; phải có sự trung với nước, và hiếu với dân. Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, công chức đối với Bác kính yêu - một con người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Và Trong không khí tiếp tục cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", nhắc lại và cùng nhau phân tích tác phẩm quan trọng này của Người có ý nghĩa lý luận và
  2. thực tiễn rất lớn, để ôn lại lời dạy của Người góp phần thúc đẩy cuộc vận đ ộng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta làm cho Đảng ta thêm vững mạnh, xã hội thêm lành mạnh, tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội nào cũng có cách phân định thiện - ác, tốt - xấu, vinh - nhục... Những phạm trù đó có những tiêu chí giống nhau nhưng có những khác nhau của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, của mỗi dân tộc trong từng giai đoạn phát triển, hình thành hệ giá trị cốt lõi của văn hoá mỗi dân tộc, chủ yếu để định hướng phát triển của xã hội và là tiêu chí để bình xét, đánh giá các hiện tượng và con người. Nên nhóm em chọn đ ề tài: “Đạo đức cách mạng và những suy nghĩ về đạo đức của người lãnh đạo trong tương lai” để nghiên cứu.  Ý nghĩa của việc nghiên cứu: Hầu hết chúng ta thường hình dung rằng mình có thể đưa ra những quyết định sáng suốt, có những phán đoán khách quan và vô tư trong công việc. Theo cách nói của nhà tâm lí học David Armor. Những gì thuộc về vô thức rất có thể mâu thuẫn với ý thức của chúng ta. Chúng ta có thể cho rằng một quyết định tuyển chọn người lao động là khách quan và đúng đắn hoặc cho rằng chúng ta hoàn toàn vô t ư trong công việc lãnh đạo. Tuy nhiên, những quyết định dường như khách quan của những nhà lãnh đạo có uy tín nhất cũng có thể bị chi phối bởi những suy nghĩ và những tình cảm vô thức. Điều đó thường ảnh hưởng đến việc tuyển dụng và khuyến khích nhân tài, việc động viên các cá nhân và các đơn vị trong sản xuất kinh doanh và việc hợp tác với các đối tác. Bài viết này sẽ đề cập đến một số y ếu tố tiêu c ực vô th ức ảnh hưởng tới công việc của người lãnh đạo khiến các quyết định đưa ra không thật sự mang tính khách quan và do đó hiệu quả của các hoạt động chung cũng bị giảm sút. Việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp các nhà lãnh đạo tương lai có những quy ết đ ịnh sáng suốt để trở thành một nhà lãnh đạo giỏi, có đạo đức tốt. Vì hiện nay, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và c ần thiết, khi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang đ ạt đ ược những thành tựu to lớn. Yêu cầu nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng đang đặt ra cho cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiều thử thách trước những vấn đề mới đầy khó
  3. khăn và phức tạp. Cuộc sống vẫn vận hành, diễn biến theo những quy luật tất y ếu với những đan xen giữa cái tích cực và tiêu cực; giữa tiến bộ và bảo thủ, l ạc hậu; giữa thời cơ và thách thức; giữa những giá trị chân chính, cao cả với những cám dỗ nhỏ nhen, thấp hèn. Trong khi đa số cán bộ, đảng viên vẫn giữ được uy tín, đạo đức cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, đang hằng ngày, hằng giờ lao động sáng tạo, đóng góp sức lực và tài năng cùng nhân dân phấn đấu xây dựng đất nước, vẫn còn một bộ phận không nhỏ “suy thoái về tư tưởng chính tr ị, phẩm chất đạo đức và lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”. Trong lúc toàn Đảng, toàn dân ta đang tập trung trí tuệ, sức lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cải thiện đời sống nhân dân thì vẫn còn những kẻ rắp tâm thực hiện mưu đồ phá hoại đen tối, còn những người tha hóa, biến chất, cơ hội cố tình xuyên tạc tình hình, chống phá sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước của chúng ta. Trước sứ mệnh to lớn của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước, yêu cầu đổi mới về công tác cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sau khi nghiên cứu đề tài chúng ta sẽ tìm được những hướng đi mới giúp rèn luyện và nâng cao đ ạo đ ức cách mạng cho những nhà lãnh đạo tương lai.
