Cách nói và cách viết - Chủ tịch Hồ Chí Minh: Phần 1
lượt xem 40
download
Nội dung Tài liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh với cách nói và cách viết nhằm tìm hiểu về cách nói, cách viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua những lời chỉ giáo, cách viết báo, sáng tác văn học, văn bản bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp cụ thể được thể hiện qua việc dùng từ, đặt câu ... để lí giải cái chung và cái riêng trong phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh. Tài liệu gồm 2 phần, mời bạn đọc cùng tham khảo những bài viết đầu tiên qua phần 1 sau đây.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cách nói và cách viết - Chủ tịch Hồ Chí Minh: Phần 1
- V7ỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN NGÒN NGỮ HỌC CHỦ TỊCH HỔ CHÍ MINH ■ VỚI CÁCH NỐI VÀ CÁCH VIẾT TRƯƠỈ-Ìg u â ih ọ c v ỉm h NHÀ XUẤT BẬN KHOA HỌC XẢ HỘI HÀ NỘI - 2010
- LỜI NHÀ XUẤT BẢN Trong lòi phát biểu tại Đại hội các nhà báo năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: ''Tiếng nói là th ứ của cải vô cùng lảu đời và vô cùng quí báu của dãn tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, làĩĩi cho nó p h ổ biến ngày càng rộng khắp'\ Lòi dạy trên đã đưỢc đúc kết từ cuộc đòi hoạt động cách mạng vĩ đại của Ngưòi, trong đó văn của Ngưồi, lòi nói của Ngưòi là những minh chứng rõ ràng và thuyết phục nhất. Cùng vối những lòi chỉ giáo, Ngưòi đã để lại cho chúng ta những mẫu mực về cách nói, cách viết. Người đã viết báo, sáng tác ván học bằng tiếng Pháp, đã làm thơ Đưòng bằng chữ Hán với một ván phong Đưòng, Tông, đã sử dụng điêu luyện tiếng Việt và tạo ra một phong cách đặc sắc Việt Nam. Các bài nói, bài viết của Người dễ hiểu mà sâu sắc, ngắn gọn mà súc tích, hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Nó phản ánh một trí tuệ uyên bác tuyệt vòi, một vôn vàn hóa vô cùng phong phú, một đạo đức cao cả, một quan điểm sâu sắc và toàn diện vể ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ. Theo quan điểm của Ngưòi, học tập và trau dồi cách nói, cách viết là một mặt quan trọng trong việc rèn luyện đạo đức, tác phong của Ngưòi cách mạng.
- Nhân dịp kỷ niệm 120 nám ngày sinh của Ngưòi, VỚI sự giúp đõ của GS. TS Nguyễn Đức Tồn, Viện trưởng Viện Ngôn học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuôn sách ''Chủ tịch Hồ Chí M inh với cách nói và cách v iế f trên cơ sở cuôn “Ngôn ngữ trong cuộc đồi hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh” vối sự bổ sung một sô" bài viết mới. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Nhà x u ấ t bản K hoa h ọc xả hội
- LỜI NÓI ĐẦU ''Ngôn ngữ trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí MinK' là công trình tập thể, phản ánh một bưốc phát triển mới trong sự tìm tòi và nghiên cứu về ngôn ngữ của Người. Có thể vui mừng mà nhận xét rằng mặc dù chưa có ngưòi chuyên, nhưng lực lượng nghiên cứu về ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ngày một đông hơn. Đối tượng khảo sát được mỏ rộng rõ rệt. Các nhà nghiên cứu không chỉ dừng lại ở sự nghiên cứu phong cách ngôn ngữ của Ngưòi trên cứ liệu trong các ván bản viết bằng tiếng Việt, mà còn khảo sát cả trên cứ liệu trong các ván bản viết bằng tiếng Hán, tiếng Pháp. Các tác giả không chỉ chú ý đến đặc điểm phong cách của Ngưòi thể hiện ở việc dùng từ, đặt câu, mà còn chú ý đến cả những đặc điểm thể hiện ở thể loại văn bản thuộc phong cách chức năng khác nhau, được sử dụng trong những cảnh huông khác nhau. Phương pháp tiếp cận cũng đa dạng hơn và có những đổi mới nhấl định. Đặc biệt đáng chú ý là nhiều tác giả đã vận dụng lý thuyết giao tiếp ngôn ngữ và phong cách học để lý giải cái chưng và cái riêng trong phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh. Thiết nghĩ rằng đó là phương hướng có triển vọng.
