36 Xã hội học, số 1 - 2009<br />
<br />
<br />
<br />
GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ VÀ THÔN LÀNG VỚI TƯ CÁCH<br />
LÀ CÁC GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA VĂN HOÁ LÀNG VIỆT<br />
<br />
MAI VĂN HAI<br />
<br />
I<br />
Lâu nay, trên sách báo, chúng ta thường bắt gặp những bài viết về mâu thuẫn,<br />
xung đột trong gia đình, dòng họ, thôn làng xảy ra ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác.<br />
Trước thực tế đó, nhiều người lo ngại rằng trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại<br />
hoá và nhất là trong điều kiện đô thị hoá nhanh và sự tác động mạnh mẽ của nền kinh<br />
tế thị trường, liệu rồi đây gia đình, dòng họ và thôn làng có còn tồn tại những giá trị cơ<br />
bản nữa hay không, hay chúng bị mai một dần để cuối cùng đi đến tan rã.<br />
Để góp phần trả lời câu hỏi trên, trong 2 năm 2005 - 2006, Viện Xã hội học đã<br />
triển khai đề tài cấp Bộ ‘‘Một số giá trị của văn hoá làng Việt vùng châu thổ sông<br />
Hồng trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đậi hoá đất nước’’ nhằm tìm hiểu quan<br />
niệm và hành vi của chính người nông dân nông thôn về vấn đề này. Địa bàn khảo sát<br />
được chọn mang tính đối sánh 2 làng Tam Sơn và Đồng Kỵ, đều thuộc huyện Từ Sơn,<br />
tỉnh Bắc Ninh. Do khuôn khổ bài viết có hạn, ở đây chúng tôi không giới thiệu kỹ về<br />
địa bàn, phương pháp nghiên cứu, mà trình bày ngay một số kết quả thu được.<br />
II<br />
Giả thuyết thứ nhất của cuộc nghiên cứu là: Trong điều kiện kinh tế - xã hội như<br />
hiện nay, các giá trị cơ bản của văn hoá làng như gia đình, dòng họ và thôn làng đang<br />
giảm dần ý nghĩa đối với người dân nơi làng xã. Kết quả điều tra cho thấy, người dân<br />
trên địa bàn hiểu rất rõ những hạn chế, bất cập của cả 3 thiết chế cổ đã nêu. Chẳng hạn,<br />
ở Tam Sơn và Đồng Kỵ cũng có người cho rằng cuộc sống gia đình hiện nay với các<br />
công việc cơm áo gạo tiền làm ‘‘tiêu tốn nhiều thời gian, sức lực’’, các chuẩn mực gia<br />
đình thì ‘‘gò bó, cản trở tự do cá nhân’’, thậm chí có người còn nói ‘‘không có gia đình<br />
người ta vẫn sống được’’. Với dòng họ, thì bên trong nội bộ cũng có tư tưởng ‘‘gia<br />
trưởng, ngôi thứ’’, về đối ngoại tuy không có chuyện cục bộ, bè phái nhưng cũng có<br />
việc ‘‘ganh đua giữa các dòng họ’’. Còn thôn làng thì đầy những mặt trái như ‘‘các<br />
khoản đóng góp cho làng nhiều và nặng nề’’, ‘‘trong làng có nhiều mâu thuẫn’’, rồi tư<br />
tưởng ‘‘cục bộ, bản vị’’, ‘‘tranh chấp đất đai’’, v.v...<br />
Tuy nhiên các số liệu khảo sát ở cả Tam Sơn và Đồng Kỵ đã không xác nhận<br />
cho giả thuyết đã nêu. Trái lại, trong tổng số 420 hộ gia đình được phỏng vấn có từ<br />
97% đến 99.6% đã khẳng định rằng hiện thời gia đình, dòng họ và thôn làng vẫn có<br />
vai trò ‘‘quan trọng’’ hoặc ‘‘rất quan trọng’’ và điều thú vị là sự đánh giá này có sự<br />
thống nhất ở tất cả các nhóm khác nhau về giới, lứa tuổi, mức sống, nghề nghiệp,<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Mai Văn Hai 37<br />
<br />
v.v...<br />
Sở dĩ người dân đánh giá cao vai trò của gia đình như thế vì họ cho rằng đó là<br />
‘‘nơi không chỉ đáp ứng nhu cầu tình cảm và tái sinh giống nòi’’ mà còn là nơi ‘‘tốt<br />
nhất cho việc di dưỡng tuổi già’’, cho ‘‘sự phát triển của trẻ em’’. Trong tâm tưởng của<br />
người dân, dòng họ cũng có vai trò không kém. Gần 100% số người được hỏi cho rằng<br />
đến nay các câu nói theo khẩu ngữ dân gian như ‘‘một giọt máu đào hơn ao nước lã’’,<br />
hay ‘‘xảy cha còn chú, xảy mẹ bú dì’’ ‘‘vẫn đúng’’ hoặc ‘‘đúng một phần’’ ; số người<br />
cho là ‘‘không đúng nữa’’ hoặc ‘‘khó nói’’ chỉ đạt 0.3% đến 3.5%. Còn thôn làng được<br />
đánh giá cao vì nó là ‘‘nơi mồ mả tổ tiên’’, là ‘‘quê hương bản quán mà ai cũng phải<br />
có’’.<br />
Chẳng những thế, khi đặt vấn đề từ góc nhìn lịch sử, cuộc nghiên cứu còn phát<br />
hiện ra rằng, trong quan niệm của đại đa số người dân, vai trò của gia đình, của dòng<br />
họ và thôn làng hiện nay lớn hơn thời bao cấp, và trong tương lai vai trò đó còn lớn<br />
hơn cả hiện nay.<br />
Xuất phát từ yêu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong xu thế<br />
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế thì sự đánh giá như trên là rất đáng phấn khởi. Nhưng<br />
nếu đặt trong điều kiện cụ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khi không<br />
chỉ có gia đình, mà cả dòng họ và thôn làng đều có sự biến động mạnh mẽ, thậm chí<br />
nhiều làng mạc sẽ mất đi để nhường chỗ cho phường cho phố, người ta phải băn khoan<br />
tự hỏi : Liệu sự đánh giá như trên có lạc quan hay không ?<br />
Giải nỗi băn khoăn này, theo chúng tôi, không gì tốt hơn là cần tìm hiểu xem<br />
hành vi của người dân có phản ánh đúng như những gì họ quan niệm về gia đình, dòng<br />
họ và thôn làng hay không ? Nói rộng ra là phải phát hiện cho được cái cơ sở xã hội<br />
nào đã đảm bảo cho sự đánh giá của người dân là đúng với những gì họ nghĩ. Với tinh<br />
thần này, dưới đây sẽ trình bày từng giá trị một.<br />
III<br />
1. Gia đình. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây đã chỉ ra, sau 20 năm đổi mới,<br />
gia đình ở Việt Nam đã có nhiều biến đổi. Tam Sơn và Đồng Kỵ cũng không là ngoại<br />
lệ. Về mặt kinh tế, từ chỗ chỉ có chức năng tiêu thụ dưới thời hợp tác xã bao cấp, từ khi<br />
đổi mới, gia đình trở thành một đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất và kinh<br />
doanh, nên ngành nghề phát triển, mức sống cao hơn, điều kiện sống được cải thiện...<br />
Trong quan hệ gia đình, nếu trước đây những bất cập nổi bật là sự bất bình đẳng, sự thủ<br />
tiêu lợi ích cá nhân, cá tính thì ngày nay - sau nhiều cuộc cải cách xã hội, quan hệ giữa<br />
vợ và chồng, bố mẹ và con cái có tính dân chủ hơn, do đó vị thế xã hội của người phụ<br />
nữ được nâng cao, quyền tự do của mỗi cá nhân được coi trọng. Xét theo cơ cấu, ở mỗi<br />
gia đình, số con đã giảm xuống, việc sinh con trai để ‘‘nối dõi tông đường’’ không còn<br />
là nguyên tắc bất di bất dịch, tỷ lệ ly hôn ở đây chỉ chiếm chưa đến 1%. Từ góc độ văn<br />
hoá tinh thần, các hình thức hưởng thu văn hoá mới như xem tivi, nghe rađio, nghe<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
38 Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là...<br />
<br />
nhạc, đọc sách báo... đã chiếm tỷ lệ áp đảo. Nếp sống mới khuyến khích việc đưa con<br />
cháu nhỏ tới lớp mẫu giáo để bố mẹ, ông bà có thêm thời gian lao động, nghỉ ngơi cũng<br />
được hầu hết các nhóm xã hội ủng hộ, v.v...<br />
Rõ ràng, những biến đổi theo chiều hướng ngày càng no đủ, bình đẳng, dân chủ<br />