  4. NỘI DUNG PHẦN 1- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM :ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHƯƠNG I: NGƯỜI CÁCH MẠNG PHẢI CÓ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG LÀM NỀN TẢNG 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập ĐCS Việt Nam Tác phẩm lúc đầu là "Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng" nhưng khi đưa cho một số đồng chí góp ý kiến thì Bác sửa lại như đã công bố; tuy sửa lại theo ý kiến đóng góp là: “Đạo đức cách mạng” nhưng Bác vẫn nói rằng: lúc này phải nhổ cho sạch cỏ thì cây cối mới mọc lên được. Trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, mà còn đề cập đến một phương diện khác, đó là xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Bác Hồ đã mở rộng nội hàm về công tác xây dựng Đảng bao gồm chính trị, tư tưởng, tổ chức và về đạo đức, lối sống. Đây là đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt lý luận trong công tác xây dựng Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin. Cùng với hệ giá trị của mỗi dân tộc, lại có chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa ràng buộc với những ai ở trong cộng đồng đó. Đạo đức cách mạng là chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng, có những tiêu chí chung và nhất quán như sự hy sinh vì lý tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần hết lòng phụng sự Tổ quốc, nhân dân... đồng thời lại có những yêu cầu riêng của từng thời kỳ cách mạng. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Ngay trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" tập hợp những bài giảng cho lớp thanh niên tiến bộ chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã đề cập các nội dung về đạo đức của người chiến sĩ cách mạng. Khi cách mạng thành công, Đảng lãnh đạo chính quyền, đảng viên có nhiều cơ hội có địa vị, quyền hành, Hồ Chủ tịch lại đặc biệt quan tâm việc giáo dục cán bộ, đảng viên mà có tác giả nước ngoài đã đánh giá là vị lãnh tụ quan tâm nhất tới việc giáo dục đạo đức của cán bộ cầm quyền. Người đã nhìn ra bệnh "quan cách
  5. mạng" có thể phát triển, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tránh các bệnh địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, hẹp hòi, quân phiệt quan liêu, ham chuộng hình thức, làm việc bàn giấy xa rời nhân dân, bệnh kiêu ngạo tự mãn vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hoá, "óc đ ịa vị, cố tranh cho được uỷ viên này, chủ tịch kia", chỉ "lo ăn ngon mặc đ ẹp, lo chiếm của công làm của tư", "giữ thói một người làm quan cả họ được nhờ, đem bà con bằng hữu đặt vào chức này, việc kia", rồi "không phê bình giúp nhau sửa đổi, mà lại che đậy cho nhau", làm hỏng việc của đất nước, làm mất niềm tin của nhân dân. Theo Người, cán bộ, đảng viên phải là người vừa có đức vừa có tài nhưng đức là gốc vì "Trước mặt quần chúng, không phải ta viết lên trán hai chữ "cộng sản" mà ta được họ mến. Quần chúng chỉ yêu quý những người có tư cách, đạo đức"; "Muốn hướng dẫn quần chúng phải làm mực thước cho người ta bắt chước, hô hào nhân dân tiết kiệm thì mình phải tiết kiệm trước đã"...Rèn luyện đạo đức cách mạng là để làm cách mạng, làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao, để xứng đáng là công bộc của dân. Trong tác phẩm "Đạo đức cách mạng", sau khi nêu rõ "thói quen và l ạc hậu cũng là do kẻ địch to, nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ" cho nên phải đ ổi mới, Hồ Chủ tịch đề cập kẻ địch thứ hai là chủ nghĩa cá nhân. Tác phẩm "Nâng cao đ ạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" tập trung đề cập "kẻ thù thứ hai" mà Người cho là mẹ đẻ ra các thói hư tật xấu của cán bộ, đảng viên khi Đảng cầm quyền. Người cho rằng, người mắc chủ nghĩa cá nhân thì "việc gì cũng nghĩ tới l ợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình". Tuy nhiên, khi chỉ ra phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thì Hồ Chủ tịch lại nói: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân", "mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với tập thể thì không phải là xấu". Khi nói về tác hại của chủ nghĩa cá nhân, Người nhấn mạnh: "Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh, trục lợi, tham địa vị, quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không
  6. chịu học tập tiến bộ... Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đường l ối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân". 2. Tư cách một người kách mệnh Có thể nêu ra một số chuẩn mực cơ bản về đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người, như sau: - Bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn Đường Kách Mệnh, Người chỉ đề ra những nguyên lý chung thể hiện mối quan hệ giữa ba khía cạnh, phản ánh mối quan hệ đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà người cách mạng cần quán triệt trước tiên, đồng thời nêu cao việc tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã đ ề ra những nguyên tắc về hành vi đạo đức cách mạng đối với người có chức, có quy ền trong Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, Người đề nghị: “Mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” để “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”. Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này gắn liền với họat đ ộng hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. - Người đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cá nhân và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại tạo ra trong quan niệm về đạo đ ức cách mạng sự hài hòa về các mối quan hệ lợi ích. Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng thực chất là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người cho rằng nếu tinh thần yêu nước không chân chính, tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc. Từ rất sớm, Người đã chủ trương quan hệ với các quốc gia dân tộc và các tổ chức trên thế giới để thêm bạn, bớt thù. Quan điểm dân tộc đã được thổi vào thời đại, đã vượt qua biên giới quốc gia, hướng tới mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa
  7. bình, hữu nghị và hợp tác.Cần nhấn mạnh là tuy có những cách định nghiã khác nhau về nội hàm các khái niệm đạo đức cách mạng, nhưng nhìn chung ở Người đều có sự nhất quán về tinh thần cách mạng và phương pháp tư duy. Từ các khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, đ ến cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; từ trung, hiếu, đến thiện, ác... bao giờ Người cũng có cách giải thích riêng về những chuẩn mực đạo đức phù hợp dễ hiểu, dễ chấp nhận với từng đối tượng, với mọi tầng lớp nhân dân: trí thức, quân đội, công an, công nhân, nông dân, phụ nữ, phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đ ồng... Đ ề cao đạo đức mới, Người đã thể hiện một tầm nhìn xa trông rộng về nhân cách con người. Những phẩm chất mà Người nêu ra là nhằm hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái cao cả, đồng thời ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện thoái hóa, biến chất có thể xảy ra, đặc biệt là chống khuynh hướng lạm dụng quyền lực để tham nhũng, lãng phí. Ngay cả trước khi qua đời, việc đầu tiên được đề cập đến trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân là nói về Đảng, việc đầu tiên khi đề cập đến Đảng là đạo đức, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” Ngoài ra Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Bác đã nêu "Tư cách một người cách mạng" ở mục đầu tiên. Bác đề cập đạo đức cách mạng trong 3 mối quan hệ: Tự mình, đối với người, đối với việc. Tư cách một người kách mệnh: + Tự mình phải: - Cần kiệm - Hoà mà không tư - Cả quyết sửa đổi mình - Cẩn thận mà không nhút nhát - Nhẫn nại (chịu khó) - Hay nghiên cứu, xem xét - Vị công, vô tư - Không hiếu danh, không kiêu ngạo
  8. - Nói thì phải làm - Giữ chủ nghĩa cho vững - Ít lòng tham muốn về vật chất - Bí mật. + Đối với người phải: - Với từng người thì khoan thứ - Với đoàn thể thì nghiêm - Có lòng bày vẽ cho người - Trực mà không táo bạo - Hay xem xét người. + Làm việc phải: - Xem xét hoàn cảnh kỹ càng - Quyết đoán - Dũng cảm - Phục tùng đoàn thể. Theo Bác, muốn làm cách mạng thắng lợi thì người cán bộ cách mạng phải có đạo đức. Vì sự nghiệp cách mạng rất to lớn và bao giờ cũng khó khăn, đòi h ỏi s ự kiên trì phấn đấu lâu dài của mỗi cá nhân và toàn Đảng. Vì vậy, nếu người cách mạng không có đạo đức thì khó có sức chịu đựng dẻo dai và không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. 3. Phẩm chất cơ bản của người cách mạng Bác từng nói: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”. “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè lùi bước…”, “khi gặp thuận lợi và thành công nhưng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn”, “lo tr ước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn c ựa v ề mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
  9. Bác Hồ thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng: “Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho quyền lợi của dân tộc”. Bác yêu cầu người cách mạng phải thấy rõ điều đó và phải phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cao cả và sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. Trong bài viết về đạo đức cách mạng năm 1958, Bác nêu rõ bản chất và nội dung của đạo đức cách mạng, đ ồng thời cũng nêu rõ những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trong bài viết này, Bác nêu 5 phẩm chất đạo đức mà cán bộ, đảng viên phải phấn đấu rèn luyện, gìn giữ. Đó là: - Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. - Là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng. - Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. - Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. - Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Đó là phẩm chất cơ bản mà Bác Hồ đòi hỏi người cách mạng phải để làm nền tảng. CHƯƠNG II: NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN Đi sâu nghiên cứu di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Bác có những lời dặn dò về những chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối tượng, từ cán bộ, đảng viên, nông dân, trí thức, công an, bộ đội, cho đ ến văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên. Ở đây, chúng ta đi sâu nghiên cứu những chuẩn mực của nền đạo đức cách mạng, mà Bác Hồ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải xây dựng: 1. Trung với nước, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu suốt đời hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội Xét về mối quan hệ của đạo đức thì Bác Hồ đặt ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ giữa dân với nước, giữa nhân dân với tổ quốc. Đây là mối quan hệ chi phối tất cả các mối quan hệ khác. Chính vì vậy, Bác Hồ đặt phẩm chất trung với nước, hiếu
  10. với dân là phẩm chất hàng đầu của người đảng viên. Trung hiếu là khái niệm thuộc đạo đức truyền thống nhưng được Bác Hồ vận dụng theo quan điểm mới phù hợp với hoàn cảnh mới của lịch sử. Theo quan điểm Bác Hồ, “trung với nước, hiếu với dân” có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì “dân là dân của nước, nước là nước của dân”. Nghĩa là nhân dân là chủ của đất nước. Còn theo quan điểm của đạo đức phong kiến, coi nước là của vua, vua là người quyết định tất cả, còn dân chỉ có nhiệm vụ làm tôi trung theo quan điểm “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” (Vua xử tôi phải chết thì tôi phải chết, không tuântheo lệnh vua là tôi không trung thành). Rõ ràng, quan điểm của Bác hoàn toàn khác hẳn với quan niệm của đạo đức phong kiến. Bác Hồ chỉ rõ: “Trung là trung với tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân”. Và cũng chính Người là biểu tượng cao đẹp thể hiện phẩm chất này. Suốt cuộc đời vì dân, vì nước. Đến khi chuẩn bị vĩnh biệt thế giới này Bác cũng tính toán sao cho khỏi tốn kém thì giờ và ti ền bạc của nhân dân đối với việc riêng của mình. Bác khẳng định: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích nước, lợi dân”. Còn “hiếu với dân” được Bác cụ thể hóa bằng chủ trương “Đảng và Chính phủ là đày tớ của nhân dân”, “chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”. Bác còn chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đ ến đ ời sống c ủa nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng ta và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”. Bác dạy rằng cán bộ các cấp đ ều là “công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho dân”. Và, “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Phẩm chất trung với nước, hiếu với dân được coi là hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. 2. Yêu thương, quý trọng con người Qua nghiên cứu, chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Bác Hồ đã xác đ ịnh phẩm
  11. chất yêu thương, quý trọng con người là một trong những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cách mạng cao đẹp nhất của người đảng viên. Lòng yêu thương con người của Bác Hồ trước hết là dành cho đại đa số nhân dân lao động, người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột trên hành tinh chúng ta. Tình yêu thương con người của Bác thật bao la. Tình yêu thương con người đối với đồng bào mình, Bác Hồ chỉ có một ham muốn duy nhất là: “Tôi chỉ có một ham muốn duy nhất, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta đ ược hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đối với Bác Hồ, cả cuộc đời chỉ vì dân, vì nước không có gì lớn lao và quý báu hơn dân v ới nước. Thương yêu dân tộc mình, thương yêu con người. Bác từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha s ự hiểm nghèo, là vì mục đích đó”. Tấm lòng yêu thương con người của Bác Hồ còn được thể hiện rõ trong quan hệ đồng chí, đồng đội, anh em. Nhưng đối với bản thân mình Bác đòi hỏi phải nghiêm khắc, nhưng đối với bạn bè, đồng chí phải rộng rãi, đòi hỏi tất cả mọi người ph ải có sự tôn trọng con người, tôn trọng lẫn nhau. Đối với cán bộ, đảng viên, Bác dạy học chủ nghĩa Mác-Lênin là để thương yêu nhau hơn. Bác nói: “Học chủ nghĩa Mác- Lênin là để sống với nhau cho có nghĩa, có tình”. Đối với Bác chỉ có nâng con người lên, chứ không cho phép hạ thấp, vùi dập con người xuống, dù cho họ có khuyết điểm, thiếu sót. Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm tích cực, hạn chế những tiêu cực để mỗi người,ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho Đảng, cho đất nước. Và, Bác khuyên mọi người trong tự phê bình phải thẳng thắn, chân thành để giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Bác dạy “Ở đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. Đối với Đảng, Bác đòi hỏi “Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp cho họ học tập thêm, tiến bộ thêm”. Tình thương yêu con người, thương yêu nhân dân của Bác càng thể hiện rõ hơn trong Di chúc của Bác. Trong Di chúc, Bác căn dặn Đảng và Chính phủ thực hi ện công việc đầu tiên trong hàn gắn vết thương sau chiến tranh là “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Đầu tiên là đối với cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh
  12. niên xung phong; đối với các liệt sĩ; với cha, mẹ, vợ, con thương binh, li ệt sĩ; v ới phụ nữ, nông dân…. cuối cùng là những nạn nhân của chế độ cũ…Bác không bỏ xót đối tượng nào cả, thể hiện một tấm lòng thương yêu đối với tất cả mọi người. 3. Cần, kiệm, liêm, chính Đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” theo Hồ Chí Minh là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Đây là những đức tính mà bản thân mỗi cán bộ, đảng viên lấy đó để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện trong mọi hoạt động. Cần kiệm, liêm, chính - cũng là phẩm chất của đạo đức truyền thống, nhưng được Bác Hồ đưa vào những nội dung theo yêu cầu mới, khác cơ bản về đối tượng thực hiện. Trong chế độ phong kiến cũng nêu những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, nhưng họ bắt nhân dân thực hiện để phục vụ cho quyền lợi của họ, chứ giai cấp phong kiến không bao giờ thực hiện. Còn đối với Bác Hồ, đề ra cần, kiệm, liêm, chính là bắt buộc cán bộ, đảng viên phải làm gương thực hiện để nhân dân noi theo, đem lợi ích cho dân, cho nước. Tháng 3-1947, do nhu cầu “kháng chiến, kiến quốc” Bác kêu gọi thi đua xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích rất rõ, dễ hiểu. Tháng 6-1949, để tiếp tục răn dạy cán bộ về đạo đức, Bác viết tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”. Bác coi bốn đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” là những đức tính của người cán bộ cách mạng, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Bác viết: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, kiệm. liêm, chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người". Sau đó, Bác còn viết bốn bài báo đăng trên báo Cứu quốc giải thích rõ nội hàm bốn đức tính này. Trước hết, nói về cần: “Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân.” Bác yêu cầu mọi người phải cần, cả
  13. nước phải cần, Bác viết: “Người siêng năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh. Cả nước siêng năng thì n ước mạnh giàu.” Tóm lại, cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đ ời. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. Nhưng không phải quá trớn, phải biết nuôi dưỡng tinh thần và s ức lực để làm việc cho lâu dài. Bác cho rằng “lười biếng là kẻ địch của cần”, vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc. - Nói về Kiệm: Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to, tới cái nhỏ. Kiệm là không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi. Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đ ời sống trong công tác. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng ấy” cũng như cái thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. Bác yêu cầu “phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm”. Vì “dân đủ ăn, đủ mặt thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ đễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”. Cho nên, Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì không tiến tức là thoái. Nhưng tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải “xem đồng tiền bằng cái nống” gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải ép bộ đội, nhân dân nh ịn ăn, nh ịn mặc; nhưng khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một giờ mà kéo dài hai, ba giờ là xa xỉ. Cán bộ, đảng viên ăn sang, mặc đẹp trong lúc đồng bào còn nghèo, thiếu cơm, thiếu áo là xa xỉ. Vì vậy, xa xỉ là có tội với tổ quốc, với đồng bào. - Nói về “liêm”, Bác viết: “Những người ở các công sở từ làng cho đến Chính phủ trung ương đều tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ hoặc khoét đục của nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vậy những người trong công sở phải lấy liêm làm đầu”. “Liêm
  14. là trong sạch, không tham lam”, “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”, “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tâng bốc mình”. Trong các bài viết khác, Bác viết: “Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm, cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có liệm mới liêm được”. Và, Bác dẫn lời Khổng Tử nói: “Người mà không liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”. - Nói về chính, Bác viết: “Một người phải cần, kiệm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc, song, những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà, là người ác. Siêng năng (cần), tiết ki ệm (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện; còn lười biếng, xa xỉ, tham lam là ác, là tà. Bác còn dặn: “Mình là người làm việc cần phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quy ền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bố họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng”. Chính còn có nghĩa là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để công lên trên lên trước việc tư. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng phải tránh”. Theo Bác Hồ thì, c ần, kiệm, liêm, chính là những đức tính không thể thiếu đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì “cán bộ các cơ quan, đoàn thể; cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”. “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ được cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên tai hại, biến thành sâu mọt của dân”. Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc. “Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc văn minh, tiến bộ”. Người cán bộ giữ được cần,
  15. kiệm, liêm, chính là người chí công, vô tư là chính tâm, thân dân - là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của tổ quốc, của Đảng lên trên hết. PHẦN 2 –NHỮNG SUY NGHĨ VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG 1. Những suy nghĩ về đạo đức cách mạng Đọc lại tác phẩm “đạo đức cách mạng” trước những yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong hoàn cảnh, điều kiện mới, chúng ta thấy rằng tư tưởng của Bác về đạo đức của người cán bộ, đảng viên vẫn còn nguyên giá trị, nóng hổi tính thời sự, tính cách mạng và tính chiến đấu của người cộng sản, tiếp tục soi sáng cho công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và xây dựng Đ ảng trong giai đoạn mới. Trước hết, đó là những chuẩn mực tạo nên một hệ giá trị về đạo đức gắn bó và kế tục truyền thống dân tộc. Nó bao trùm và xuyên suốt trong cả quá trình đ ấu tranh, lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Đạo đức cách mạng của từng cán bộ, đảng viên tích hợp thành đạo đức của Đảng và nó không hề thuần tuý là một phép cộng mà là từ một cái “gốc”, một “nền tảng”, tạo ra một “sản phẩm văn hoá” của một dân tộc trong quá trình lịch sử, để nhân lên thành uy tín, thành s ức mạnh, năng l ực lãnh đạo xã hội của Đảng. Thứ hai, đạo đức của người cán bộ, đảng viên không phải ngẫu nhiên mà có. Nó được hình thành từ bản chất giai cấp, tính chất dân tộc, mục đích cao c ả c ủa cách mạng và trưởng thành qua rèn luyện, tu dưỡng thường xuyên trong cuộc đấu tranh cho lý tưởng của Đảng, của dân tộc, trong một tập thể, một tổ chức cụ thể. Thước đo, tiêu chí đánh giá xác đáng nhất phẩm chất đạo đức ấy chính là uy tín trước nhân dân, là khả năng “gánh vác” hoàn thành trọng trách mà cách mạng giao phó cho từng cán bộ, đảng viên trên những cương vị công tác cụ thể, trong nh ững
  16. hoàn cảnh làm việc cụ thể. Đạo đức cũng chính là một điều kiện, một yếu tố không thể thiếu để tạo ra sức mạnh và làm nên thắng lợi chung của Đảng và toàn dân tộc. Thứ ba, người cán bộ, đảng viên có đạo đức là người phải biết tẩy sạch, “quét sạch” chủ nghĩa cá nhân. Phải biết hy sinh vì ích lợi của tập thể, của cộng đồng dân tộc; biết “cho” trước khi “nhận”. Phải biết nhận thức và đặt lợi ích cá nhân nhỏ bé của mình, gia đình mình trong lợi ích to lớn có ý nghĩa quyết định của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đó là sự biểu hiện lòng trung thành với cách mạng, ý th ức về việc góp phần tạo dựng nên uy tín của Đảng trước nhân dân, làm cho đạo đ ức cách mạng có sức lôi cuốn trước mục tiêu và lý tưởng của Đảng là “độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Thứ tư, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phải được biểu hiện qua lăng kính của nhân dân, được nhân dân đánh giá, thẩm định, thể hiện qua uy tín, sự tin yêu của nhân dân. Người cán bộ, đảng viên trước hết phải là công bộc c ủa dân, phải gần gũi nhân dân, lắng nghe dân, tạo được môi trường dân chủ thực sự đối với dân, khiêm tốn và không ngừng học tập để nâng cao trình độ. Người cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống bệnh quan liêu, bởi vì quan liêu cũng là nguyên cớ dẫn đến tham ô và lãng phí mà nhiều lần Bác gọi là “ăn cắp” của công. Thứ năm, về phẩm chất chính trị, phải là những người tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, c ủa dân t ộc. Đó là những con người có niềm tin và biết xây dựng niềm tin để có đủ bản lĩnh vượt qua những khó khăn thách thức trước cuộc sống trên con đường hướng tới mục tiêu mà Đảng đã lựa chọn. Thứ sáu, về trí tuệ, là những người có năng lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao và không ngừng học tập để luôn đáp ứng được những yêu cầu cao hơn, mới hơn trong công tác. Thứ bảy, về uy tín trước tập thể, trước nhân dân, phải là những người có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng và minh bạch, vô tư trước mọi cám dỗ để tạo dựng được niềm tin trong nhân dân, trong tập thể. Từ đó có thể thu hút được sức mạnh của tập thể và quần chúng, trở thành tấm gương cho nhân dân noi theo. Về phẩm chất đạo đức, cán bộ đảng viên phải là những người quán triệt sâu sắc và làm theo những yêu cầu về “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, biết đặt lợi ích của mình
  17. trong lợi ích chung, biết hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích t ập th ể, dám x ả thân c ống hiến cho lý tưởng cách mạng, cho hạnh phúc nhân dân. Mới đây, Quốc hội đã ban hành Luật Cán bộ, công chức, vì vậy mỗi cán bộ đảng viên, công chức viên chức trong hệ thống chính trị bắt buộc phải tuân thủ nghiêm những điều đã quy định trong Luật. Để cho mỗi cán bộ, đảng viên thật sự xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng với đầy đủ phẩm chất, đầy đủ các tiêu chí như tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là điều không dễ dàng nhưng là đòi hỏi nghiêm khắc, là một yếu tố quyết định nhằm xây dựng Đảng vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Muốn vậy, “Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”. Ra sức học tập và làm theo tư tưởng đạo đức của Bác nhằm không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng là cách làm tốt nhất để thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đ ảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngày càng xứng đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân và nâng cao vị thế lãnh đạo của Đảng ta ở trong nước và trong quan hệ quốc tế. Thấm nhuần và thực hiện những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều thế hệ cách mạng đã nhanh chóng trưởng thành, đóng góp công lao to lớn vào sự phát triển của dân tộc. Họ đã chiến đấu và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội; đã và đang tích cực 'xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn', như mong ước cháy bỏng của Người trước khi từ biệt thế giới này. 2. Tìm hiểu những thực tế trong cuộc sống, liên hệ với bản thân Đọc lại những dòng viết này vào những ngày này khi liên hệ với thực tiễn, tôi có cảm giác như thấy Người đang nhìn chúng ta vừa âu yếm với tình thương bao la vừa nghiêm khắc với cháu con khi chưa làm được những điều Người dặn lại, Một bộ
  18. phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả lãnh đạo cao cấp còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu nhiều mặt, làm giảm lòng tin của nhân dân, là một nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ. Nguyên nhân một phần do thiết lập chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và sử dụng các biện pháp quản lý tập trung quan liêu, bao cấp quá lâu là nguyên nhân sâu xa phát sinh tệ quan liêu, tham nhũng. Điều này thể hiện ở chỗ là chế độ công hữu không xác định được chủ sở hữu đích thực đối với tư liệu sản xuất, có lúc tư liệu sản xuất dường như được xem là vô chủ, do vậy cả một thời gian dài tư liệu sản xuất, của cải xã hội bị thất thoát, sử dụng lãng phí. Cùng với nó, c ơ chế c ấp phát, xin -cho cũng là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn tiêu cực. Khi chuy ển sang cơ chế thị trường, cơ chế kinh tế ấy lại chậm được đổi mới, tạo ra nhiều sơ hở trong quản lý kinh tế, để nạn tham nhũng tiếp tục hoành hành. Tình trạng vô chủ đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước vẫn đang là “mỏ vàng” lớn để các quan tham đục khoét. Thêm vào đó là sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực, sự can thiệp trực tiếp có tính chủ quan, tùy tiện của Nhà nước vào một số hoạt động kinh tế cũng là tác nhân chính làm cho tình trạng tham nhũng trở nên tr ầm trọng. Trong quá trình chuyển đổi hợp tác xã , sắp xếp cổ phần hóa doanh nghi ệp nhà nước, quy hoạch giải tỏa sử dụng đất đai, thực hiện các dự án đầu tư,…. Khi những công cụ quản lý nền kinh tế được thiết lập đã mất tác dụng, thêm vào đó là hệ thống pháp luật, công cụ quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường chưa được xây dựng, cũng cố và hoàn thiện thì tệ buôn gian bán lận, “rút túi ăn cắp” sẽ tất yếu trở thành bệnh dịch nguy hiểm và lây lan nhanh chóng trong toàn bộ hệ thống quyền lực nhà nước. Và trên thực tế, bộ máy nhà nước đã phát huy hiệu quả to lớn trong cách m ạng dân t ộc, dân chủ, nhân dân. Tuy nhiên, ngày nay môi trường kinh t ế, chính tr ị, xã h ội có nh ững bi ến đổi căn bản. Song việc tập trung quyền lực mà lai thi ếu cơ ch ế c ụ th ể đ ể cân b ằng và kiểm soát quyền lực, các công cụ quản lý kinh tế kém hiệu quả, chưa th ực sự công khai, minh bạch trong thực thi quyền lực, việc thực hi ện quyền làm ch ủ c ủa người dân ch ưa
  19. cao, các chế tài luật pháp đối với các hành vi vi phạm pháp lu ật chư đ ủ m ạnh… chính những điều đó đã tạo ra nhiều kẽ hở để một số cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi d ụng quyền lực của cộng đồng trao cho để mưu cầu lợi ích riêng cho mình. Còn thế hệ trẻ Việt Nam, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, họ vẫn luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun trồng. Họ đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm của mình. Họ đang ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Rất nhiều phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng, thực hiện. Đảng, Nhà nước và xã hội đã có nhiều hình thức ghi nhận và tôn vinh những thanh niên, sinh viên và học sinh tiêu biểu, xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay vẫn xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ v ọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 'Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại, như phai nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả, l ười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh hoặc phản văn hóa, nghiện ngập, thậm chí vi phạm pháp luật... Những hiện tượng đó, trước hết là nguy cơ đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo hướng lành mạnh, tiến bộ và văn minh của xã hội ta hiện nay. Mặt khác, cũng cần nói rằng, các thế lực thù địch đang chờ đợi và sẽ ra sức khai thác, lợi dụng những hiện tượng đó để tiến hành chiến lược diễn biến hòa bình hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
  20. Sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều nhiệm vụ, nhiều giai đoạn khác nhau và do vậy, đòi hỏi sự hy sinh, cống hiến quên mình của nhiều thế hệ cách mạng. Trong tiến trình ấy, những lớp người hiện tại đã trực tiếp giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ, nhưng cũng có không ít công việc còn dang dở; hơn nữa, thực tiễn cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. Theo đó, nếu thiếu lực lượng kế cận xứng đáng thì chẳng những sự nghiệp cách mạng sẽ gặp khó khăn, mà ngay cả những gì đã có cũng khó được gìn giữ, bảo tồn. Trong quan điểm biện chứng duy vật về sự phát triển mà Hồ Chí Minh tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo: tương lai đang ở ngay trong hiện tại. Người cũng đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ, người viết: 'Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội'. Đầy nhiệt huyết, có sức sống tràn trề và năng lực sáng tạo..., đó là th ế mạnh, là vốn quý của tuổi trẻ chúng ta. Với tư cách là đội ngũ dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của cách mạng và là những người chủ tương lai của nước nhà, các thế hệ trẻ - trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế tục sự nghiệp cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà lớp người đi trước đã chuyển giao vào tay mình. Coi vận mệnh của nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thế hệ trẻ chúng ta. Vì vậy thế hệ trẻ chúng ta cần cảnh giác trước những lôi kéo của thế lực thù định và phản cách mạng, rèn luyện đạo đức cách mạng để xứng đáng là những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa tương lai . Để xứng đáng là thế hệ cách mạng của đời sau, như Bác đã nói: học tập trong nhà trường, trong gia đình và ngoài xã hội; học tập qua sách vở và từ chính thực tiễn cuộc sống. Học không phải để 'làm quan' như trong xã hội cũ, mà là 'Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà', học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn , luôn tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn nhằm xây dựng, phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết để sau này có thể cống hiến được nhiều nhất cho quê hương, cộng đồng và xã hội , điều gì phải thì cố làm cho kỳ được; điều gì trái thì hết sức tránh, dù nó là nhỏ. Thế hệ trẻ chúng ta nên tích cực hưởng ứng cuộc vận động 'Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh' mà Đảng ta phát động, đó chính là một cơ hội tốt cho thế hệ trẻ rèn luyện, phấn đấu vươn lên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2