- Tất nhiên, những kiến giải được trình bày trong tập sách này cũng mới chỉ là những kết quả bước đầu trong sự nghiên cứu theo phương hướng vừa nêu. Nhân dịp này, tập thể tác giả xin bày tỏ lòi cảm ơn chân thành đốỉ với Viện Ngôn ngữ học và Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, đốì vói các tập thể và cá nhân đã giúp đỡ và tạo điểu kiện thuận lợi cho tập sách này sớm ra mắt bạn đọc. GS. H oàng V ăn H à n h
- TỪ NHỮNG LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỂ NGÔN NGỮ VÀ CÁCH NÓI, CÁCH VIẾT HOÀNG VÃN HÀNH 1. Cho đến nay đã có một sô" công trình nghiên cứu, bình luận nhằm rút ra những bài học từ những lòi phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngôn ngữ và cách nói, cách viết. Song, cũng như ngọc càng mài càng sáng, những lòi dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngôn ngữ, về cách nói, cách viết càng nghiên cứu, càng ngẫm nghĩ, càng thấy thấm thìa về sự sâu sắc và tầm cao trí tuệ của Ngưòi. 2. Trước hết, hãy nói đến những luận điểm về ngôn ngữ. 2.1. Luận điểm thứ nhất là luận điểm nổi tiếng mà Người đã phát biểu nhân dịp nói chuyện với Đại hội các nhà báo năm 1962. Ngưòi dạy: ''Tiếng nói là th ứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng qui háu của dán tộc. Chúng ta phải giữ gin nó, làm cho nó p h ổ biến ngày càng rộng khắp'' (Hồ Chí Minh, 1962). Vế thứ nhất của luận điểrn là sự tổng kết sâu sắc lịch sử đấu tranh bảo vệ tiếng nói dân tộc trong môi quan hệ khăng
- 10 Hocm^ Văn Hành khít vối cuộc đấu tran h bảo vệ nền độc lập và chủ quyền của dân tộc. Thực vậy, sức sông mãnh liệt của tiếng Việt thể hiện rõ rệt ở khả năng đề kháng đôi với chính sách nô dịch và đồng hóa của bọn xâm lược. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, quả là có những thòi kỳ mà tiếng Việt phải đứng trưóc những thử thách gay gắt đến mức tồn tại đưỢc cũng đã là một sự kỳ diệu. Ay thế mà tiếng Việt đã không chỉ tồn tại, tồn tại một cách kiên cưòng, mà còn phát triển. Sự phát triển này đã đưa tiếng Việt đạt tối trình độ một ngôn ngữ ván học với khả năng dồi dào để thực hiện các chức năng xã hội của mình. Và hiển nhiên, tiếng Việt đã trở thành một công cụ sắc bén của văn hóa, nghệ thuật và khoa học, kỹ thuật. Vận mệnh của nó luôn luôn gắn liền với vận mệnh của dân tộc, và do đó bản thân nó dẵ trỏ thành ''thứ của cải vô cừng lâu đời và vô cùng quí báu của dân tóc” (Hồ Chí Minh, 1962). Dĩ nhiên, lịch sử nhân loại cũng đã từng chứng kiến một sô" dân tộc, do những hoàn cảnh lịch sử nhất định, đã chuyển sang sử dụng ngôn ngữ khác, không phải tiếng mẹ đẻ cửa mình. Nhưng hiện tượng đó phải cháng củng chỉ là ngoại lệ. Bởi lẽ, hiện tưỢng đó ít mang tính phổ biến và chỉ xảy ra trong những điều kiện lịch sử đặc biệt. Vế thứ hai của luận điểm khẳng định vai trò và tác động tích cực của cộng đồng ngưòi bản ngữ đốỉ với tiếng nói của mình. Đây thực sự là vấn đề thuộc về quan điểm. Trong cuộc đâu tranh để giải phóng dân tộc, thì ý thức đôi với ngôn ngữ và truyền thông văn hóa của dân tộc là sự biểu hiện của lòng yêu nước. Khẳng định ý thức ''giữgin \ ''quí trọng'' và làm cho
- Từ ahững lời dạj của Chủ tịch Hồ Chí Minh- 11 tiếng nói dân tộc ^^ngày càng được phổ biến rộng khắp'' là khẳng định một ý thức dân tộc sâu sắc, một ý chí tự lập, tự cưòng, nhằm chông lại đầu óc nô lệ, ''đầu óc quen ỷ lạĩ' (Hồ Chí Minh, 1962) ở những ngưòi đã từ sự coi thường khả năng cửa tiếng mẹ đẻ mà có thái độ không đúng đắn đối với di sản quí báu của ông cha để lại. Đây là lời nhắc nhở vể trách nhiệm của các thế hệ con cháu đôi với tiếng nói của dân tộc. Đồng thòi, đây cũng là lòi tuyên chiến nhằm chông lại chính sách ngu dân, chính sách nô dịch và đồng hóa. Rõ ràng là sự đấu tran h tư tưởng trên mặl trận ngôn ngữ cũng như trên mặt trận văn hóa là một bộ phận kháng khít của sự nghiệp đấu tranh để bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. 2.2. Luận điểm thứ hai được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu cũng vào những nám 60, nhân dịp các nhà ngôn ngữ học, các nhà văn hóa, ván nghệ chuẩn bị Hội nghị khoa học về vâ^n để cải tiến chữ quôc ngữ. Ngưòi dạy: ''Phải dựa vào nó (tiếng nói ~ HVH) mà phát triển nó là chính, vay mượn là p h ụ ' (Hồ Chí Minh, 1970). Luận điểm nàv xác định cho chúng ta một quan điểm rất khoa học, rất biện chứng đôi vối ngôn ngữ, một hiện tưỢng xã hội tồn tại trong thực tế khách quan. Với tư cách là một hiện tượng của thế khách quan, ngôn ngữ tự vận động, tự phát triển theo qui luật bên trong của nó, ngoài ý muôn chủ quan của con người. Nhưng đồng thòi, với tư cách là một hiện tưỢng xã hội đặc biệt, các ngôn ngữ củng như các nền ván hóa không tồn Lại một cách cô lập, mà nằm trong những môi tương quan mật thiết, luôn luôn ảnh hưởng và tác
- 12 Hoàng Văn Hành động lẫn nhau. Vì thế, sự vay mượn và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ cũng là điều bình thường và tất yếu. Cho nên, con đưòng làm cho ngôn ngữ ngày một hoàn thiện và trở nên phong phú để đáp ứng yêu cầu của xã hội là: Một mặt, phải đưa vào và thúc đẩy những quá trình lành mạnh, thuận theo những qui luật bên trong của nó. Mặt khác, không khước từ sự tiếp thu, sự vay mưỢn một cách có chọn lọc những yếu tô' từ ngoài vào. Song, tư tưởng chỉ đạo thể hiện trong luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưỢc xác định rõ ràng: con đưòng thứ nhất là chính; còn con đường thứ hai là phụ. Tư tưởng này rất biện chứng nên cũng rất khoa học. Đó là thái độ khoa học của những ngưòi theo chủ nghĩa Marx đốì với các qui luật của thế giới khách quan. 2,3. Luận điểm thứ ba được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu ở nhiều nơi, dưới những dạng khác nhau. Đó là luận điểm về tiếng nói chung của cả nước và tiếng nói của các dân tộc thiểu sô" anh em. Kế thừa những tư tưởng của Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng tiếng nói thông nhất là một trong những dấu hiệu quan trọng của một dân tộc thông nhâ't. Ngưòi viết: ''Nước Việt N am là một khối thống nhất không th ể chia cắt được, Dân tộc Việt N am đã xăy đắp Tổ quốc minh suốt từ Nam chí Bắc, cùng chung một lịch sử, một tiếng nói, một nền kinh tế, cùng đứng lên đánh đuổi thực dãn. Dân tộc Việt Nam kiên quyết đấu tranh thống nhất nước nhấ' (Hồ Chí Minh, 1960, tr. 670).
- Từ những lòi dạỵ của Chủ tịch nổ Chí Minh... 13 Luận điểm này khẳng định nước Việt Nam là một nước thông nhất ‘‘từ Nam chí Bắc”, mặc dù giữa các phương ngữ Nam và Bắc vẫn có những nét riêng. Đồng thòi sự thông nhất tiếng nói của cả nước, của cả dân tộc (hiểu với nghĩa rộng) không hề hạ thâp hay phủ nhận vai trò của ngôn ngữ các cộng đồng dân tộc (hiểu vối nghĩa hẹp) trong một quốc gia đa dân tộc. Ngay thực tế của nưổc Pháp, một nước đế quôc chủ nghĩa, cũng không phủ nhận điều ấy. Năm 1946, khi thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Dđ/I Basque tuy vẫn giữ được những màu sắc riêng, ngôn ngữ riêngy phong tục riêngy nhưng vẫn là dân Pháp. Nước Pháp tuy có nhiều tỉnh khác nhau nhưng vẫn là ìiước Pháp thống nhất và không thể chia xẻ được'" (Hồ Chí Minh, 1960, tr. 240). Những lòi phát biểu vừa dẫn khẳng định rằng ngôn ngữ thống nhất là một trong những dấu hiệu đặc trưng cho một dân tộc thông nhất. Đồng thòi trong một quốc gia thông nhất vẫn chấp nhận sự tồn tại ''những màu sắc riêng, ngôn ngữ riêng, phong tục riêng’' (Hồ Chí Minh, 1960). Về sau, tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưỢc pháp qui hóa. Khi trình bày bản báo cáo về Hiến pháp nưốc Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: ''Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc, Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều binh đẳng vể quyền lợi và nghĩa v ĩị ' (Hồ Chí Minh, 1960, tr. 325).
- 14 Hoàn^ Vân Hành Những tư tưởng này là những tư tưởng chỉ đạo có tính chất nguyên tắc đôì với việc chế định Quyết định 1Õ3/CP và Quyết định 53/CP của Hội đồng Chính phủ (nay là Hội đồng Bộ trưởng) về chủ trương đôi với tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu sô" ở nước ta. 3. Trong cuộc đòi hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng ngôn ngữ không phải chỉ như một phương tiện giao tiếp bình thường, mà còn như một vũ khí đấu tranh cách mạng sắc bén. Quả vậy, ngay từ những năm 20 của thế kỷ này, Ngưòi đã viết trong lòi nói đầu cuôn Đưòng Kách mệnh như sau: “Van chương và hy vọng của sách này chỉ nằm trong hai chữ: Kách mệnh! Kách mệnh! Kách m ệ n h n r (Hồ Chí Minh, 1962, tr. 4). Đây là lòi tuyên ngôn vừa trang trọng, vừa tha thiêt, thê hiện tính khuynh hướng, tính đảng sâu sắc củà Ngưòi trong ''văn chương". Thật là hạnh phúc cho chúng ta, khi đưỢc vinh dự đón nhận ở Ngưòi những kinh nghiệm phong phú về cách nói, cách viết. Những kinh nghiệm này đã được Ngưòi đích thân tổng kết một cách có hệ thông trong “Sửa đổi lôì làm việc” trong “Cách viết”. Có thể nói một cách có cán cứ rằng sự tổng kết những kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt tới đỉnh cao vể m ặt lí thuyêt, có giá trị lớn về lí thuyêt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến bôn vâ^n đê trong việc sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp dưới hình thức nói, hay viết. Ấy là:
- Từ những lòi dạy của Chủ tịch nồ Chi Minh- 15 1. ‘^ i ế t c h o ai?” 2. ‘"Viết để làm gì?” 3. ‘^ i ế t cái gì?” 4. “Cách viết th ế nào?” (Hồ Chí Minh, 1953, tr. 3 - 9). Những câu hỏi thật là giản dị mà cơ bản biết bao! Lý thuyết về giao tiếp bằng lòi do một sô' nhà khoa học trình bày trong những năm 60-70 (chẩng hạn R. Jakobsson, 1963) cũng đật ra chính những câu hỏi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta ngay từ những năm ÕO! Cũng xin nói thêm rằng chỉ mới từ một, hai thập kỷ lại đây, sau khi nhận ra được là đã quá thiên về sự nghiên cứu câu trúc ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học mối quay trở lại coi trọng hơn sự nghiên cứu chức năng của nó. Vì th ế mà lý thuyết giao tiếp bằng lòi ra đòi và ngày càng trở nên có sức hâp dẫn đặc biệt. Theo sự hình dung của các nhà nghiên cứu, thì sự giao tiếp bằng lòi diễn ra theo một cơ chế nhất định, gọi là cơ chế giao tiếp ngôn ngữ. Cơ chế này bao gồm những nhán tô" cơ bản là; người nói, hay viết (A), ngưòi nghe, hay đọc (B), lòi được chuyển thông từ ngưồi nói đến ngưòi nghe (L), đường chuyển thông lòi gọi là kênk chuyển thông (K). Ngoài bôn nhân tố^ trên đây, còn có ba nhân tô" tuy không trực tiếp tạo nên cơ chế giao tiếp, nhưng có tác dụng chỉ định đôi với cơ chế giao tiếp ở những mức độ khác nhau, đó là: 1) cảnh huông, trong đó diễn ra sự giao tiếp bằng lòi (H); 2) hệ thông chuẩn văn hóa
- 16 Hoàng Văn Hành chung, trong đó có chuẩn ngôn ngữ đưỢc dùng làm phương tiện giao tiếp (S); và 3) thực tế khách quan được phản ánh trong lòi thông qua chuẩn văn hóa. Căn cứ vào những câu hỏi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra, thì có thể thấy rằng Người đứng từ góc độ của ngưòi nói, hay viết (A) trong cơ chế giao tiếp ngôn ngữ. Từ góc độ này, Người để ra những yêu cầu trong việc xử lí các mốì quan hệ giữa các n hân tô" trong quá trìn h vận h ành của cơ chế giao tiếp. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người nói hay viết có vai trò đặc biệt quan trọng trong tư cách là chủ thê của quá trinh giao tiếp ngôn ngữ. Vai trò này thể hiện ở những điểm sau đây: a) Có sự tích cực và chủ động trong việc chuẩn bị trưốc khi nói, hay viết. Quá trìn h chuẩn bị này đòi hỏi ngưòi nói, hay viết phải điều tra, nghiên cứu, biết rõ điều định nói hay viết. “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết” (Hồ Chí Minh, 1959, tr. 95). Mà để “biết rõ”, thì phải chịu khó “nghe”, “hỏi”, “thấy”, “xem ” và “g h r , “chép” lại (Hồ Chí Minh, 1953, tr. 3-9). Đây thực chất là quá trìn h đi vào thực thế, tích lũy tri thức để làm giàu cho vốn hiểu biết của mình. Nhưng “biết rõ” rồi vẫn chưa đủ. Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận. Phải nhớ câu tục ngữ: “Chó ba quanh mới nằm. Người ba năm mới nói” (Hồ Chí Minh, 1959, tr. 96).
- Từ những lòi dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh- 17 "'Nghĩ cho chín" và “sắp đặt cẩn thận” là sự làm việc của bộ não ngưồi nói, hay viết, là quá trình chuẩn bị có định hướng, quá trình xác định chủ đề, lập tứ, bô"cục v.v... Đây là sự chuẩn bị trực tiếp cho việc nói, hay viết. b) Ngưòi nói, hay viết phải xác định chủ đích của mình, thuyết phục người nghe, hay đọc. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt đến mục đích và hiệu quả của sự nói năng: “Viết đ ể làm gì?”. Người cho rằng khi nói, hay viết “mỗi câu, mỗi chữ có một ý nghĩa, một mục đích” (Hồ Chí Minh, 1959, tr. 88). “Mìn/i uiết ra cốt là đ ể giáo dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu đưỢc là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích" (Hồ Chí Minh, 1953, tr. 3 - 9). Mục đích nói hay viết là chiến lược của sự giao tiếp ngôn ngữ. Nó là cái người nói, hay viết nhằm đạt tới ở ngưòi nghe, hay đọc; là cái qui định nội dung và cách thể hiện của lòi. c) Đê’ đạt được mục đích, đạt đưỢc hiệu quả cao trong sự giao tiếp ngôn ngữ, người nói, hay viết phải có ý thức trong việc tạo ra lòi vối những phẩm chất nhất định về nội dung và hình thức. “Nhiều người cứ tưởng: minh viết gi, nói gi, người khác củng đều hiểu cả. Thật ra, hoàn toàn không như thể' (Hồ Chí Minh, 1959, tr. 88). Trong cách nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì phẩm chất của lời cần thế này, hay th ế kia là tùy thuộc vào rất nhiều nhân tô", trong đó có mục đích, đốì tượng và hoàn cảnh của sự giao tiếp. Quả vậy, lồi với tư cách là tác phẩm nghệ thuật, thì
- 18 Hoàng Văn Hành cần có nội dung “chân thực”, hình thức “vui tươi”, “hấp dẫn”. Lời của những người viết báo, những cán bộ tuyển truyền... thì cần “gọn gàng, có đầu có đuôi, có nội dung” (Hồ Chí Minh, 1953, tr. 3 - 4 ) . Trong cơ chế giao tiếp, lòi vừa là sản phẩm vừa là phương tiện của người nói, hay viết. Đó là hình thái của ngôn ngữ trong hành chức. Do đó, lòi luôn luôn phụ thuộc vào A, với những đặc điểm riêng về tư tưỏng, về thái độ đối với T. Nó phản ánh, hay đúng hđn là thể hiện dụng ý của người viết, ngưòi nói đốì vối người đọc, người nghe. Sự phụ thuộc này dĩ nhiên là có giới hạn, có tính chất tương đối. Điều đó cũng dễ hiểu, vì trong cd chế giao tiếp, lòi là một thực thể đa chức năng. Trong quan hệ vối A, lòi làm chức năng biểu cảm. Trong quan hệ với B, lòi làm chức năng thông báo. Trong quan hệ vối T, lòi làm chức năng phản ánh. Trong quan hệ với cả A lẫn B, lòi làm chức năng đồng cảm; v.v... Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên người nói, hay viết dành sự chăm sóc đặc biệt đốl với nội dung và hình thức của lời. Nói đến nội dung của lời là nói đến vấn đề “Viết cái gì?”, là nói đến quan hệ giữa lồi vối thực tế, quan hệ giữa cái phản ánh và cái được phản ánh. Trong công tác tuyên truyền cách mạng, cái thực tế lớn n h ất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng quan tâm là cuộc đấu tran h vĩ đại của toàn Đảng, toàn dân ta nhằm giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên, nội dung lòi của cán bộ tuyên truyền, của nhà báo, nhà văn cách mạng phải phản ánh chân thực cái thực tế vĩ đại ấy. Mà muôn thế, “trong vấn đề này (vấn đề Viết cái gì? - HVH) phải