và văn minh như thế đang làm tăng thêm vai trò và làm vững chắc thêm vị trí của gia<br />
đình, chứ không phải ngược lại.<br />
Nhưng, bên cạnh cái động, cái biến đổi trong gia đình cũng có cái tĩnh, cái ít biến đổi<br />
hơn. Ấn tượng đầu tiên của nhóm nghiên cứu đến Tam Sơn và Đồng Kỵ là đời sống gia<br />
đình nơi đây vẫn bảo lưu nhiều nét của gia đình cổ truyền. Chẳng hạn, ở Đồng Kỵ - nơi có<br />
mức sống rất cao, riêng nguồn thu từ các nguồn sản phẩm thủ công mỹ nghệ đồ gỗ đem lại<br />
thu nhập cho nhiều hộ mỗi năm hàng trăm triệu - người dân vẫn không xa rời với truyền<br />
thống nông nghiệp. Hầu như nhà nào cũng giữ đất canh tác, nhiều hộ có trên 10 sào, số hộ<br />
không còn đất chỉ chiếm 5.6%. Hơn nữa, họ vẫn tự sản xuất - kinh doanh trên phần ruộng<br />
của mình, số cho thuê, cho mượn không đáng kể, vì vậy các hộ hầu hết đều có thu nhập thấp<br />
từ trồng trọt và chăn nuôi. Trong sinh hoạt hàng ngày, gần 100% các gia đình ở cả hai làng<br />
vẫn giữ thói quen ăn chung cho tất cả mọi người trong nhà 3 bữa sáng, trưa và tối. Giữa các<br />
thế hệ lại luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ và ấm áp. Với những người có bố mẹ còn sống, dù<br />
không ở cùng nhà, song họ vẫn giúp đỡ và thăm nom hàng ngày hoặc hàng tuần. Còn những<br />
người có con cái còn nhỏ, khi được hỏi ‘‘về già thích sống với ai’’, có đến 39% vẫn giữ nếp<br />
sống cổ truyền là thích sống với con trai trưởng, v.v...<br />
Như vậy, không chỉ những yếu tố động, biến đổi mà cả những yếu tố bền vững, ít<br />
biến đổi đều góp phần củng cố sự bền vững cho gia đình, với tư cách là một giá trị<br />
trong hệ giá trị văn hoá làng.<br />
2. Dòng họ. Chúng ta đều biết, từ khi hợp tác xã nông nghiệp bị giải thể, các hộ<br />
nông thôn phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh trên phần ruộng được giao khoán lâu<br />
dài của mình. Trong điều kiện đó, để có thể tồn tại và phát triển, người nông dân đã<br />
quay trở về tìm chỗ dựa trong các mối quan hệ của họ hàng thân tộc nhằm khắc phục<br />
những khó khăn của buổi đầu tự lập như công cụ, sức lao động, vốn liếng, kỹ thuật,<br />
v.v... Việc điều tra hồi cố cho thấy ở thời điểm ấy có đến 81.9% số người ở Tam Sơn<br />
và Đồng Kỵ khi gặp khó khăn đã nhờ vả nương tựa vào họ hàng nội ngoại, nhất là các<br />
mối quan hệ cận huyết. Còn ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã len lách vào mọi<br />
ngõ ngách của cuộc sống trong việc kinh doanh ở Đồng Kỵ, khi cần lao động người ta<br />
vẫn ưu tiên cho ‘‘họ hàng’’ tới 19.4%, ở Tam Sơn tiêu chuẩn này còn đạt tới 41%.<br />
Những con số thống kê này chứng tỏ là, dẫu không đóng vai trò như một đơn vị kinh<br />
tế, song trong thời kỳ đổi mới dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, dòng họ và<br />
các quan hệ họ hàng vẫn có vai trò quan trọng về mặt kinh tế.<br />
Trên bình diện quản lý và quyền lực, người ta thường nói đến tệ kéo bè kéo cánh<br />
của dòng họ. Nhưng điều đó có mang tính phổ biến và ảnh hưởng tiêu cực của nó có<br />
thực sự to lớn không? Kết quả nghiên cứu trả lời là không. Bởi vì, nếu như trước đây ở<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Mai Văn Hai 39<br />
<br />
nông thôn, với sự đan xen của nhiều nguyên lý tập hợp người khác nhau như lớp tuổi<br />
(giáp), địa vực (xóm, ngõ), sự tự nguyện (phe, phường, hội) và nhất là về kinh tế (giai<br />
cấp, tầng lớp) làm cho dòng họ không phải là một đơn vị thống nhất và duy nhất để có<br />
thể khuynh loát mọi điều, thì ngày nay, với sự bổ sung của các nhân tố mới như Đảng,<br />
các đoàn thể và nhất là sự tác động của kinh tế thị trường, các quan hệ dòng họ càng<br />
không thể giữ vai trò quyết định trong đời sống chính trị - xã hội trong làng xã.<br />
Tại địa bàn khảo sát, khi làm việc với đội ngũ lãnh đạo, kể cả những người đã<br />
nghỉ và những người đương chức, câu hỏi đặt ra là: ‘‘Trong những năm làm quản lý,<br />
ông/bà có ưu đãi gì đặc biệt cho người trong họ không?’’. Tất cả khẳng định ‘‘không<br />
có ưu đãi đặc biệt’’. Người ta có thể chưa thật tin vào sự khẳng định này. Nhưng khi<br />
kiểm chứng qua người dân ở câu hỏi ‘‘Ông bà nghĩthế nào về thành ngữ : Một người<br />
làm quan cả họ được nhờ’’ thì 85.9% số người được hỏi nói rằng câu ấy ngày nay<br />
‘‘không đúng nữa’’, số người cho là ‘‘vẫn đúng’’ chỉ chiếm 14.1%. Cũng như vậy ở<br />
câu hỏi ‘‘tiêu chuẩn bầu chọn người lãnh đạo’’ ở địa phương có 75% đến 94% nói là<br />
bầu chọn cho ‘‘ người có năng lực quản lí’’, ‘‘người có đạo đức trong sạch’’, rồi<br />
‘‘người làm kinh tế giỏi’’, chứ rất ít người nói bầu cho ‘‘người trong họ’’. Thái độ và<br />
cách ứng xử khá nhất quán từ người quản lí đến người dân ở Tam Sơn và Đồng Kỵ<br />
chứng tỏ sự ‘‘kéo bè kéo cánh’’ trong các dòng họ dẫn đến tình trạng mất đoàn kết<br />
trong xóm làng thực sự không phải trầm trọng và mang tính phổ biến như nhiều người<br />
vẫn tưởng. Và điều này, đương nhiên làm cho hình ảnh dòng họ ngày càng đẹp hơn<br />
trong đời sống ở nông thôn, chứ không phải ngược lại.<br />
Về văn hoá tinh thần, nhờ việc tạo ra ‘‘một nền cộng cảm dựa trên huyết thống’’,<br />
dòng họ từ xưa đến nay vẫn là chỗ dựa ‘‘vững chãi và vĩnh hằng’’ của từng thành viên<br />
của nó. Đúng như nhận xét của Trần Từ, rằng bất luận trong hiện thực có diễn ra như<br />
thế nào thì trong ‘‘cấu trúc hữu thức’’, tức là trong quan niệm của người dân, dòng họ<br />
vẫn có vị trí và vai trò cực kì quan trọng. Nhưng không chỉ dừng lại ở ý nghĩ hay quan<br />
niệm, việc đề cao dòng họ ở phương diện văn hoá hay tinh thần còn được thể hiện ở<br />
các hành vi cụ thể của mỗi người, như sự tham dự của dòng họ trong các ngày giỗ tổ,<br />
trong việc sửa sang từ đường, xây cất mồ mả tổ tiên hay trong các việc cưới xin, ma<br />
chay, khuyến học, khuyến tài trong dòng họ. Có thể nói, nếu dòng họ không còn ý<br />
nghĩa thì không có lí do gì để người ta tin tưởng và tham gia vào các hoạt động kể trên<br />
một cách đầy đủ, nhiệt tình và hào hứng như vậy.<br />
3. Thôn làng. Nói đến thôn làng với tư cách là một giá trị, trước hết người ta<br />
muốn nói đến tâm lí cộng đồng làng. Trong điều kiện của nền sản xuất ‘‘tự cấp tự<br />
túc, tự sản tự tiêu’’ thì quả là tâm lý cộng đồng làng có một vai trò rất quan trọng.<br />
Nhưng cần nhớ rằng tâm lí đó không phải bây giờ mới có, mà đã được hình thành,<br />
tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, nó không chỉ ăn sâu vào tâm tính của những<br />
người hiện đang sinh sống tại làng, mà còn có cả ở những người đã xa quê hương bản<br />
xứ từ nhiều đời. Không phải ngẫu nhiên khi bàn về sức sống của dân tộc, có người đã<br />
nói ‘‘không có làng xã Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam’’. Một tác giả khác<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
40 Gia đình, dòng họ và thôn làng với tư cách là...<br />
<br />
cũng khẳng định rằng, cho đến nay, mỗi người Việt Nam đều là một người làng - dù<br />
họ sống ở bất cứ nơi đâu trên trái đất. Nói gọn lại thì tâm lí cộng đồng làng (hay tính<br />
cộng đồng làng) không phải là vấn đề của vài ba chục năm biến đổi, mà là chuyện<br />
của hàng nghìn năm lịch sử. Trên tinh thần ấy ta sẽ không ngạc nhiên khi người dân<br />
Tam Sơn và Đồng Kỵ đánh giá cao thôn làng và tin tưởng ở sức sống trường tồn của<br />
nó.<br />
Việc đề cao thôn làng của người dân sẽ được minh chứng cụ thể khi quan sát đời<br />
sống tâm linh tín ngưỡng của họ. Ở Tam Sơn và Đồng Kỵ, chỉ tính riêng về các lễ hội<br />
làng, người ta không chỉ tham dự một cách đầy đủ, mà còn sẵn sàng đóng góp cho việc<br />
tổ chức trên cả 3 phương diện là tiền mặt, hiện vật và ngày công lao động. Số người<br />
thấy lo ‘‘vì phải đóng góp cho lễ hội làng’’ có tỷ lệ không đáng kể, chỉ chiếm 0.9%. Lí<br />
do quan trọng để người dân tham gia và sẵn sàng đóng góp vào lễ hội làng vì người ta<br />
tìm thấy ở đó rất nhiều ý nghĩa: ‘‘để giữ gìn truyền thống của làng’’, để ‘‘bày tỏ lòng<br />
biết ơn với những người có công với dân với nước’’, để ‘‘nhằm gắn bó các thành viên<br />
trong làng với nhau, v. v...’’ ở đây cần ghi nhận một điều là, đối với người dân, giá trị<br />
của làng rất đa dạng, chứ không chỉ bó hẹp trong làm ăn kinh tế.<br />
Một biểu hiện cụ thể nữa của việc đề cao thôn làng là sự gắn bó với làng. Ở các<br />
câu hỏi trắc nghiệm ‘‘ông/bà nghĩ thế nào về câu : Ta về ta tắm ao ta/Dù trong dù đục<br />
ao nhà vẫn hơn’’ hay ‘‘Hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau’’, phần đông<br />
người được hỏi cho là các câu ấy hiện nay ‘‘vẫn đúng’’ hoặc ‘‘đúng một phần’’ ; số<br />
người cho là ‘‘không đúng nữa’’ có tỷ lệ rất thấp (2.3% và 1.4%). Ý nghĩ như vậy, còn<br />
việc làm thì sao? ở Tam Sơn và Đồng Kỵ có đến 82.5% người dược hỏi đã lấy vợ làng,<br />
chỉ có 17.5% lấy vợ khác làng. Trong việc kết bạn, có 23.1% chỉ kết bạn trong làng;<br />
60.2% có phần lơn số bạn là người làng; 10.0% có một nửa bạn là người làng ; chỉ có<br />
6.5% có số bạn nhiều hơn ở làng và 0.2% có số bạn trong làng. Xin lưu ý việc lấy vợ<br />
và kết bạn trong làng được thể hiện như một niềm tự hào, chứ không phải họ không có<br />
điều kiện lấy vợ và kết bạn ở nơi khác.<br />
Rõ ràng, việc đề cao thôn làng ở Tam Sơn và Đồng Kỵ không phải là một lời nói<br />
suông, cũng không chỉ tồn tại trong ‘‘cấu trúc hữu thức’’ của người dân, mà đã được<br />
thể hiện trong chính việc làm và hành vi của họ.<br />
IV<br />
Giả thuyết thứ hai của cuộc nghiên cứu là: ở các làng xã nào chủ yếu còn sống<br />
bằng nông nghiệp thì gia đình, dòng họ và thôn làng vẫn được bảo lưu khá bền vững,<br />
trái lại làng xã nào có nghề phụ phát triển, giàu có, đã hoà nhập vào kinh tế thị<br />
trường, lại chịu tác động mạnh của công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì các giá trị này<br />
đang bị thử thách mạnh mẽ và mất dần vai trò trong đời sống xã hội.<br />
Nhằm xác định giả thuyết, khi chọn địa bàn nghiên cứu, chúng tôi cố gắng tìm hai<br />
làng có hoàn cảnh khác nhau theo nghĩa Tam Sơn chủ yếu sống bằng nghề nông, do đó<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Mai Văn Hai 41<br />
<br />
lối sống còn mang đậm tính tiểu nông; còn Đồng Kỵ sống chủ yếu bằng sản xuất kinh<br />
doanh đồ gỗ mỹ nghệ nên lối sống đã có phần đô thị hoá. Chuyển sang kinh tế thị<br />
trường, Tam Sơn đang tìm cách hoà nhập, trong khi Đồng Kỵ đã ở một trình độ khá,<br />
thậm chí đã trở thành một trung tâm sản xuất và kinh doanh mạnh. Về mức sống, trong<br />
khi Tam Sơn ở mức trung bình và trên trung bình thì Đồng Kỵ đã là một làng khá giả<br />
không chỉ so với những làng xã xung quanh, mà còn nổi tiếng toàn quốc. Tất cả những<br />
khác biệt đó, cố nhiên đã có sự tác động không giống nhau đến gia đình, dòng họ và<br />
thôn làng trên hai địa bàn này.<br />
Nhưng kết quả điều tra cũng không hoàn toàn chứng minh cho giả thuyết. Cũng có<br />
một số chỉ báo về việc giữ gìn các giá trị cổ truyền ở Tam Sơn có tỷ lệ cao hơn ở Đồng<br />
Kỵ. Nhưng nếu xét một cách tổng thể, thì chính Đồng Kỵ mới là làng có nhiều chỉ báo đạt<br />
tỷ lệ cao hơn về việc bảo lưu và phát huy các giá trị cổ truyền nơi làng xã. Chẳng hạn,<br />
trong phạm vi gia đình, đó là việc duy trì các bữa ăn chung hàng ngày, việc tổ chức các<br />
ngày lễ - tết trong năm, việc thăm nom bố mẹ, mối quan hệ chặt chẽ giữa bố mẹ và con<br />
cái, v.v... ra tới dòng họ và thôn làng thì đó là việc liên kết làm ăn kinh tế trong dòng họ,<br />
việc giỗ tổ họ, sự gắn bó của người làng trong cùng một nghề nghiệp, việc coi trọng hàng<br />
xóm láng giềng, đề cao quê hương bản quán, việc lấy vợ làng, kết bạn trong làng, sự phấn<br />
khởi tham gia đóng góp cho lễ hội làng, v.v... Quả đây là một phát hiện thú vị về sức sống<br />
gia đình, dòng họ và thôn làng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và<br />
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mà Đồng Kỵ là một đại diện.<br />
V<br />
Tóm lại, sự lo ngại rằng trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhất là<br />
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường như hiện nay, khi mà gia đình, dòng họ và<br />
thôn làng đều có sự biến đổi mạnh mẽ về mặt thiết chế thì cũng có sự biến đổi về mặt giá<br />
trị theo chiều hướng bị lãng quên và mai một dần là không có cơ sở. Đúng là ở nơi này<br />
nơi kia, lúc này lúc khác cũng có những hiện tượng như thế, nhưng cuộc điều tra xã hội<br />
học ở Tam Sơn và Đồng Kỵ với số mẫu là 420 hộ gia đình đã không chứng minh cho<br />
điều đó. Ngược lại, cuộc điều tra đã ghi nhận về giá trị gia đình, dòng họ và thôn làng<br />
không chỉ ở khả năng đổi mới và thích ứng, mà còn cả ở sự trường tồn của chúng.<br />
Trước kết quả điều tra trên, người ta có thể nghĩ những biểu hiện của gia đình,<br />
dòng họ và thôn làng hiện nay không có điều gì mới, rằng đó chẳng qua chỉ là các thiết<br />
chế cổ truyền này đang lấy lại các giá trị của mình sau nhiều năm bị mai một trong cơ<br />
chế hợp tác xã thời bao cấp mà thôi. Nhưng, từ một góc độ khác, cũng có thể nói, chính<br />
trong điều kiện kinh tế - xã hội mới, cụ thể là trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại<br />
hoá và nền kinh tế thị trường mà gia đình, dòng họ và thôn làng đã chứng minh thêm<br />
được sức sống của mình, tức là chúng đã có thêm ý nghĩa mới mà trước đây chưa hề<br />
có./.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />