intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Yếu tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra ngoài của nước đi đầu tư

Chia sẻ: Nguyễn Thanh Phượng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:61

104
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 4 chương, đề tài "Yếu tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra ngoài của nước đi đầu tư" trình bày tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhân tố thúc đẩy quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước đi đầu tư, giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang phát triển,... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Yếu tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra ngoài của nước đi đầu tư

  1. Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để nền kinh tế của một nước phát  triển thì vốn đầu tư  là một yếu tố  không thể  thiếu. Bên cạnh nguồn vốn từ  trong nước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn vốn vô cùng quan   trọng. yếu tố này không những quan trọng đối với các nước đang phát triển mà  còn ngay cả các nước phát triển trên thế giới cũng rất quan tâm đến vẫn đề thu   hút nguồn vốn này. Đặc biệt khi hiện tại Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương  mại thế giới WTO thì việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài FDI là hết   sức cần thiết. Tuy nhiên có rất nhiều yếu tố tác động cũng như các nhân tố thúc  đẩy quyết định đầu tư  trực tiếp nước ngoài, gồm cả  những yếu tố  của môi   trường đầu tư quốc tế, của nước đi đầu tư và cả nước nhận đầu tư… 1. 1. Một số khái niệm ­  Đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ,   đất đai,…vào một hoạt động kinh tế  cụ  thể  nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản   phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận. ­  Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng   quản lý,…từ  nước này sang nước khác để  kinh doanh nhằm mục đích thu lợi  nhuận cáo trên phạm vi toàn cầu. 1
  2. ­   Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI)  xảy ra khi một nhà đầu tư  từ một nước (nước chủ đầu tư  hay nước sở tại) có   được một tài sản ở một nước khác (nước nhận đầu tư hay nước chủ nhà) cùng   với quyền quản lý tài sản đó.  1.2.  Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, FDI gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các  loại tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của  nền kinh tế  nước tiếp nhận đầu tư  và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi  đầu tư. Thứ hai là đầu tư  trực tiếp nước ngoài được tiến hành thông qua việc bỏ  vốn thành lập các doanh nghiệp mới (liên doanh hoặc sở  hữu 100% vốn), hợp   đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua  cổ  phiếu  ở  mức khống chế  hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển  nhượng doanh nghiệp. Thứ  ba,nhà đầu tư  nước ngoài là chủ  sở  hữu hoàn toàn vốn đầu tư  hoặc   cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ  mức tham gia quản lý trực   tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Thứ tư là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ  thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ  chính trị  giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao. Thứ  năm,nhà đầu tư  trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động  của dòng vốn đầu tư. 2
  3. Thứ sáu,FDI bao gồm hoạt động đầu tư  từ nước ngoài vào trong nước và  đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một  nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó. Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI   trên toàn thế  giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được  20 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể  hiện rõ nét. Chính những đặc  điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú   ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối  giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của nền kinh tế. 1.3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.3.1. Phân theo hình thức nắm vốn chủ sở hữu 1.3.1.1. Phân theo mục đích đầu tư Nếu xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân thành 2 loại chính: Đầu tư  theo chiều ngang (Horizontal Integration­HI) và Đầu tư theo chiều dọc (Vertical  Integration ­ VI). Hình thức HI phù hợp với các chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh,   ví dụ về  công nghệ, kỹ  năng quản lý,…trong sản xuất một loại sản phẩm nào  đó. Với lợi thế  này, họ  có thể  kiếm lợi nhuận cao khi chuyển sản xuất sản   phẩm ra nước ngoài. Mục đích của hình thức này là mở  rộng và thôn tính thị  trường ở nước ngoài đối với cùng loại sản phẩm có lợi thế  cạnh tranh ở nước   ngoài, do đó thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền. Đây là hình thức đầu tư  ra   nước ngoài điển hình của Mỹ  và được thực hiện chủ  yếu giữa các nước phát  triển. 3
  4. Khác với hình thức HI, hình thức VI là đầu tư ra nước ngoài với mục đích là  khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào rẻ như lao   động, đất đai,…Khi đầu tư  ra nước ngoài, các chủ  đầu tư  thường chú ý đến   khai thác các lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu sản xuất   ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế. Do đó, các sản phẩm   thường được hoàn thiện qua các khâu lắp ráp  ở  các nước nhận đầu tư. Sau đó   các sản phẩm này có thể  lại được khẩu về  nước đầu tư  hoặc xuất khẩu sang   nước khác. Đây là hình thức đầu tư ra nước ngoài điển hình của Nhật Bản, theo   kiểu mô hình đàn nhạn bay, và được thực hiện khá phổ  biến  ở  các nước đang  phát triển. Ví dụ: Grand­place Việt Nam (GPV) – một ví dụ về đầu tư theo chiều dọc Grand­place   Việt   Nam   là   một   công  ty   được   thành   lập   bởi   BIO   (Belgian   Investment Company For Developing Countries) chuyên về socola được sản xuất   tại Việt Nam, từ khâu trồng ca cao cho đến khi sản phẩm cuối cùng được hình   thành. Bắt đầu hoạt động tại Việt nam năm 1994, GPV là nhà sản xuất socola Bỉ.   Đến   năm   2009,   công   ty   đã   sản   xuất   và   cung   cấp   cho   các   khách   sạn,   nhà   hàngbánh kẹo, tiệm kem,…trong nước hơn 3000 tấn mỗi năm. Thêm vào đó,   GPV còn có sản phẩm xuất khẩu sang nhiều nước ở Bắc Mỹ và Châu Á. Nhận thấy điều kiện cũng như tiềm năng trồng ca cao ở Việt Nam, BIO đã   hỗ trợ, hướng dẫn người đân địa phương về kĩ thuật trồng và chế biến ca cao;   sau đó đề xuất chiến lược sản xuất socola ngay tại khu vực ca cap được trồng.   Bằng việc cho ra đời loại ca cao “made in Vietnam”, GPV đã tạo được giá trị   gia   tăng   cao   thông   qua   việc   tận   dụng   nguồn   nguyên   liệu   địa   phương   cùng   những kiến thức và công nghệ BIO đã chuyển giao trong quá trình sản xuất. 4
  5. Với chiến lược kinh doanh như vậy, GPV đa giảm thiểu được chi phí nhập   khẩu nguyên liệu đầu vào, gia tăng hiệu quả  sản xuất cũng như  giá trị  xuất   khẩu của socola. (Nguồn: website chính thức của BIO www.bio­invest.be) 1.3.1.2. Phân theo chiến lược đầu tư Xét theo chiến lược đầu tư, đầu tư  được thực hiện qua 2 kênh chủ  yếu là   Đầu tư  mới (Greenfield Investment – GI) và Mua lại & sáp nhập (Mergers and   Acquisitions – M&A).  Đầu tư  mới là việc các chủ  đầu tư  thực hiện đầu tư  mới  ở  nước ngoài   thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới.  Đây là kênh đầu tư  truyền   thống của FDI và cũng là kênh chủ  yếu để  các nhà đầu tư  các nước phát triển   đầu tư vào nước đang phát triển. Ngược lại, kênh M&A là các chủ  đầu tư  tiến hành đầu tư  thông qua việc  mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có  ở  nước ngoài. Kênh đầu tư  này  chủ  yếu được thực hiện  ở  các nước phát triển, các nước mới công nghiệp hóa  và rất phổ biến trong những năm gần đây. Ta có thể so sánh một chút về 2 hình thức trên, cả về ưu và nhược điểm. Về  vấn đề bổ sung vốn đầu tư, trong khi hình thức GI bổ sung ngay một lượng vốn   đầu tư  nhất định cho nước nhận đầu tư  thì hình thức M&A lại chủ  yếu là  chuyển sở hữu từ các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà cho các công ty  nước ngoài. Tuy nhiên về  dài hạn, hình thức M&A này cũng sẽ  thu hút mạnh  được nguồn vốn từ bên ngoài cho nước chủ nhà nhờ mở rộng quy mô hoạt động  của họ. Thứ hai, về vấn đề  tạo việc làm, hình thức GI tạo ngay được việc làm cho   nước chủ nhà, trong khi hình thức M&A không những không tạo được việc làm  5