- Từ những lòi dạỵ của Chủ Lịch nồ Chí Minh... 19 CÓ lập trường vững vàng: ta, bạn thù, th ỉ m ới viết đ ú n ^ ' (Hồ Chí Minh, 1953, tr. 3). Còn nói đến hình thức thể hiện nội dung của lòi là nói đến vấn đề “Cách viết thế nào?” Trong cách nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây không phải chỉ là chuyện câu chữ, mà còn là sự truyền cảm, sức thuyết phục: cho thấm thìa'' cho %ọt tai quần chúng^' (Hồ Chí Minh, 1953, tr. 3; 1959, tr. 89). Để có được lòi thể hiện đúng ý đồ của người nói vối nội dung và cách thể hiện thích hỢp với hoàn cảnh giao tiếp, thì ngưòi nói phải hiểu biết người nghe. Điều này cực kỳ quan trọng, vì ''muốn làm bạn, phải hiểu nhau. Nếu không hiểu nhau, không thành bạn. Người tuyên truyền không điều tra, không phân tích, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, hạ gi viết nấy, nhất định thất bại (Hồ Chí Minh, 1952, tr. 89). Những điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi người nói, hay viết phải hiểu biết về người nghe, hay đọc là: a) Hiểu biết trình độ của người nghe, hay đọc để "'viết cho đúng trinh độ của người xem" (Hồ Chí Minh, 1953, tr. 3 - 9). b) Hiểu biết tẳm lí, nguyện vọng của người nghe, hay đọc. “Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải tả rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng’' (Hồ Chí Minh, 1959, tr. 95). c) Hiểu biết tiếng nói, cách nói của người nghe, hay đọc. '‘Chúng ta muốn tuyên truyền quẩn chúng, phải học cách nói
- 20 Hoàng Văn Hành của quần chúng, mới nói lọt tai quần chúng” (Hồ Chí Minh, 1959, tr. 89). d) Hiểu biết hoàn cảnh của sự giao tiếp để có cách nói, cách viết thích hỢp. Ba yêu cầu a, b, c là những đòi hỏi về sự đồng cảm giữa người nói, hay viết vổi người nghe, hay đọc. Sự đồng cảm này chỉ có thể có được khi người nói và người nghe có chung một vôn văn hóa, trong đó có chuẩn ngôn ngữ. Đây là điều kiện quan trọng để rú t ngắn khoảng cách giữa người nói và người nghe, khiến cho những điều mà người nói ra đưỢc người nghe hiểu một cách dễ dàng. Còn điều yêu cầu thứ tư (d) là yêu cầu tính đến hoàn cảnh rộng của sự giao tiếp ngôn ngữ. Yêu cầụ này có tác dụng đảm bảo cho lời được tạo ra. 4. Từ sự phân tích giữa luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ngôn ngữ và cách nói, cách viết trên đây, có thể rút ra những hệ luận có giá trị như những nguyên tắc phương pháp luận trong sự nghiên cứu ngôn ngữ và phong cách ngôn ngữ. Những hệ luận ấy phải chăng là: a) Nghiên cứu một ngôn ngữ, như tiếng Việt chẩng hạn, trong tiến trình lịch sử của nó không thể tách ròi với lịch sử đấu tranh để bảo vệ độc lập và chủ quyền của dân tộe nói thứ ngôn ngữ ấy. b) Nghiên cứu ngôn ngữ với tư cách một khách thể tồn tại độc lập nhưng không thể xem nó như một hiện tượng cô lập.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nội dung Thông cáo báo chí
2 p | 749 | 173
-
Tìm hiểu về Đình và đền Hà Nội: Phần 1
100 p | 168 | 65
-
Trích các bài nói và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hồ Chí Minh bàn về quân sự: Phần 1
124 p | 185 | 50
-
Cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam hiện nay
11 p | 223 | 31
-
Cách nói và cách viết - Chủ tịch Hồ Chí Minh: Phần 2
151 p | 113 | 31
-
Tìm hiểu về một số vấn đề cách dạy và cách học: Phần 2
145 p | 114 | 26
-
Bài giảng Cách viết tin, bài cho trang tin điện tử - Nguyễn Thị Tươi
17 p | 144 | 15
-
Đề cương chi tiết môn học: Văn bản Hán văn Việt Nam
8 p | 130 | 8
-
Bàn về cách mạng Việt Nam trong báo cáo Đại hội đại biểu tháng 2 năm 1951: Phần 2
53 p | 55 | 6
-
Tìm hiểu về Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Phần 2
231 p | 6 | 5
-
Học tập phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh
7 p | 52 | 4
-
Phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh và vận dụng trong nghiên cứu khoa học hiện nay
8 p | 56 | 3
-
Phong cách học tiếng Việt: Phần 2
192 p | 6 | 3
-
Ngữ điệu lên trong tiếng Anh ở người Hà Nội và cách thể hiện tương đương trong tiếng Việt
8 p | 40 | 1
-
Hướng dẫn phương pháp viết luận văn khoa học bằng tiếng Anh: Phần 1
108 p | 1 | 1
-
Thử gợi lên những suy nghĩ về đổi mới cách quản lý của một Viện nghiên cứu khoa học - Phạm Bích San
0 p | 65 | 0
-
Các nguồn lực nội sinh có thể được sử dụng để đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam trong bối cảnh tự chủ hiện nay
8 p | 4 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn