intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Giáo dục học (Dùng cho ngành GD Mầm non, hệ từ xa): Phần 1

Chia sẻ: Lê Thị Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

168
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 Giáo trình Giáo dục học (Dùng cho ngành GD Mầm non, hệ từ xa) trình bày những vấn đề chung của giáo dục học như giáo dục học là một khoa học, giáo dục và sự phát triển nhân cách, mục đích và nhiệm vụ giáo dục, một số tư tưởng giáo dục trong lịch sử giáo dục thế giới và nội dung phần lý luận dạy học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Giáo dục học (Dùng cho ngành GD Mầm non, hệ từ xa): Phần 1

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH -----------------***----------------- PGS.TS. Nguyễn Thị Hường GIÁO DỤC HỌC (Dùng cho ngành GD Mầm non, hệ Từ xa) Vinh 2011 1
  2. Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC Chương 1: GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC 1. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT 1. Nguồn gốc của giáo dục Từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại và phát triển con người phải nhận thức thế giới khách quan. Trong quá trình nhận thức thế giới khách quan, con người dần dần tích luỹ được những kinh nghiệm lao động và chinh phục tự nhiên. Từ đó nảy sinh nhu cầu truyền thụ những kinh nghiệm đã tích luỹ được cho nhau. Đây chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục. Trong buổi đầu, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra đơn giản theo lối quan sát – bắt chước, về sau giáo dục trở thành một hoạt động có ý thức. Con người dần dần biết xác định mục đích, hoàn thiện nội dung và tìm ra các phương thức để tổ chức quá trình giáo dục một cách có hiệu quả. Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao. 2. Các tính chất của giáo dục. Phân tích hiện tượng giáo dục trong lịch sử nhân loại trên tất cả các phương diện, có thể thấy các tính chất sau đây của nó: 2.1. Giáo dục là một hiện tượng chỉ có ở loài người. Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người trên trái đất. Bản chất của giáo dục là sự truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội giữa các thế hệ với nhau. Giáo dục là một phương thức để duy trì và phát triển xã hội loài người. 2.2. Giáo dục có tính phổ biến và vĩnh hằng Giáo dục là một phạm trù phổ biến vì có con người là có giáo dục. Giáo dục tồn tại ở tất cả các chế độ xã hội, thể chế chính trị, trong mọi thời đại, mọi giai đoạn lịch sử. Giáo dục gắn liền với nhu cầu tái sản xuất sức lao động cho xã hội. - Giáo dục là một phạm trù vĩnh hằng vì nó tồn tại mãi mãi với loài người, chỉ khi nào không tồn tại loài người thì mới mất đi hiện tượng giáo dục . 2.3. Giáo dục có tính lịch sử, tính giai cấp Giáo dục ra đời theo nhu cầu của lịch sử- xã hội. Giáo dục một mặt phản ánh trình độ phát triển của lịch sử, bị quy định bởi trình độ phát triển của lịch sử. Mặt khác, nó lại tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử. Ở mỗi giai đoạn phát triển lịch sử lại đặt ra những yêu cầu nhất định đối với giáo dục. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị đã thực hiện quyền thống trị của mình đối với giáo dục thông qua mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục. 2.4. Giáo dục có tính nhân văn, tính dân tộc. Bất cứ thời đại nào, chế độ xã hội thì nào mục đích của giáo dục là hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ, đào tạo họ trở thành những người có ích cho xã hội. 2
  3. Chính vì vậy giáo dục mang tính nhân văn, nó phản ánh những giá trị văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ chung nhất của nhân loại. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi nước đều có truyền thống, bản sắc văn hoá riêng. Cho nên nền giáo dục ở mỗi nước cũng có những nét độc đáo, những sắc thái riêng. Nền giáo dục Việt Nam hiện nay mang đậm bản sắc của dân tộc Việt Nam. 3. Các chức năng của giáo dục Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là phương thức để tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Điều này thể hiện ở ba chức năng cơ bản của giáo dục sau: 3.1. Chức năng kinh tế – sản xuất. Chức năng kinh tế của giáo dục thể hiện đầy đủ nhất trong đào tạo nhân lực, chuẩn bị một lớp người lao động trẻ cho xã hội 3.2. Chức năng chính trị – xã hội. Giáo dục thực hiện chức năng chính trị – xã hội thông qua việc đào tạo ra những con người đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đó là những con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, có ý thức chính trị nhất định. Mặt khác, GD tác động đến cấu trúc xã hội (các tầng lớp, các giai cấp), góp phần làm cho cấu trúc XH trở nên thuần nhất. 3.3. Chức năng tư tưởng - văn hoá. GD có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn XH, xây dựng lối sống phổ biến trong toàn XH, xây dựng một trình độ văn hoá cho XH. Chức năng tư tưởng văn hoá của giáo dục còn được thể hiện ở chỗ giáo dục góp phần vào việc bảo tồn, phát triển nền văn hóa xã hội, giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc dân tộc. Do có những chức năng trên mà ngày nay, giáo dục đã được nhìn nhận như “chiếc chìa khoá để mở cửa vào tương lai”, là con đường quan trọng nhất để phát triển KT-XH. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy sự phát triển KT – XH, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển của đất nước. III. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP CỦA GIÁO DỤC HỌC. 1. Đối tượng của giáo dục học. Giáo dục học là một khoa học nghiên cứu về quá trình giáo dục con người. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học chính là quá trình giáo dục, một quá trình xã hội đặc biệt. Qúa trình giáo dục có những đặc trưng chủ yếu sau: - Đó là một loại quá trình xã hội được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, hướng vào việc truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội, hình thành và phát triển nhân cách người học. 3
  4. - Đó là quá trình trong đó diễn ra mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, tạo thành một loại quan hệ xã hội đặc biệt: quan hệ GD. - Đó là quá trình nhà GD tổ chức, hướng dẫn các loại hình hoạt động và giao lưu của người được GD, qua đó hình thành và phát triển nhân cách cho họ. Như vậy: QTGD là một quá trình XH hình thành nhân cách con người, được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, được thực hiện thông qua các hoạt động GD, được tiến hành trong các mối quan hệ giữa nhà GD và người được GD nhằm chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội. Quá trình giáo dục với tư cách là đối tượng của giáo dục học còn được gọi là quá trình sư phạm tổng thể hay quá trình giáo dục theo nghĩa rộng. Quá trình này bao gồm hai bộ phận: đó là quá trình dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Hai quá trình này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đều thực hiện chức năng chung của QTGD: hình thành nhân cách. Tuy nhiên, mỗi quá trình bộ phận lại có chức năng trội của mình. Quá trình giáo dục là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều thành tố có mối quan hệ mật thiết với nhau: * Mục đích, nhiệm vụ giáo dục: là thành tố cơ bản, quan trọng hàng đầu, có tác dụng định hướng cho sự vận động và phát triển của toàn bộ quá trình giáo dục. Toàn bộ quá trình giáo dục phải hướng vào việc thực hiện có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ giáo dục đã được xác định. * Nội dung giáo dục: là thành tố cơ bản, làm nên nội dung hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục. Nội dung giáo dục được qui định bởi hệ thống kinh nghiệm xã hội cần truyền đạt cho thế hệ trẻ. * Phương pháp giáo dục: Là cách thức hoạt động phối hợp giữa nhà GD và người được GD nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ GD đã đề ra. * Nhà giáo dục: Là chủ thể của hoạt động GD. Theo quan điểm GD hiện đại, nhà GD giữ vai trò chủ đạo, là người định hướng, thiết kế, tổ chức các hoạt động giáo dục cho người được giáo dục. *Người được giáo dục: Vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của hoạt động GD. Theo quan điểm GD hiện đại, người được GD là nhân vật trung tâm của nhà trường. *Kết quả giáo dục: phản ánh một cách tập trung nhất ở trình độ phát triển về mặt nhân cách của người được giáo dục. Các thành tố trên đây có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau và chịu sự qui định của môi trường KT- XH, khoa học và công nghệ. 2. Nhiệm vụ của giáo dục học. Giáo dục học có các nhiệm vụ sau đây: a. Nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình giáo dục. b. Nghiên cứu mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục c. Nghiên cứu các con đường và biện pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. 4
  5. d. Nghiên cứu về xây dựng các lí thuyết giáo dục mới và khả năng ứng dụng của chúng vào thực tiễn giáo dục. 3. Một số khái niệm cơ bản của giáo dục học. Ngoài đối tượng nghiên cứu ra, mỗi khoa học đều có một hệ thống các khái niệm và phạm trù. Giáo dục học cũng có một hệ thống các khái niệm có mối liên hệ với nhau tạo thành một lí thuyết chặt chẽ. Chúng ta có thể làm rõ một số khái niệm cơ bản sau đây: 3.1. Giáo dục. Đây là một khái niệm xuất phát, có ý nghĩa quan trọng của giáo dục học. a. Về bản chất, giáo dục là quá trình truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội giữa các thế hệ. b. Về hoạt động, giáo dục là quá trình tác động của xã hội và của nhà giáo dục đến các đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách. c. Về mặt phạm vi, giáo dục được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau: - Ở cấp độ rộng nhất: Giáo dục là quá trình hình thành nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các tác động (bao gồm các tác động tự giác, tích cực xen lẫn các tác động tự phát tiêu cực, các tác động khách quan lẫn tác động chủ quan). Đây chính là quá trình xã hội hoá con người. - Ở cấp độ thứ 2: Giáo dục là hoạt động có mục đích của các lực lượng giáo dục xã hội nhằm hình thành các phẩm chất nhân cách. Đây chính là quá trình giáo dục xã hội. - Ở cấp độ thứ 3: Giáo dục là một hoạt động có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của các nhà sư phạm trong các tổ chức giáo dục, trong nhà trường đến học sinh nhằm giúp họ phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ, thể chất,… Đây chính là quá trình sư phạm tổng thể. - Ở cấp độ thứ tư: Giáo dục là quá trình hình thành ở học sinh những phẩm chất đạo đức, những thói quen hành vi. Đây chính là quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp. 3.2. Giáo dưỡng. Giáo dưỡng là quá trình cung cấp tri thức khoa học, hình thành phương pháp nhận thức và kĩ năng thực hành cho học sinh thông qua con đường dạy học. Nói cách khác giáo dưỡng chính là quá trình bồi dưỡng học vấn cho học sinh. 3.3. Dạy học. Dạy học là một khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người học. Hai hoạt động này song song tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất. Trong đó hoạt động dạy giữ vai trò chủ đạo còn hoạt động học giữ vai trò tích cực chủ động. Dạy học là con đường cơ bản để thực hiện mục đích giáo dục xã hội. Học tập là cơ hội quan trọng nhất giúp cho mỗi cá nhân phát triển và thành đạt trong nền kinh tế tri thức của thế kỉ 21. 4. Mối quan hệ của Giáo dục học với các khoa học khác. 5
  6. Trong các lĩnh vực khoa học, về phương pháp luận, bên cạnh việc giới hạn lĩnh vực và đối tượng nghiên cứu phải thấy rõ mối liên hệ hữu cơ giữa một khoa học nào đó với các khoa học có liên quan. Đối với Giáo dục học điều này càng quan trọng. Giáo dục học là một khoa học nghiên cứu về quá trình giáo dục con người. Vì thế, Giáo dục học có mối liên hệ với nhiều ngành khoa học xã hội, và khoa học tự nhiên như Triết học, Xã hội học, Đạo đức học, Mĩ học, Sinh lý học… * Trong mối quan hệ với Triết học thì Triết học duy vật biện chứng (triết học Mác – Lênin) là cơ sở phương pháp luận của Giáo dục học. Chúng ta có thể lấy một số ví dụ để làm rõ điều này: Triết học duy vật biện chứng cho rằng: Bản chất con người, trong tính hiện thực của nó, là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Quá trình hình thành nhân cách là quá trình con người tự chiếm lĩnh bản chất của loài người thông qua hoạt động của chính mình. Vận dụng quan điểm này vào trong Giáo dục học, đòi hỏi chúng ta muốn hình thành nhân cách học sinh phải tổ chức và đưa các em tham gia vào các mối quan hệ xã hội đa dạng. Một ví dụ khác: Triết học duy vật biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan vận động và phát triển dưới ảnh hưởng của những yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong giữ vai trò quyết định, còn yếu tố bên ngoài giữ vai trò điều kiện. Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng đạt hiệu quả tối ưu khi có sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố bên trong và bên ngoài. Vận dụng quan điểm này vào trong Giáo dục học đòi hỏi chúng ta, trong quá trình giáo dục phải nhấn mạnh yếu tố tự giáo dục, yếu tố tự giác, tích cực của học sinh (yếu tố bên trong) đồng thời không coi nhẹ tác động của nhà giáo dục, của thầy cô giáo (yếu tố bên ngoài). *Xã hội học: Chỉ ra những đặc điểm phát triển KT, VH, XH ảnh hưởng của chúng đến sự hình thành, PT nhân cách con người, giúp GDH giải quyết những vấn đề về mục tiêu, nội dung GD, tác động qua lại giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong công tác GD. * Tâm lí học: có vai trò quan trọng đối với việc nghiên cứu những vấn đề của GDH. Đặc biệt TLH lứa tuổi và Tâm lí học sư phạm được coi là cơ sở để ứng dụng hợp lý nội dung, PPGD. * Sinh lý học: Liên quan chặt chẽ với GDH, được coi là cơ sở tự nhiên của GDH. Sinh lý học nghiên cứu con người như một thực thể tự nhiên sinh học. Nó cung cấp các dữ liệu về sự phát triển của hệ thần kinh cấp cao, các kiểu loại hình thần kinh, sự phát triển của các cơ quan cảm giác, vận động trong cơ thể người qua các thời kỳ lứa tuổi khác nhau. Đó là cơ sở khoa học cuả GDH trong việc nghiên cứu QTGD trẻ em. 6
  7. Ngoài ra, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật công nghệ và sự thâm nhập của chúng vào trong giáo dục nên Giáo dục học còn có mối liên hệ với điều khiển học, tin học… 5. Phương pháp nghiên cứu của Giáo dục học. Trong phần này chúng ta chỉ xem xét các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học ở mức độ tổng quan, không đề cập đến các vấn đề cụ thể về phương pháp nghiên cứu. Khi nghiên cứu Giáo dục học, cần phải quán triệt các quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Quán triệt các quan điểm này vào trong nghiên cứu Giáo dục học đòi hỏi chúng ta phải xem xét các hiện tượng giáo dục trong quá trình phát sinh, phát triển của chúng, trong mối liên hệ qua lại của chúng. Trên cơ sở quan điểm phương pháp luận, chúng ta phải vận dụng có kết quả những phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: quan sát, điều tra, nghiên cứu các sản phẩm của hoạt động, thực nghiệm sư phạm,… Câu hỏi thảo luận và ôn tập 1. Tại sao nói giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt? 2. Hãy phân tích các chức năng của giáo dục. 3. Quá trình giáo dục là gì? Phân tích các thành tố cấu trúc của quá trình giáo dục. 4. Phân tích các khái niệm cơ bản của Giáo dục học. 5. Phân tích mối liên hệ giữa GDH với một số ngành khoa học. Chương 2: GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH I. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CON NGƯỜI 7
  8. 1. Khái niệm con người, nhân cách. 1.1. Khái niệm con người. a. Các quan niệm về con người Từ trước đến nay con người là đối tượng quan tâm của nhiều ngành KH khác nhau. Nguồn gốc, bản chất, lý do, mục đích tồn tại của CN là đề tài đấu tranh gay gắt giữa các trường phái khác nhau trong triết học, Tâm lý học, Giáo dục học. * Thời kỳ cổ đại, do trình độ sản xuất còn thấp, KH chưa phát triển, con người còn quá lệ thuộc vào tự nhiên nên không lý giải một cách KH bản chất, nguồn gốc của con người. Trong triết học cổ đại xuát hiện trường phái "bất khả tri", con người là 1 tồn tại thần bí, không thể hiểu nổi. * Quan điểm duy tâm: với nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng đều gặp nhau ở điểm: nguồn gốc con người: thượng đế sinh ra. Từ đó họ cho rằng bản chất con người là cái được thượng đế sắp đặt sẵn. Với quan niệm này thì con người bất lực trước chính mình vì tất cả đều phụ thuộc vào sức mạnh bên ngoài. Đây là quan niệm sai lầm. * Về sau, trên cơ sở PT của KHTN (Nhất là của sinh học TK 19) làm xuất hiện những quan điểm duy vật về con người. Tuy nhiên việc lý giải bản chất con người mang tính chất siêu hình. Tóm lại các quan niệm trên đây đều chưa đúng, chưa lý giải một cách KH nguồn gốc, bản chất của CN b. Quan niệm Mác - Ănghen về CN: Dựa trên thành tựu mới về sinh học TK 19 và đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, M-A đã nhìn nhận con người trong tiến trình PT, tiến hoá của loài và sự PT của LS - XH. Hai ông cho rằng: con người vừa là thực thể TN vừa là thực thể XH. Tóm lại, để hiểu bản chất con người, Mác - Ănghen đã tìm thấy nguồn gốc của CN trong TN-XH chứ không phải do thượng đế sinh ra. Đây là quan điểm biện chứng nhất về CN. 1.2. Khái niệm về nhân cách Khi con người là đại diện của loài ta gọi là cá thể, với tư cách là thành viên của xã hội ta gọi nó là cá nhân như một thực thể độc lập và khi nó có đủ khả năng để trở thành chủ thể hoạt động học tập, lao động, vui chơi, con người trở thành nhân cách (xem sơ đồ sau). Con người Cá thể Cá nhân Nhân cách Đại diện loài Thành viên của XH Chủ thể hoạt động 8
  9. Khi con người là chủ thể hoạt động, của các mối quan hệ XH thì người ta gọi đó là 1 nhân cách. Như vậy, dưới góc độ giáo dục học, khái niệm nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người. Nhân cách có cái chung của loài người nhưng cũng có cái riêng của cá nhân. thông thường ở VN khi nói đến nhân cách thường quan niệm đó là sự thống nhất giữa các mặt phẩm chất và năng lực (đức- tài) trong mỗi con người. 1.3. Khái niệm về sự phát triển nhân cách. Để có nhân cách con người cần đạt tới trình độ phát triển tâm lý nhất định và phải có khả năng coi mình như 1 cái trọn vẹn duy nhất khác với người khác.Việc con người trở thành nhân cách và hoàn thiện nó trong quá trình sống cũng như do kết quả của sự phát triển và giáo dục được gọi là sự hình thành nhân cách. Sự hình thành nhân cách được bắt đầu từ lúc con người sinh ra và diễn ra mạnh mẽ trong thời ký thơ ấu, thiếu niên, thanh niên và đạt tới sự kết thúc tương đối ở lứa tuổi trưởng thành. Nhân cách của con người được hình thành, phát triển trong quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi, giải trí và theo quy luật lĩnh hội các di sản văn hoá vật chất - tinh thần do các thế hệ trước để lại trong công cụ lao động, trong những tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Mặt khác, chính bằng các hoạt động xã hội mà con người ngay từ tấm bé đã dần dần lĩnh hội nội dung loài người chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan tới hoạt động của họ. Lênin đã nói một cách hình ảnh: cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của XH mà nó là thành viên. Chính nhờ các mối quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do các thế hệ tạo ra và các mối quan hệ xã hội mà con người gắn bó, nhân cách được hình thành và phát triển. Sự phát triển nhân cách bao gồm các mặt sau đây: - Sự phát triển về mặt thể chất: biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, cơ bắp và sự hoàn thiện của các giác quan. - Sự phát triển về mặt tâm lí: biểu hịên ở những biến đổi cơ bản trong các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu, nếp sống, thói quen và nhất là ở sự hình thành các thuộc tính mới của nhân cách. - Sự phát triển về mặt xã hội: biểu hiện ở việc tích cực, tự giác tham gia vào các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội cũng như ở những thay đổi trong cách cư xử với những người xung quanh. Như vậy, sự phát triển nhân cách là một quá trình cải biến toàn bộ các sức mạnh thể chất và tinh thần, các sức mạnh bản chất của con người. Đó không chỉ là sự biến đổi về lượng mà trước hết là những biến đổi về chất trong mỗi một con người. II. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách Sự hình thành và phát triển nhân cách con người chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó có nhân tố sinh học và nhân tố xã hội. Các yếu tố này tác động đến con người không phải song song với nhau, có giá trị như nhau và độc lập với nhau. 9
  10. Vì vậy, cần phải xem xét một cách đúng đắn khách quan và khoa học các tác động của từng yếu tố trong công tác giáo dục. 1. Yếu tố di truyền. 1.1. Khái niệm di truyền. Di truyền là sự tái tạo ở thế hệ sau những thuộc tính sinh học giống thế hệ trước, đó là sự truyền lại từ thế hệ trước đến thế hệ sau những phẩm chất và những đặc điểm sinh học nhất định đã được ghi lại trong chương trình gen (cấu tạo cơ thể, loại hình thần kinh, các tư chất,…) Nhờ di truyền mà các đặc điểm của loài được giữ lại, được phát triển và hoàn thiện theo con đường tiến hoá tự nhiên. Có một số thuộc tính sinh học có ngay từ khi đứa trẻ sinh ra gọi là những thuộc tính bẩm sinh. 1.2. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách. Theo quan điểm duy vật biện chứng, bẩm sinh di truyền giữ vai trò tiền đề quan trọng cho sự phát triển nhân cách, bởi lẽ muốn hình thành, phát triển được nhân cách trước hết phải có con người bằng xương, bằng thít do di truyền mang lại. Di truyền tạo ra sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, (được biểu hiện dưới dạng các tư chất, năng lực) tạo khả năng cho người đó hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất định (như trong âm nhạc, hội hoạ, toán học). Quan điểm này đã khẳng định những gì cần thiết cho sự phát triển của đứa trẻ đã tiềm ẩn trong bản thân đứa trẻ. Giáo dục chỉ làm cho những khả năng tiềm ẩn đó trở thành hiện thực. Tuy nhiên, di truyền không thể quyết định những giới hạn tiến bộ xã hội của con người. Các phẩm chất XH trong con người khi mới sinh ra chưa có. Những phẩm chất đó chỉ có thể có được trong quá trình hoạt động và giao lưu với người khác. Các thuộc tính tâm lý phức tạp như thức, thế giới quan, tình cảm, các phẩm chất đạo đức không có trong chương trình di truyền. Ở mỗi người quá trình hình thành nhân cách được diễn ra trong điều kiện độc đáo, không lặp lại. Mặt khác, các tư chất được di truyền chỉ đặc trưng cho những lĩnh vực hoạt động hết sức rộng rãi, bao quát. Nó chỉ là điều kiện để sau này thực hiện có kết quả một hoạt động cụ thể nào đó mà bản thân con người lựa chọn. Sự phát triển các tư chất, tài năng ở dạng này hay dạng khác phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như hoàn cảnh sống, điều kiện giáo dục, hoạt động của cá nhân Ví dụ: Hiện nay có một số gia đình liên tục xuất hiện nhiều người có tài qua các thế hệ. Điều đó không chỉ là được di truyền những tư chất nhất định mà còn do các gia đình này trẻ em được sống và giáo dục trong một mồit thuận lợi, được sớm tham gia vào hoạt động để sáng tạo nên tài năng đó. Kết luận sư phạm: Trong công tác GD nhà giáo dục phải quan tâm đúng mức đến việc phát huy hết những tư chất, năng lực vốn có ở HS để phát triển, bồi dưỡng tài năng. Đồng thời phải có biện pháp GD đúng đắn để bù đắp những thiệt thòi, khiếm khuyết ở trẻ do bẩm sinh, di truyền mang lại. Cần đánh giá đúng dắn vai trò của yếu tố di truyền, không xem nhẹ cũng không tuyệt đối hoá, để tránh những sai lầm trong nhận thức, cũng như tổ chức các hoạt động giáo dục. 10
  11. 2. Yếu tố môi trường. 2.1. Khái niệm môi trường. Cùng với yếu tố di truyền, trong quá trình phát triển để trở thành nhân cách, con người còn chịu ảnh hưởng của môi trường sống. Môi trường được hiểu là hệ thống phức tạp những hoàn cảnh bên ngoài, kể cả các điều kiện tự nhiên và xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, hoạt động của con người. Người ta phân biệt hai loại môi trường: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. - Môi trường tự nhiên là điều kiện địa lí - sinh thái. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể chất. Vị trí địa lí tự nhiên và môi trường địa lí kinh tế tốt tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và hoạt động của con người. - Môi trường xã hội là điều kiện sống trong xã hội với các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với tập thể. Môi trường XH được phân chia thành MT lớn (tổ chức nhà nước, thể chế chính trị, KT, pháp luật, các quan hệ XH), môi trường nhỏ: trực tiếp bao quanh trẻ (gia đình, nhà trường, nhóm bạn bè). Khi nói đến ảnh hưởng của MT đến sự hình thành và phát triển nhân cách, GDH chủ yếu nhấn mạnh đến môi trường XH vì chỉ trong môi trường XH thì con người mới có thể phát triển những tư chất người như ngôn ngữ, tư duy, dáng đi thẳng. 2.2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách. Sự hình thành và phát triển nhân cách được diễn ra trong một môi trường nhất định, môi trường là yếu tố điều kiện đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Bởi lẽ: Môi trường là “thao trường” để đứa trẻ thể nghiệm những khả năng di truyền của mình, là nơi góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân mà nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội để hình thành và phát triển nhân cách của mình. Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân cách còn tuỳ thuộc vào lập trường quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó (tiếp thu, chấp nhận hay phản đối) cũng như tuỳ thuộc vào xu hướng và năng lực, vào mức độ cá nhân tham gia cải biến môi trường (tích cực hay không tích cực). Chính vì vậy Mác đã nhấn mạnh: Hoàn cảnh sáng tạo con người trong chừng mực con người sáng tạo hoàn cảnh. MT tác động đến con người có thể gây ra những ảnh hưởng tích cực và cả mặt tiêu cực. Do đó trong công tác GD phải có kế hoạch "sư phạm hoá MT", phát huy những nhân tố tích cực, ngăn ngừa, đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực, tự phát của môi trường, phải hướng vào việc xây dựng cho HS những định hướng giá trị đúng đắn để có bản lĩnh vững vàng đối với các tác động của MT. Gắn chặt giáo 11
  12. dục, học tập với thực tiễn XH, tạo điều kiện cho HS tham gia vào việc cải tạo và xây dựng MT. 2.3. Yếu tố hoạt động 2.3.1. Khái niệm hoạt động Cuộc sống của con người là một dòng hoạt động kế tiếp nhằm đạt được những mục đích nhất định. Hoạt động là quá trình con người thực hiện mối quan hệ của mình với thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và bản thân. Đó là quá trình chuyển hoá năng lực lao động và các phẩm chất tâm lí của bản thân thành sản phẩm và quá trình ngược lại là tách những thuộc tính của sự vật, của sản phẩm quay trở về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ thể (Phạm Minh Hạc). Mỗi lứa tuổi đều gắn liền với hoạt động chủ đạo. 2.3.2. Vai trò của hoạt động đối với sự phát triển nhân cách. Hoạt động của cá nhân là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách. Nội dung, phương thức hoạt động, mục đích và ý thức của cá nhân trong hoạt động đã tạo nên những nét tính cách riêng của từng người. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách của họ được phát triển như thế ấy. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự thân vận động, về động lực bên trong của sự phát triển nói chung. Từ mối quan hệ gắn bó giữa hoạt động và nhân cách, chúng ta thấy rằng: muốn hình thành nhân cách trẻ em cần đưa các em tham gia vào các hoạt động nhất định. Nói cách khác, để hình thành và PT nhân cách cho HS, giáo dục phải tổ chức đúng đắn các loại hình hoạt động cho họ để họ chiếm lĩnh các kinh nghiệm xã hội, các giá trị văn hoá của xã hội loài người. Hoạt động có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, cho nên một trong những quy luật của giáo dục là phải thay đổi tính chất của hoạt động, phong phú hoá nội dung, đa dạng hoá hình thức cách thức tổ chức hoạt động và lôi cuốn trẻ em tham gia vào hoạt động một cách tự giác, tích cực. Tuy nhiên, hoạt động của con người luôn luôn mang tính chất xã hội, tính tập thể. Vì vậy, hoạt động luôn gắn liền với giao lưu. Trong giao lưu con người không chỉ nhận thức từ người khác mà còn nhận thức chính bản thân mình. Để hoạt động trở thành yếu tố quyết định, điều kiện cần: - Cá nhân cần triệt để phát huy những yếu tố sinh học ưu việt của mình. - Triệt để tận dụng những tác nhân tích cực của MT. - Biết tuân thủ sự hướng dẫn tổ chức khoa học QTGD của nhà GD. - Tích cực hoạt động cá nhân với các loại hình hoạt động chủ yếu, phù hợp với lứa tuổi để biến cá nhân từ khách thể thành chủ thể tích cực của QT nhận thức và hình thành nhân cách. 4. Yếu tố giáo dục 4.1. Khái niệm giáo dục 12
  13. Giáo dục là hoạt động chuyên biệt nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. GD được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theoi nghĩa rộng: Sự hình thành có mục đích, có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức, thị hiếu thẩm mỹ cho con người. -Theo nghĩa hẹp: bao gồm các quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế giới quan, cac phẩm chất đạo đức. Có các hình thức giáo dục như giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, trong đó giáo dục nhà trường giữ vai trò quan trọng nhất. Kết hợp gia đình, nhà trường, XH là một trong những nguyên tắc quan trọng trong công tác GD. 4.2. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách. Đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Vai trò này thể hiện ở những điểm sau đây: * Giáo dục điều tiết những ảnh hưởng của yếu tố bẩm sinh, di truyền: + Tạo điều kiện cho những yếu tố tích cực trong vốn di truyền của đứa trẻ phát triển: Nhờ GD mà con người có thể phát triển mọi tư chất, năng lực của mình. + GD có thể bù đắp những thiếu hụt, những hạn chế của yếu tố bẩm sinh, di truyền: những trẻ bị khuyết tật, hoàn cảnh không thuận lợi bằng con đường GD có thể lĩnh hội được nền học vấn. * Giáo dục tổ chức ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục được coi là một bộ phận tác động của mọi trường XH từ bên ngoài đến nhân cách. Tuy nhiên khác với các tác động khác của môi trường, nó mang tính mục đích, tính chủ động và do những nhà GD đảm nhiệm cùng với các lực lượng XH khác. GD có thể phát huy tối đa mặt tích cực của yếu tố môi trường đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi đi đến tiêu diệt những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách. GD có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát của môi trường XH gây nên và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn của XH.Đó chính là hiệu quả của công tác GD lại đối với trẻ em hư và những người phạm pháp. * Giáo dục còn định hướng cho hoạt động của cá nhân: - Vạch chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách - Tổ chức, dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo chiều hướng đó. Tuy nhiên GD không chỉ là tác động 1 chiều của nhà GD đến nhân cách, nó còn cả hoạt động tích cực, đa dạng của người được GD. Vì vậy, để GD trở thành yếu tố chủ đạo cần có các điều kiện: 13
  14. - Kết hợp đúng đắn vai trò chủ đạo của nhà GD với việc phát huy vai trò chủ thể tích cực, chủ động sáng tạo của người được GD (kết hợp chặt chẽ giữa GD và tự GD) - Phát huy cao độ và triệt để những điều kiện bên trong của HS (những tư chất, năng lực vốn có), - GD không chờ đợi sự PT mà phải đón trước và thúc đẩy sự phát triển nhân cách. - Kết hợp các loại hình GD: gia đình, nhà trường, XH, Tóm lại: Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, định hướng cho sự PT nhân cách, là trung tâm để phát huy các yếu tố bẩm sinh, môi trường và cá nhân trong sự hình thành và PT nhân cách. Một nền giáo dục tốt có thể làm cho con người phát triển toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời đại. Câu hỏi ôn tập và tự học 1. Hãy phân biệt các khái niệm: cá thể, cá nhân, nhân cách. 2. Phân tích vai trò của di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. 3. Phân tích vai trò của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. 4. Phân tích vai trò của hoạt động đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. 5. Tại sao nói giáo dục giữa vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách? 14
  15. CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ GIÁO DỤC I. Mục đích giáo dục 1. Khái niệm về mục đích, mục tiêu giáo dục a. Mục đích GD * Theo cấu trúc vĩ mô của hoạt động, MĐ chính là mô hình kết quả HĐ của con người được hình dung trước. Từ mô hình này chủ thể lựa chọn, nội dung, PP phương tiện tác động đến đối tượng để đạt được kết quả. *Mục đích giáo dục là một phạm trù của giáo dục học, có vị trí quan trọng trong lí luận và thực tiễn giáo dục. Mục đích giáo dục là yếu tố dự kiến trước về sản phẩm giáo dục. Sản phẩm đó chính là kiểu người, là mô hình nhân cách con người mà mà nhà trường cần đào tạo theo yêu cầu của XH. Do đó mục đích GD liên quan trực tiếp đến việc phát huy sức mạnh của con người, là vấn đề then chốt trong chiến lược PT KT-XH. - Mục đích giáo dục là yếu tố có ý nghĩa quyết định của quá trình giáo dục. Nó quy định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, các tiêu chuẩn kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đồng thời nó cũng quy định tính chất, phong cách của các mối quan hệ, tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. - Mục đích giáo dục mang tính chất lịch sử và tính giai cấp. - Mục đích giáo dục là điểm tập trung cao nhất những đòi hỏi của xã hội đối với sản phẩm giáo dục. Nó phản ánh những yêu cầu khách quan của thực tiễn đất nước, những xu thế khách quan cuả thời đại và các quy luật của QTGD .Mục đích GD được xây dựng dựa trên những căn cứ thực tiễn sau: + Dựa theo chiến lược PT KT-XH, KH và công nghệ quốc gia + Dựa theo yêu cầu cuả đất nước và thời đại đối với nhân cách thế hệ trẻ, theo nhu cầu PT nhân lực XH. +Dựa theo xu thế PT của nền GD quốc gia và quốc tế + Tính toán đến những điều kiện KT, VH,XH kinh nghiệm và truyền thống GD. Mục đích giáo dục thể hiện tập trung nhất tính giai cấp của giáo dục. Cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực giáo dục trước hết tập trung ở cuộc đấu tranh về mục đích giáo dục. 15
  16. - MĐGD là một khái niệm rộng, có thể xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau như cấp độ vĩ mô, trung gian, vi mô. Trong thực tiễn GD sử dụng 2 thuật ngữ để diễn đạt cái đích phải đạt đến của hoạt động GD là MĐGD và mục tiêu giáo dục. Các cấp độ của MĐGD: + Cấp độ XH: MĐGD là cái đích chung của toàn bộ sự nghiệp GD, được xây dựng xuất phát từ chiến lược PT KT-XH và để phục vụ cho sự PT ấy. - Đối với toàn XH, MĐ của hệ thồng GD quốc dân là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài - Đối với thế hệ trẻ: MĐGD là làm cho họ trở thành những nhân cách toàn diện. + Cấp độ nhà trường: MĐGD được cụ thể hoá thành mục tiêu GD cho 1 cấp học, mục tiêu đào tạo cho 1 ngành học, 1 loại hình đào tạo. + Cấp độ chuyên biệt: thể hiện ở mục tiêu cho từng môn học, từng bài dạy. b. Mục tiêu giáo dục: Chỉ kết quả cần đạt được của QTGD trong một thời gian nhất định . Hay nói cách khác, mục tiêu GD chính là sự cụ thể hoá mục đích GD vào từng cấp học, bậc học, chỉ đạo cách thức thực hiện các hoạt động GD và đánh giá kết quả GD. Do đó quan hệ giữa mục đích và mục tiêu là quan hệ giữa cái tổng thể và cái bộ phận. Khác với mục đích, mục tiêu có tính cụ thể với hành động và phương tiện xác định, kết quả có thể đo được. Mục tiêu của nền giáo dục XHCN Việt Nam Mục tiêu của nền giáo dục XHCN Việt Nam là đào tạo con người Việt nam phát triển toàn diện, có đạo dức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghễ nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, các phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo về Tổ quốc. ( Điều 2, chương 1, Luật Giáo dục) Tóm lại: mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản và rất quan trọng của Giáo dục học. Nó có chức năng chỉ đạo và hướng dẫn toàn bộ quá trình giáo dục và là cơ sở để đánh giá kết quả giáo dục – đào tạo. Mục đích giáo dục có nhiều cấp độ. Việc nắm vững mục đích giáo dục là điều kiện để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đảm bảo công tác giáo dục không đi trệch khỏi định hướng XHCN. II. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. 1. Khái niệm về hệ thống giáo dục quốc dân. Để thực hiện chiến lược giáo dục, mỗi quốc gia đều có một hệ thống giáo dục của mình. Hệ thống giáo dục quốc dân là mạng lưới các trường học được xây dựng để tiến hành giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nhân lực theo yêu cầu của xã hội. Hệ thống các trường học được xây dựng thống nhất trên phạm vi cả nước, được sắp xếp thành các cấp học, ngành học, với các loại hình đào tạo khác nhau, nhằm thoả mãn nhu cầu học tập của nhân dân. Hệ thống giáo dục quốc dân là sản phẩm của nền chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ của một quốc gia. Quy mô, cơ cấu tổ chức, chất lượng giáo 16
  17. dục và đào tạo, xu hướng và khả năng phát triển của toàn bộ hệ thống bị quy định bởi trình độ phát triển của đất nước. Mục đích xây dựng hệ thồng GD QD là nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Hệ thống GDQD được xây dựng theo các nguyên tắc sau: - Phải phù hợp với trình độ phát triển KT, VH, KH của đất nước, phù hợp với mục tiêu chiến lược KT, XH quốc gia, đồng thời phải tiếp cận với trình độ phát triển GD thế giới. - GD phải hướng tới phổ cập cho đông đảo quần chúng, GD dành cho mọi người -Tổ chức quá trình đào tạo mềm dẻo, tạo điều kiện thuận lợi cho người học, GD phải phục vụ thiết thực cho nhu cầu thực tế của cuộc sống XH. - Phải thống nhất trong cả nước, liên thông giữa các cấp học, ngành học. 2. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam Hệ thống GDQD gồm GD chính qui và GD thường xuyên. Hệ thống giáo dục của nước ta hiện nay được xây dựng như sau: 2.1. Giáo dục mầm non Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi. Mục tiêu của ngành học này là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 (điều 22, chương2). Về nội dung, giáo dục mầm non phải đảm bảo hài hoà giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục, phù hợp với sự phát triển tâm, sinh lí của trẻ. Về phương pháp, giáo dục mầm non phải thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ phát triển toàn diện, chú trọng việc nêu gương, động viên, khích lệ. Ngành giáo dục mầm non chia làm hai nhóm: nhóm nhà trẻ, dành cho các cháu từ 3 tháng đến 3 tuổi; nhóm mẫu giáo, dành cho trẻ từ 3 tuổi đến 6 tuổi. 2.2. Giáo dục phổ thông (điều 26). Giáo dục phổ thông bao gồm: 2.2.1. Giáo dục tiểu học. Đây là bậc học bắt buộc đối với trẻ em từ 6 đến 11- 12 tuổi, được thực hiện trong 5 năm học; từ lớp 1 đến lớp 5. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để trẻ tiếp tục học lên THCS. Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có những hiểu biết cơ bản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người. Có kĩ năng cơ bản về nghe, đọc, nói, viết và tính toán. Có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mĩ thuật. 17
  18. 2.2.2. Giáo dục trung học cơ sở. Giáo dục THCS được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến lớp 9. Mục tiêu của giáo dục THCS là nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học lên THPT, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động. Giáo dục THCS phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở tiểu học, đảm bảo cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về Tiếng Việt, Toán, lịch sử dân tộc, các kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ, có những hiểu biết cần thiết về kỉ thuật và hướng nghiệp. 2.2.3. Giáo dục trung học phổ thông Giáo dục THPT được thực hiện trong 3 năm học, từ lớp 10 đến lớp 12. Mục tiêu của bậc học này là nhằm giúp học sinh của cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động sản xuất. Giáo dục THPT phải củng cố phát triển những nội dung đã học ở THCS hoàn thành nội dung học vấn phổ thông. Ngoài nội dung chủ yếu nhằm đảm bảo chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho học sinh còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh. 2.3. Giáo dục nghề nghiệp Giáo dục nghề nghiệp bao gồm trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ 3 – 4 năm đối với người tốt nghiệp THCS, từ 1 – 2 năm đối với người tốt nghiệp THPT. Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỉ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo kĩ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ có kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp. Dạy nghề nhằm đào tạo người lao động có kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp phổ thông, công nhân kỉ thuật, nhân viên nghiệp vụ. Về nội dung, giáo dục nghề nghiệp phải tập trung vào đào tạo năng lực nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức khoẻ, nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo. Về phương pháp, giáo dục nghề nghiệp phải kết hợp giảng dạy lí thuyết với rèn luyện kĩ năng thực hành, đảm bảo để sau khi tốt nghiệp người học có khả năng hành nghề. 18
  19. 2.4. Giáo dục đại học (Điều 38, 39 mục 4, chương 2) - Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện trong 3 năm đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc trung cấp. Mục tiêu của đào tạo trình độ cao đẳng là giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kĩ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo. - Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4 – 6 năm học, tuỳ theo ngành nghề được đào tạo, đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc THCN, từ 1 – 2 năm học đối với người tốt nghiệp Cao đẳng cùng chuyên ngành. Mục tiêu của đào tạo trình độ đại học là giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kĩ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo. - Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 2 – 3 năm đối với người tốt nghiệp đại học. Mục tiêu đào tạo trình độ thạc sĩ là giúp học viên nắm vững lí thuyết, có trình độ cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo. - Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ 2 - 3 năm đối với người có bằng thạc sĩ. Mục tiêu đào tạo trình độ tiến sĩ là giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lí thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết những vấn đề mới về khoa học – công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu khoa học và hoạt động chuyên môn. 2.5. Giáo dục không chính quy (GD thường xuyên) Giáo dục không chính quy là phương thức giáo dục giúp mọi người vừa làm, vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn chuyên môn nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. 2.6. Những xu hướng đổi mới của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta cần phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện theo những xu hướng sau đây: - Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp, tạo điều kiện cho tất cả mọi người dù ở đâu, dù trong hoàn cảnh nào cũng tìm ra cho mình một cách học phù hợp. - Đảm bảo sự liên thông giữa các bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân: liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp, liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp với giáo dục đại học và sau đại học… III. Nhiệm vụ của nền giáo dục XHCN Việt Nam. Nền giáo dục XHCN Việt Nam trong giai đoạ hiện nay có các nhiệm vụ sau đây: 1. Nâng cao dân trí 19
  20. Nói đến dân trí là nói đến trình độ học vấn của người dân, nói đến mặt bằng kiến thức của người dân. Nó là kết quả tổng hợp của GD GĐ- NT- XH là một chỉ số để đánh giá mức độ phát triển của một đất nước. Một quốc gia có trình độ dân trí cao là quốc gia mà trong đó đời sống vật chất tinh thần của nhân dân đạt trình độ cao, thể hiện trong đời sống chính trị, lối sống văn hoá, đạo đức, trong ý thức và hành vi của mỗi cá nhân đối với các mối QHXH. Mục tiêu chiến lược phát triển của VN là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một trong những giải pháp để đạt mục tiêu đó là nâng cao dân trí. Năm 2000 nước ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Chúng ta đang phấn đấu để thực hiện phổ cập THCS vào năm 2010 và phổ cập THPT vào năm 2020. Chỉ trên mặt bằng dân trí cao thì con người VN mới tiếp cận được xu thế phát triển chung của thế giới, có trình độ học vấn để thực hiện một cách tự giác các mục tiêu về dân số, môi trường, các vấn đề KT, XH khác. Đặc biệt khi nhân loại bước vào nền kinh tế tri thức thì việc nâng cao dân trí lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Muốn vậy phải xây dựng một hệ thống giáo dục mạnh từ bậc mầm non đến ĐH, đa dạng hoá các loại hình GD để mỗi công dân được hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ học tập của mình. 2. Đào tạo nhân lực Đây là vấn đề quan trọng trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, trong xu thế hội nhập và giao lưu, trong điều kiện nền KT thị trường vì trình độ được đào tạo của nguồn nhân lực là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả lao động. Việc đào tạo nhân lực được thực hiện thông qua toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân nhưng trực tiếp là các ngành giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải tập trung vào việc đào tạo hai nguồn nhân lực chủ yếu, đó là: đội ngũ trí thức và đội ngũ công nhân kĩ thuật lành nghề. 2.1. Về đào tạo đội ngũ trí thức Người ta qui định trí thức căn cứ vào trình độ học vấn, ở thế giới hiện đại ít nhất phải có bằng ĐH. Tuy nhiên có bằng ĐH chưa chắc là trí thức. Người được gọi là trí thức là người có học vấn cao, được XH thừa nhận, phải là người LĐ trí óc và phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo. Sự đối mặt với những thách thức của thời đại đã làm cho các Chính phủ tại nhiều quốc gia nhận ra rằng, trí tuệ là nguồn tài nguyên đặc biệt và quý giá nhất trong mọi nguồn. Đặc trưng của nguồn tài nguyên này là ở chỗ càng biết sử dụng và quý trọng nó thì nó càng nảy nở và phát triển. Một dân tộc mạnh chỉ khi nó có nguồn tài nguyên trí tuệ đủ sức giải quyết các bài toán của thời đại. Vì thế đào tạo và xây dựng đội ngũ trí thức là một vòng đua tranh quyết liệt của thời đại đi vào nền kinh tế tri thức, của thế kỉ 21. Đội ngũ trí thức VN khả năng làm việc không thua kém trí thức các nước, tuy nhiên hạn chế: thiếu thông tin, điều kiện làm việc còn hạn chế. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2