  6. ngay mà còn có thể tăng thêm tình trạng căng thẳng về  việc làm cũng như  vấn   đề thất nghiệp. Vấn đề  thứ  ba là chuyển dịch cơ  cấu ngành kinh tế. GI tác động trực tiếp   đến thay đổi cơ  cấu ngành kinh tế  thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp  mới, trong khi đó M&A lại không tác động đến trong ngắn hạn. Cuối cùng là vấn đề  về  cạnh tranh và an ninh quốc gia. Trong khi GI thúc  đẩy  cạnh tranh thì M&A lại không tác động đáng kể đến tình trạng cạnh tranh  về  mặt ngắn hạn, nhưng về  dài hạn lại có thể  làm tăng khả  năng cạnh tranh   độc quyền. Mặt khác, M&A có thể   ảnh hưởng đến an ninh của nước chủ  nhà  nhiều hơn hình thức GI bởi vì tài sản của nước chủ nhà rơi vào tay của người   nước ngoài. 1.3.1.3. Phân theo tính chất sở hữu Trong luật đầu tư của các nước chủ nhà có quy định tỷ lệ sở hữu của các nhà  đầu tư nước ngoài tùy theo lĩnh vực đầu tư. Xét theo mức độ  nắm giữ cổ phần  và mức độ tham gia vào hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, FDI có thể được  thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên  doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng xây dựng – khai thác – chuyển   giao (BOT), công ty cổ phần có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mua lại và sáp  nhập, công ty mẹ ­ con, chi nhánh công ty nước ngoài,… ­ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Là doanh nghiệp thuộc sở  hữu của nhà đầu tư  nước ngoài, do nhà đầu tư  nước ngoài thành lập tại nước chủ  nhà, tự  quản lý và tự  chịu trách nhiệm về  kết quả kinh doanh. 6
  7. Về  mặt pháp lý, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là công ty trách nhiệm  hữu hạn hoặc cổ  phần, có tư  cách pháp nhân theo pháp luật tại nước chủ  nhà,  chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại. Về mặt kinh doanh, doanh nghiệp   100% vốn   nước ngoài hoạt động theo sự  điều hành, quản lý của chủ  đầu tư  nước ngoài nhưng vẫn phải tùy thuộc vào điều kiện môi trường kinh doanh tại   nước sở  tại như  điều kiện về  chính trị, kinh   tế, luật pháp, văn hóa, mức độ  cạnh tranh,… Với hình thức kinh doanh như thế này, nước chủ nhà có thê giải quyết được   công ăn việc làm mà không cần bỏ đầu tư vốn cũng như có thể tập trung thu hút  vốn, công nghệ  nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu. Tuy   nhiên nước chủ nhà khó có thể tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước  ngoài để  nâng cao trình độ  quản lý, cán bộ  kỹ  thuật  ở  các doanh nghiệp trong   nước như so với hình thức liên doanh. Đồi với nhà đầu tư  nước ngoài, hình thức đầu tư  100% giúp họ  chủ  động   trong quản lý điều hành doanh nghiệp, chủ  động tuyển chọn và đào tạo nguồn   nhân lực, triển khai nhanh dự án đầu tư  để  thực hiện chiến lược toàn cầu của   tập đoàn. Nhưng đồng thời, chủ đầu tư cũng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro và chi  phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận một thị trường mới. ­ Doanh nghiệp liên doanh Là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà trên cơ  sở  hợp đồng liên  doanh ký kết giữa bên hoặc các bên với nước chủ  nhà với bên hoặc các bên  nước ngoài đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà. Về mặt pháp lý, doanh nghiệp liên doanh là một loại công ty trách nhiệm hữu   hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà; mỗi bên liên doanh  7
  8. chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi vốn  góp của mình vào vốn pháp định của công ty liên doanh. Về  phương diện kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh do các bên tham gia   góp vốn, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận và cũng cùng chia sẻ rủi rophát  sinh. Lợi nhuận thu được và rủi ro gánh chịu được phân chia theo tỷ lệ góp vốn. Thông qua hình thức liên doanh, nước chủ nhà sẽ kiểm soát và học được kinh   nghiệm trực tiếp quản lý tiên tiến của nhà đầu tư  nước ngoài, đông thời được  chia sẻ lợi nhuận với các nhà chủ  đầu tư nước ngoài. Còn đối với các nhà đầu   tư  nước ngoài, đầu tư  dưới dạng doanh nghiệp liên doanh giúp họ  tận dụng  được hệ thống phân phối có sẵn của các đối tác nước chủ nhà, được đầu tư vào   những lĩnh vực kinh doanh dễ  thu lời, lĩnh vực bị  cấm hoặc hạn chế  đối với   hình thức khác. Họ cũng không mất thời gian và chi phí trong việc nghiên cứu thị  trường mới và xây dựng các mối quan hệ đồng thời chia sẻ được chi phí và rủi  ro đầu tư với đối tác nước chủ nhà. ­ Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp doanh) Là văn bản được kí kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi là các bên hợp  doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên (nước   ngoài và sở tại) để tiến hành đầu tư kinh doanh ở nước chủ nhà mà không thành  lập pháp nhân mới. Về mặt pháp lý, hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo pháp  luật của nước sở  tại, chịu sự  điều chỉnh của pháp luật nước sở  tại. Về  mặt   kinh doanh, các bên thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ  sở  kí kết một   hợp đồng hợp tác mà không hình thành một pháp nhân mới. Với kết quả  kinh   doanh thu được, hình thức hợp doanh phân chia theo tỉ lệ góp vốn hoặc do thỏa   8
  9. thuận giữa các bên. Nghĩa vụ  tài chính đối với nước sở  tại được các bên hợp   doanh thực hiện một các riêng rẽ. Hình thức này có  ưu điểm giúp nước nhận   đầu tư  giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ, tạo ra thị  trường mới   nhưng vẫn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền điều hành dự  án. Tuy nhiên rất khó thu hút được đầu tư  dưới hình thức này và chỉ  thực hiện   được với một số  lĩnh vực dễ  sinh lời. Đối với bên ngoài, hình thức hợp doanh   giúp tận dụng sẵn hệ thống phân phối có sẵn của đối phương nước sở tại, giúp  dễ thâm nhập hơn vào những lĩnh vực hạn chế đầu tư và thâm nhập thị trường   truyền thống của nước chủ nhà. Nhà đầu tư cũng không mất thời gian và chi phí  cho việc nghiên cứu thị  trường mới, xấy dựng các mối quan hệ, không bị  tác  động lớn do khác biệt về  mặt văn hóa, chia sẻ  được phí rủi ro và đầu tư. Tuy   nhiên, nhược điểm chính của hình thức này là nhà đầu tư  nước ngoài không  được trực tiếp quản lý điều hành dự  án và mối quan hệ  hợp tác với đối tác  nước sở tại thiếu tính chắc chắn. Chính điều này đã làm họ trở nên e dè hơn khi   đầu tư theo hình thức này. Ví dụ:     Hợp đồng hợp tác kinh doanh của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí   Nghệ An. Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ  An   (PVNC), thành viên của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Việt Nam và Công ty   CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN Turbo – one Hàn Quốc được kí kết vào   ngày 28/06/2012. Theo nội dung hợp đồng, hai bên thống nhất đầu tư  nâng cấp   trang thiết bị tại nhà mày đóng tàu Nghệ  An với tổng mức đầu tưu giai đoạn I   dự kiến là 4 triệu USD. Phía Turbo – one sẽ trả chi phí cho PVNC 15% tổng giá   trị  đầu tư  nâng cấp nhà máy đóng tàu, tương đương 600.000 USD, từ  tháng   9
  10. 7/2012 đến tháng 12/2012. Hai bên dự kiến đi vào chính thức sản xuất, thực hiện   đơn hàng đầu tiên vào tháng 8/2012. Phía PVNC có trách nhiệm quản lý, vận hành nhà máy, trực tiếp thực hiện   các công việc tại nhà máy như lắp ráp, kiểm tra, xuất xưởng; chịu trách nhiệm   đầu tư, nâng cấp trang thiết bị tại nhà máy đảm bảo các điều kiện kỹ thuật để   thực hiện các đơn hàng, đồng thời cung cấp cán bộ, công nhân đủ  số  lượng,   chất lượng để thực hiện dự án. Phía Turbo – one sẽ chịu trách nhiệm tìm kiếm   đơn đặt hàng đảm bảo kế hoạch mục tiêu mà các bên đã thống nhất; phụ trách   thiết kế, hỗ  trợ  kỹ  thuật và cung cấp các thiết bị  chính của tàu và hỗ  trợ  đào   tạo nhân công (Nguồn: website của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ  An   http://www.pvnc.com.vn). ­ Hợp đồng BOT (Xây dựng – Khai thác – Chuyển giao) Là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư  nước ngoài với các cơ  quan có thẩm   quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp, khai thác công  trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (thu hồi vốn và có lợi nhuận   hợp lý), sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ  công trình cho nước chủ  nhà. Đặc trưng quan trọng của hình thức này là: cơ  sở  pháp lý là hợp đồng, vốn  đầu tư  của nước ngoài, hoạt động dưới các hình thức doanh nghiệp liên doanh  hoặc 100% vốn nước ngoài, chuyển giao không bồi hoàn cho nước chủ nhà, đối  tượng là các công trình cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, BOT còn có một số dạng khác như BOT (xây dựng – chuyển giao  ­   khai thác) được hình thành cũng như  tương tự  BOT, nhưng sau khi xây dựng   xong công trình, nhà đầu tư  nước ngoài giao lại cho nước chủ  nhà, chính phủ  10
  11. đầu tư nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền khai thác công trình  đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý;  BT (xây dựng – chuyển giao) được hình thành cũng giống như  BOT và BTO  nhưng sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư bàn gaio lại công trình cho nước chủ  nhà, chính phủ nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí liên quan tới  công trình và một tỷ lệ lãi hợp lý. Qua hình thức đầu tư  nói trên, nhiều quốc gia nhận đầu tư  có thể  thu hút  được vốn đầu tư  vào   những cơ  sở  hạ  tầng đòi hỏi có vốn lớn, do đó giảm   được nguy cơ  sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh chóng có được   công trình kết cấu hạ  tầng hoàn chỉnh, giúp khai thác nguồn lực trong nước và  thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế.  Nhược điểm của hình thức trên là khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và khó   kiểm soát được công trình. Nhà nước cũng phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng   kiểm soát của nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư  nước ngoài, do được chủ  động  trong việc quản lý điều hành và tự  chủ  kinh doanh, hiệu quả  của vốn đầu tư  của họ được đảm bảo và lợi nhuận không bị chia sẻ. Ngoài ra các dự án đầu tư  ở  nước sở  tại đảm bảo và tránh được rủi ro bất thường ngoài khả  năng kiểm  soát. ­ Công ty cổ phần  có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần khác nhau  được gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài  sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp. Cổ  đông có thể  là tổ  chức,  cá nhân có số  lượng tối đa không hạn chế, từ 3 trở lên. Công ty có quyền phát   11
  12. hành chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng  cổ phần của mình cho người khác. Công ty cổ phần có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc. Đại hội  cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định  cao nhất.  Ở  một số  quốc gia công ty cổ  phần có vốn đầu tư  nước ngoài được  thành   lập   theo   cách:   thành   lập   mới,   cổ   phần   hóa   doanh   nghiệp   FDI   (doanh   nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua   lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hóa. ­ Mua lại và Sáp nhập (M&A) Đây là hình thức đầu tư  mà các nhà đầu tư  chủ  yếu tiến hành đầu tư  thông  qua việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có  ở  nước ngoài. Đầu tư  theo hình thức M&A là xu hướng phổ biến hiện nay và hình thức này chiếm tỷ  trọng lớn trong tổng FDI trên thế  giới. Phần lớn các vụ  M&A được thực hiện  giữa TNCs lớn và tập trung vào các lĩnh vực như công nghiệp ô tô, dược phẩm,   viễn thông và tài chính ở các nước phát triển. ­ Công ty mẹ ­ con (Holding company) Đây là một tổ chức các công ty gồm “công ty mẹ” và các “công ty con, cháu”.  Mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con, cháu là mối liên kết về vốn. công  ty mẹ sở hữu vốn cổ phần trong các công ty con, cháu. Nó chi phối các công ty   con, cháu về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Do vậy, lượng sở hữu vốn   của các của các công ty con, cháu là sở hữu hỗn hợp (nhiều chủ) nhưng có một   chủ  (công ty mẹ) đóng vai trò khống chế  và chi phối tài chính. Dạng phổ  biến  của công ty mẹ ­ con là công ty cổ phần và các công ty con, cháu vẫn có tư cách  pháp nhân độc lập. 12
  13. ­ Chi nhánh công ty nước ngoài Khác với công ty con 100% vốn nước ngoài, hình thức chi nhánh không phải  là một pháp nhân độc lập và nếu như trách nhiệm của công ty  con chỉ giới hạn  trong phạm vi tài sản của nước sở  tại thì trách nhiệm của chi nhánh, theo quy  định của một số nước, không giới hạn trong phạm vi tài sản của một chi nhánh,  mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài. 1.3.2. Phân theo hình thức không nắm vốn chủ sở hữu Ngoài các hình thức đầu tư  trực tiếp nói trên, nhà đầu tư  trực tiếp nước   ngoài   có   thể   tham   gia   các   hình   thức   như   nhượng   quyền   thương   mại  (Franchising), cấp phép ( Licensing) , thuê ngoài (Outsourcing),… Đây là các hình  thức mà thông qua đó các công ty đa quốc gia điều phối các hoạt động trong  chuỗi giá trị toàn cầu của họ và ảnh hưởng đến việc quản lý công ty của nước  chủ nhà mà không cần sở hữu cổ phần trong các công ty này. Các hoạt động đầu   tư không nắm vốn chủ sở hữu xuyên biên giới diễn ra trên toàn thế giới và đặc   biệt quan trọng ở các nước đang phát triển. Các hoạt động này tạo ra được hơn   2000 tỷ USD trong năm 2009, trong đó hợp đồng sản xuất và dịch vụ thuê ngoài   chiếm khoảng 1100 – 1300 tỷ  USD, nhượng quyền thương mại chiếm khoảng   330 – 350 tỷ USD và hoạt động cấp phép chiếm khoảng 340 – 360 tỷ USD. ­ Nhượng quyền thương mại (Franchising) Hình   thức   này   là   quan   hệ   hợp   đồng   trong   đó   một   công   ty   quốc   tế   (bên   nhượng quyền) cho phép công ty nước chủ nhà ( bên nhận quyền) vận hành một   doanh nghiệp theo hệ  thống mô hình được phát triển bởi bên nhượng quyền  bằng cách trả một khoản chi phí hoặc đánh dấu lên các hàng hóa, dịch vụ được  cung cấp bởi bên nhượng quyền. Nói cách khác , bên nhượng quyền (franchisor)  13
  14. sẽ  chuyển mô  hình kinh doanh, nhãn hiệu hàng  háo, dịch vụ, bí  quyết kinh  doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo cho bên nhận quyền (franchisee). Bên   nhận quyền sau khi kí hợp đồng nhượng quyền được phép khai thác kinh doanh   trên một không gian địa lý nhất định và phải trả  một khoản phí nhượng quyền  và tỷ lệ phần trăm doanh thu định ký cho bên nhượng quyền trong một khoảng   thời gian nhất định. Bên cạnh việc tiến hành hoạt động kinh doanh độc lập,  nhiều cá nahan và doanh nghiệp lựa chọn con đường đơn giản hơn để khởi đầu  kinh doanh, đó là gia nhập hệ  thống nhượng quyền thương mại (franchising   netwwork). Ví dụ  tiêu biểu của hình thức này có thể kể  đến hệ  thống tiệm đồ  ăn nhanh McDonald, KFC,… hoặc hệ  thống các tiệm cà phê Trung Nguyên,  Starbuck hoặc hệ thống các siêu thị bán lẻ,… ­   Cấp phép (Licensing) Là hợp đồng chuyển giao một số  quyền tài sản nào đó giữa hai hoặc nhiều  bên theo những điều kiện nhất định về việc phân chia quyền và nghĩa vụ cụ thể  giữa những bên đó. Theo hợp đồng này, một công ty quốc tế  sẽ  cấp phép cho  một công ty nước chủ  nhà quyền sở  hữu trí tuệ, ví dụ  như  bản quyền, bí mật   thương mại,…trên cơ  sở  nước chủ nhà phải thanh toán phí sử  dụng. Giấy cấp   phép có thể có nhiều hình thức khác nhau, bao gồm giấy cấp phép thương hiệu,  cấp giấy phép sản phẩm và cấp giấy phép quy trình. ­  Thuê ngoài (Outsourcing) Là việc một thể nhân hay pháp nhân chuyển giao việc thực hiện toàn bộ một  chức năng sản xuất – kinh doanh nào đó, bao gồm cả  tài sản vật chất và nhân  lực cho nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài chuyên môn hóa trong lĩnh vực đó. Các  nước đang phát triển  ở Châu Á là địa điểm hàng đầu làm dịch vụ  gia công cho  14
  15. các tạp đoàn ở các nước lớn phát triển. Riêng 3 quốc gia như Ấn Độ, Phi­lip­pin  và Trung Quốc đã chiếm 65% doanh thu xuất khẩu toàn cầu trong năm 2009,   nhờ đáng kể vào xuất khẩu hàng gia công. Có thể kể đến một số trung tâm nhận  thuê người lớn trên thế  giới là Bangalore, Mumbai, New Delhi, Chennai, Pune   của  Ấn Độ; Manila, Cebu của Phi­líp­pin; Dublin của Irelan; Thượng Hải của  Trung Quốc,… 1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài Mặc dù FDI vẫn chịu chi phối của Chính Phủ nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối  quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản   lý sản xuất , kinhh doanh nên mức độ  khả  thi của dự  án khá cao, đặc biệt là  trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu.Do quyền lợi gắn  chặt với dự án , họ quan tâm tới hiệu quả kinh doạnh nên có thể lựa chọn công   nghệ thích hợp , nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân . Vì vậy ,   FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế  ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư . ­ Đối với nước đầu tư  Đầu tư  ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả  sử  dụng những lợi thế  sản   xuất  ở  các nước tiếp nhận đầu tư, hạ  giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ  suất  lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn  định với giá phải chăng. Mặt khác đầu tư  ra nước ngoài giúp bành trướng sức   mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản   xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị  trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. ­ Đối với nước nhận đầu tư 15
  16. Đối với các nước kinh tế  phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải   quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát…Qua FDI   các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty doanh nghiệp có nguy cơ  phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người  lao động. FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế  để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy  sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học   hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác. Đối với các nước đang phát triển: FDI giúp đẩy mạnh tốc độ  phát triển  kinh tế  thông qua việc tao ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động,  giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở những nước này. FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo   dài. Nhờ vậy mà mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính  khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là trong thời kỳ  đầu của quá trình công  nghiệp hoá­hiện đại hoá. Theo sau FDI là máy móc thiết bị  và công nghệ  mới  giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học­kỹ  thuật mới. Quá trình  đưa công nghệ  vào sản xuất giúp tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả  năng  cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế. Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du   nhập vào các nước đang phát triển, các tổ  chức sản xuất trong nứơc bắt kịp   phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với  phong cách làm việc công nghiệp cũng như  hình thành dần đội ngũ những nhà  doanh nghiệp giỏi. FDI giúp các nước đang phát triển mở  cửa thị  trường hàng  hoá nước ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động Marketing được mở  rộng   không ngừng. 16
  17. Ngoài ra, FDI còn giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh   thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng  hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển. 17
  18. CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ THÚC ĐẨY QUYẾT ĐỊNH ĐẦU  TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NƯỚC ĐI ĐẦU TƯ 2.1. Lợi thế của quốc gia 2.1.1. Tiềm lực kinh tế Một quốc gia sẽ  chưa thể  hoạch định đầu tư  ra nước ngoài khi khả  năng  tích lũy nội địa còn quá thấp. Điều này có nghĩa là việc nhu cầu vốn đầu tư của   nền kinh tế còn rất cao. Trái lại, khi nền tế có khả năng tích lũy cao, mức độ sự  trữ ngoại tệ lớn thì lúc đó sẽ có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để khai thác hiệu  quả  của nguồn vốn dư thừa này. Bởi vậy, mức độ  tích lũy của nền kinh tế  có  vai trò như tăng hoặc giảm áp lực thúc đẩy dòng vốn đầu tư nước ngoài. Thực   tế cho thấy, những nước có đầu tư ra nước ngoài lớn thường là những nước có   mức tích lũy cao. Ví dụ: Đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản. Hiện nay Nhật Bản đã tự do hóa hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên   nước này thực hiện chính sách mở cửa đầu tư đầu tư ra nước ngoài theo một lộ   trình chắc chắn và có tính toán. Việc tự  do hóa đầu tư  ra nước ngoài chỉ  thực   hiện khi nền kinh tế và các doanh nghiệp Nhật Bản có tiềm lực tài chính mạnh,   quy mô sản xuất tốt và cần mở  rộng phạm vi  ảnh hưởng ra bên ngoài để  tăng   năng lực sản xuất cho nền kinh tế trong nước.  18
  19. Thực tế  cho thấy đầu tư  ra nước ngoài của Nhật Bản tăng tỷ  lệ  thuận so   với tỉ  lệ  sự  trữ  ngoại tệ  của nước này. Năm 2008 đầu tư  ra nước ngoài của   Nhật bản vượt qua con số  130 tỷ  đô la ,  ở  thời điểm đó, dự  trữ  ngoại tệ  của   Nhật Bản cũng vượt ngưỡng 1000 tỷ đô la. 2.1.2. Tiềm lực khoa học và công nghệ Vì đầu tư  nước ngoài luôn gắn liền với chuyển giao công nghệ  nên nước  đầu tư có tiềm năng công nghệ lớn sẽ khuyến khích các công ty của họ đầu tư  ra nước ngoài để tiêu thụ nguồn công nghệ  này. Thực tế cho thấy những nước  đầu tư ra nước ngoài lớn thường là những nước chiếm tỷ trọng cung cấp công   nghệ  cao trên thị  trường công nghệ  thế  giới. FDI không chỉ  đi theo hướng từ  nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn mà thậm chí chiều ngược lại   còn mạnh mẽ hơn nữa: Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ  để  khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ.  Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ   để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng   vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác   cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra   nước ngoài, trong đó có đầu tư  vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch   Trung Quốc là Lenovo mua bộ  phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa   quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp   cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc)   trong   sáp   nhập   với   Thompson   (Pháp)   thành   TCL­Thompson   Electronics,   việc   National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa   mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy. 19
  20. 2.1.3. Các chính sách xã hội Thông thường, đầu tư  ra nước ngoài và tạo việc làm trong nước có mối   quan hệ ngược chiều nhau. Việc chuyển vốn ra nước ngoài dẫn tới giảm đầu tư  nội địa, do đó làm giảm cơ hội việc làm trong nước. vì thế có khả năng gia tăng  tình trạng thất nghiệp và các vẫn đề xã hội khác. Bởi vậy, nếu nước đi đầu tư  có mức trợ cấp phúc lợi xã hội cao, chủ yếu là trợ cấp thất nghiệp thì sẽ  giảm  được làm sóng phản đối chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. 2.1.4. Khả năng tiếp cận và khai thác nguồn lực ­  Về tìm kiếm nguồn lực:  Mục đích của đầu tư  là để  có được nguồn lực chất lượng cao với chi phí  thấp hơn so với nước sở tại, lao động phổ thông, trung bình hoặc đội ngũ có tay  nghề cao, chuyên môn hóa và có tác phong lao động kỉ luật.Nhờ vậy, nhà đầu tư  có thể tiết kiệm được chi phí đào tạo nhân lực và có khả năng sự thích ứng với  công việc mới của người lao động sẽ cao hơn. ­ Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào  những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Các nhà đầu tư  sẽ  chú ý hơn nếu  nước nhận đầu tư  có các điều kiện như  nguồn khoáng sản dồi dào với trữ  lượng lớn. Tất cả  những điều trên có nghĩa là việc vận dụng các tài sản riêng của   doanh nghiệp ở nước ngoài thông qua FDI sẽ có lợi hơn các cách sử dụng khác.   Để  có mặt trên một thị  trường, các chủ  đầu tư  có nhiều hình thức thâm nhập   khác nhau (xuất khẩu, cấp giấy phép, nhượng quyền, liên doanh góp vốn với   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2