intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Phân tích Tài chính doanh nghiệp - ĐH Kinh doanh và công nghệ Hà Nội

Chia sẻ: Hồng Quân Shi | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:111

890
lượt xem
432
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phân tích tài chính doanh nghiệp được quan niệm như là một tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá được thực trạng tình hình tài chính hiện tại và quá khứ của Doanh nghiệp, thông qua đó cung cấp những thông tin cần thiết cho những đối tác khác nhau để họ có nhưng quyết định phục vụ cho những mục tiêu và lợi ích khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, phân tích tài chính không còn bị giới hạn ở các dữ liệu tài chính nữa mà đã có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Phân tích Tài chính doanh nghiệp - ĐH Kinh doanh và công nghệ Hà Nội

  1. Trường đại học kinh doanh và công nghệ hà nội Khoa Kế toán ----------------------------- G iáo trình Phân tích Tài chính doanh nghiệp Dành cho SV các khóa học 3 ĐVHT Hà Nội , 2011 Mục lục
  2. Phần thứ nhất Trang Chương 1:Những vấn đề chung của phân tích tài chính doanh nghiệp 3 1 .1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp. 3 1 .2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. 5 1 .3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp. 6 1 .4.Tổ chức công tác phân tích các loại phân tích 15 Chương 2:phân tích kết quả hoạt động kinh doanh 17 2 .1. Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến các quyết đ ịnh sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 19 2 .2. Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh hư ởng đến nó 22 2 .3. Phân tích lợi nhuận bán h àng 62 Chương 3:phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp 70 3 .1. Phân tích đánh giá thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các ch ỉ tiêu chủ yếu của bảng cân đối kế toán 71 3 .2. Phân tích tình hình tổ chức huy động vốn của doanh nghiệp 102 3 .3. Phân tích đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn của 104 doanh nghiệp 3 .4. Đắc điểm phân tích, đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp cổ phần 111
  3. Phân tích tài chính doanh nghiệp Chương 1 Những vấn đề chung của phân tích tài chính doanh nghiệp 1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp đ ược quan niệm như là một tổng thể các p hương pháp được sử dụng để đánh giá được thực trạng tình hình tài chính hiện tại và quá khứ của Doanh nghiệp, thông qua đó cung cấp những thông tin cần thiết cho những đối tác khác nhau để họ có nhưng quyết định phục vụ cho những mục tiêu và lợi ích khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, phân tích tài chính không còn bị giới hạn ở các dữ liệu tài chính nữa mà đã có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán, do vậy số đối tác quan tâm, sử dụng các báo cáo tài chính và thông tin từ kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp cũng ngày càng mở rộng và tăng lên. Ngoài đ ối tượng quan trọng là chủ doanh nghiệp, họ bao gồm. - Các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan thuế; - Các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính, những người mua tín phiếu, các doanh nghiệp khác, các công ty mẹ v.v...; - Các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai; - Những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những người làm công ăn lương; - Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp v.v... * Phân tích tài chính đối với các chủ doanh nghiệp. Là chủ doanh nghiệp, hơn ai hết họ là người rất quan tâm đến những thông tin được cung cấp thông qua kết quả của phân tích tài chính doanh nghiệp (được gọi là phân tích tài chính nội bộ), như kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh, kết quả của việc quản lý và
  4. sử dụng vốn, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính doanh nghiệp v.v... Những thông tin nói trên sẽ là cơ sở để các chủ doanh nghiệp lựa chọn, cân nhắc để đưa ra các quyết định đúng đắn về quản lý trong tương lai, như quyết định về đầu tư, về tài trợ, về phân bổ vốn và sử dụng vốn, về giải quyết tình hình công nợ, về phân chia và sử dụng lợi nhuận, điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, liên doanh liên kết v.v... * Phân tích tài chính đối với các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan thuế: Theo chế độ tài chính hiện hành, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp liên doanh, cổ phần có vốn của nhà nước đều quản lý và sử dụng một lượng tài sản và tiền vốn nhất định thuộc sở hữu nhà nước, do đó các cơ quan chức năng của nhà nước, như cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản đều quan tâm đến những thông tin về tình hình phân bổ và sử dụng vốn, tình hình đầu tư, khả năng tạo vố n, khả năng sinh lời, tình hình bảo to àn vốn v.v...; Với cơ quan thuế, vấn đề quan tâm với họ còn rộng hơn, cụ thể như kết quả hoạt động kinh doanh, việc thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước, như thu ế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, thuế vốn, thuế đất, thuế tài nguyên và các kho ản phải nộp khác... * Phân tích tài chính đối với các nhà cho vay, các chủ nợ của doanh nghiệp, các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai: Hiện nay, vốn vay và nợ phải trả chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp. Do vậy các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính, những người mua tín phiếu, trái phiếu, các nhà bán chịu cho doanh nghiệp đều rất quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, khả năng trả nợ vay, hiệu quả sử dụng vốn, thu nhập của cổ phiếu, tỉ suất lợi nhuận trên vốn cổ đông, tỉ lệ trả lãi cổ phần, tỉ giá thị trường trên thu nhập của mỗi cổ phiếuv.v... * Phân tích tài chính doanh nghiệp đối với những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những người làm công ăn lương: Là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, do đó quyền lợi của họ gắn liền và tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, tình hình đầu tư, khả năng thanh toán (đặc biệt là thanh toán nhanh) v.v... Đối với các doanh nghiệp cổ phần, người hưởng lương cũng quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn cổ đông cũng giống với sự quan tâm của cổ đông của doanh nghiệp.
  5. * Phâ n tích tài chính đối với các đối thủ cạnh tranh: Ho ạt động trong điều kiện của kinh tế thị trường, đặc biệt trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt. Trên cùng một thị trường, nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh mặt hàng (sản phẩm) giống nhau, ví dụ xe máy, ôtô, bia, đồ dùng gia d ụng v.v..., do đó các đối thủ cạnh tranh rất muốn biết những thông tin liên quan đ ến tình hình tài chính của doanh nghiệp khác, như kết quả sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tình hình đầu tư, tình hình và khả năng tạo vốn thông qua phát hành tín phiếu, trái phiếuv.v... Từ những vấn đề phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận rằng, có rất nhiều đối tượng quan tâm đến các báo cáo tài chính và những thông tin được rút ra từ phân tích tài chính của doanh nghiệp. Những thông tin có được qua phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để họ sử dụng trong việc đưa ra các quyết định có liên quan tới những mục đích khác nhau, như: - Quyết định có liên quan đến yêu cầu quản lý doanh nghiệp; - Quyết định chấp nhận hay từ chối cho vay, bán chịu; - Quyết định mua hay bán tín phiếu của doanh nghiệp; - Quyết định chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp (sát nhập, cổ phần, liên doanh, giải thể v.v...) v.v... Chính vì những ý nghĩa tác dụng nói trên nó đ ã khẳng định sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Để thực hiện được mục đích của việc phân tích tài chính doanh nghiệp, nội dung chủ yếu của nó bao gồm: - Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh; - Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp; 1.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp. Để thực hiện được các mục đích, phân tích tài chính thường sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương p háp đánh giá các kết quả kinh tế, p hương pháp tính (xác định) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, p hương pháp tương quanv.v...
  6. 1.3.1. Phương pháp đánh giá các kết quả kinh tế Để đánh giá các kết quả kinh tế cũng như kết quả của việc thực hiện các mục tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra, phân tích có thể sử dụng phương pháp phân chia các hiện tượng và kết quả kinh tế, phương pháp so sánh, phương pháp đồ biểu, đồ thịv.v... trong đó chủ yếu là phương pháp so sánh. * Về phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh, người ta sẽ đạt được các mục đích sau đây: - Thứ nhất, qua so sánh, người ta biết được mức độ (kết quả) của việc thực hiện các mục tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra. Muốn vậy, cần tiến hành so sánh giữa kết quả thực tế đạt được với mục tiêu hay kế hoạch đặt ra. - Thứ hai, qua so sánh, người ta biết được tốc độ, xu hướng phát triển của các hiện tượng và kết quả kinh tế; Muốn vậy cần so sánh giữa kết quả của kì này với kết quả của các kì trước. - Thứ ba , qua so sánh sẽ biết đ ược mức độ tiên tiến hay lạc hậu của từng đơn vị trong quá trình thực hiện mục tiêu của mình. Để đạt đ ược mục đích này, cần tiến hành so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị khác có cùng loại hình và qui mô hoạt động, đồng thời so sánh giữa kết quả của từng đơn vị với kết quả trung b ình của tổng thể. Tiến hành việc so sánh nói trên, có thể so sánh bằng số tuyệt đối, có thể so sánh b ằng số tương đ ối (thông qua các tỉ lệ), đồng thời phải có hai điều kiện: - Một là phải có (tồn tại) ít nhất hai chỉ tiêu ho ặc hai đại lượng thì mới có thể so sánh được; - Hai là các chỉ tiêu, các đại lượng khi so sánh với nhau phải có cùng một nội dung kinh tế và cùng một tiêu chuẩn biểu hiện. 1.3.2. Phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế. Như người ta biết, các hiện tượng và kết quả kinh tế thường chịu tác động bởi rất nhiều các nhân tố khác nhau. Các nhân tố có thể làm tăng, có thể làm giảm các kết quả kinh tế; nó có thể là nhân tố khách quan, có thể là nhân tố chủ quan; có thể là nhân
  7. tố chủ yếu và có thể là nhân tố thứ yếu v.v...Việc nhận thức đ ược các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố là vấn đề bản chất của phân tích. Để xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, phân tích có thể sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối, phương pháp chỉ số v.v... 1.3.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn. Phương pháp thay thế liên hoàn (còn gọi là phương pháp thay thế kiểu mắt xích) đ ược sử dụng để xác định (tính) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết qủa kinh tế khi các nhân tố ảnh hưởng này có quan hệ tích số, thương số hoặc kết hợp cả tích và thương với kết quả kinh tế. Nội dung và trình tự của phương pháp này như sau: - Trước hết, phải biết đựơc số lượng các nhân tốt ảnh hưởng, mối quan hệ của chung với chỉ tiêu phân tích, từ đó xác định đ ược công thức tính của chỉ tiêu. - Thứ hai, cần sắp xếp thứ tự các nhân tố theo một trình tự nhất định: Nhân tố số lượng xếp trước, nhân tố chất lượng xếp sau; trường hợp có nhiều nhân tố số lượng cùng ảnh hưởng thì nhân tố chủ yếu xếp trước nhân tố thứ yếu xếp sau và không đảo lộn trình tự này. - Thứ ba, tiến hành lần lượt thay thế từng nhân tố một theo trình tự nói trên - Nhân tố nào được thay thế, nó sẽ lấy giá trị thực tế từ đó, còn các nhân tố chưa được thay thế phải giữ nguyên giá trị ở kỳ gốc hoặc kỳ kế hoạch - Thay thế xong một nhân tố, p hải tính ra kết quả cụ thể của lần thay thế đó, lấy kết quả này so với (trừ đi) kết quả của b ước trước nó thì chênh lệch tính được chính là kết quả do ảnh hưởng của nhân tố vừa đ ược thay thế. - Cuối cùng, có bao nhiêu nhân tố phải thay thế bấy nhiêu lần và tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố phải bằng với đối tượng cụ thể của phân tích (chính là chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch hoặc kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích). Để làm rõ các vấn đề lý luận ở trên, có thể lấy một số ví dụ khái quát như sau:
  8. Ví dụ 1: Giả định chỉ tiêu A cần phân tích; A tuỳ thuộc vào 3 nhân tố ảnh hưởng, theo thứ tự a, b và c; các nhân tố này có quan hệ tích số chỉ tiêu A, từ đó chỉ tiêu A được xác đ ịnh cụ thể như sau: A = a.b.c Ta quy ước thời kỳ kế hoạch được ký hiệu là số 0 (số không) còn kỳ thực tế đ ược ký hiệu bằng số 1 (số một) - Từ quy ước này, chỉ tiêu A kỳ kế hoạch và kỳ thực tế lần lượt đ ược xác định như sau: A0 = a0 . b 0 . c0 và A1 = a1 . b 1 . c1 Đối tượng cụ thể của phân tích đ ược xác định là: A1 - A0 =  A Chênh lệch nói trên có thể đ ược giải thích bởi ảnh hưởng của ba nhân tố cụ thể là a, b và c; b ằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt đ ược xác định như sau: - Thay thế lần 1: Thay thế nhân tố a: a1 . b0 . c0 - a0 . b 0 . c0 = a a là ảnh hưởng của nhân tố a. - Thay thế lần 2: Thay thế nhân tố b. a1b1c0 - a1b 0c0 = b b là kết quả ảnh hưởng của nhân tố b. - Thay thế lần 3: Thay thế nhân tố c. a1 . b1 . c1 - a1b1c0 = c c là nhân tố ảnh hưởng của nhân tố c. - Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có: a + b +c = A = A1 - A0
  9. Ví dụ 2: Chỉ tiêu B cần phân tích: B tuỳ thuộc vào ba nhân tố, theo thứ tự a, b, c; các nhân tố này có quan hệ kết hợp cả thương và tích với chỉ tiêu B, từ đó B được xác đ ịnh như sau: a B= .c b Ta cũng quy ước như ví dụ 1, từ đó B0 và B1 lần lượt được xác định như sau: a0 B0 = . c0 và b0 a1 B1 = . c1 b1 Khi so sánh giữa B1 với B0, ta có: B1 - B0 = B B cũng do ảnh hưởng của ba nhân tố a, b, c và b ằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt xác định được như sau: - Do ảnh hưởng của nhân tố a (thay thế lần 1): a1 a0 . c0 = a . c0 - b0 b0 - Do ảnh hưởng của nhân tố b (thay thế lần 2): a1 a1 . c0 = b . c0 - b1 b0 - Do ảnh hưởng của nhân tố c (thay thế lần 3): a1 a1 . c0 = c . c1 - b1 b1 - Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta có: a + b + c = B = B1 - B0
  10. Từ thí dụ 1 đã trình bày ở trên, ta nhận thấy rằng ở các lần thay thế, giữa các đại lượng khi loại trừ lẫn nhau tồn tại các thừa số chung. Ví dụ ở lần thay thế thứ nhất, có các thừa số chung là b0, c0; ở lần thay thế thứ 2, các thừa số chung là a1, c0, còn ở lần thay thế thứ 3, các thừa sốchung là a1, b1. Về mặt toán học, người ta có thể nhóm các thừa số chung mà không làm thay đổi các kết quả đã đ ược tính toán. Kết quả của việc nhóm các thừa số chung, ta được phương pháp khác để tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố - đó là phương pháp số chênh lệch (lưu ý khi nhóm các thừa số chung vẫn p hải tuân theo các quy tắc và trình tự của phương pháp thay thế liên hoàn, đặc biệt là không được làm đảo lộn thứ tự ảnh hưởng của các nhân tố). Cụ thể, bằng phương pháp nói trên, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố ở ví dụ 1 lần lượt được xác định như sau: - Do ảnh hưởng của nhân tố a: a = (a1 - a0)b0c0 - Do ảnh hưởng của nhân tố b: b = a1(b 1 - b0)c0 - Do ảnh hưởng của nhân tố c: c = a1b1(c1 - c0) - Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta cũng có: a + b + c = A = A1 - A0 Từ kết quả tính toán ở trên, ta nhận thấy rằng thực chất của phương pháp số chênh lệch chỉ là hình thức giản đ ơn của phương pháp thay thế liên hoàn và nó thường đ ược sử dụng khi các nhân tố ảnh hưởng có quan hệ tích số với chỉ tiêu phân tích (việc tính toán khi đó sẽ đơn giản hơn). 1.3.2.2. Phương pháp cân đối. Khác với phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch, p hương pháp cân đối được sử dụng để tính mức độc ảnh hưởng của từng nhân tố khi chúng có quan hệ tổng với chỉ tiêu phân tích, cho nên mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố là độc lập với nhau và việc tính toán cũng đ ơn giản hơn.
  11. Cụ thể, để tính mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó, chỉ cần tính ra chênh lệch giữa thực tế với kế hoạch (k ỳ gốc) của bản thân nhân tố đó và không cần quan tâm đến các nhân tố khác. Ví dụ: Chỉ tiêu E cần phân tích: E chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố a, b, c và các nhân tố này có quan hệ tổng với chỉ tiêu E. Chỉ tiêu E được xác định như sau: E=a+b-c Cũng qui ước như ở p hần trước, ta có: E 0 = a0 + b 0 - c0 E 1 = a1 + b 1 - c1 Tiến hành so sánh giữa chỉ tiêu kỳ thực tế với kỳ kế hoạch ta có: E1 - E0 = E Khi sử dụng phương pháp cân đối, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt đ ược xác định như sau: - Do ảnh hưởng của nhân tố a: a = a1 - a0 - Do ảnh hưởng của nhân tố b: b = b1 - b0 - Do ảnh hưởng của nhân tố c: c = -(c1 - c0) - Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có: a + b + c = E = E1 - E0 1.3.3. Phương pháp tương quan Như người ta biết, giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế thường tồn tại những mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Đặc trưng cơ bản của các
  12. mối quan hệ này là sự thay đổi của hiện tượng hoặc kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo theo) sự thay đổi của các hiện tượng hoặc kết quả kinh tế khác. Nếu xét theo quan điểm triết học, giữa chúng tồn tại mối quan hệ nhân quả, còn xét theo quan đ iểm toán học, giữa chúng có mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc và nó có thể đ ược biểu hiện qua những hàm tương quan khác nhau - Vấn đề đặt ra là lựa chọn phương trình tương quan nao đ ể biểu thị tốt nhất sự phụ thuộc lẫn nhau hay là mối liên hệ chặt chẽ giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế - Đây cũng là vấn đề bản chất khi sử dụng các hàm tương quan trong phân tích. Mối tương quan giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế có thể tồn tại d ưới hai d ạng: Tương quan tỉ lệ thuận và tương quan tỉ lệ nghịch. Trường hợp tương quan tỉ lệ thuận - Trong trường hợp này, việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế này sẽ kéo theo (xác định) việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế khác và ngược lại. Người ta có thể gọi là mối tương quan đồng biến. Ví dụ, mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với tổng số chi phí sản xuất có tính chất b iến đổi - trong điều kiện các nhân tố khác không đổi (điều kiện yếu tố sản xuất không đổi), khi khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí sản xuất biến đổi cũng tăng lên và ngược lại. Nếu biểu hiện và theo dõi sự biến thiên của hai hiện tượng nói trên trong nhiều năm liên tục (ít nhất là 5 năm) trên cùng một hệ trục toạ độ XOY - trong đó OX là trục ho ành, biểu thị khối lượng sản phẩm sản xuất, còn OY là trục tung, b iểu thị tổng số chi phí sản xuất biến đổi, người ta nhận thấy rằng đường biểu diễn của nó có d ạng đường thẳng, gần trùng với đ ường biểu diễn của hàm số mà phương trình của nó có dạng: Y = a + bx đ iều đó có nghĩa là, có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng y = a + bx để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xu ất với tổng số chi phí sản xuất biến đổi; trong đó: Ox là trục biểu hiện giá trị khối lượng sản phẩm Oy là trục biểu hiện tổng số chi phí biến đổi. Đồ thị của hàm số y = a + bx có dạng là đường thẳng - Hình 1 y
  13. Hình 1 - Trường hợp tương quan tỉ lệ nghịch - Trường hợp này ngược lại với trường hợp trên, nghĩa là việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo theo) việc giảm của hiện tượng hay kết quả kinh tế khác và ngược lại. Có thể gọi nó là mối tương quan nghịch biến. Ví dụ mối tương quan giữa giá trị khối lượng sản phẩm sản xuất với tỉ suất chi phí sản xuất có tính chất cố định: Trong điêu kiện của nhân tố khác không đ ổi, nếu khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí cố định không biến động, còn tỉ suất của nó thì giảm và ngược lại. Cũng theo dõi sự biến động của hai hiện tượng trên cùng một hệ trục tọa độ xOy, trong đó Ox là trục ho ành, biểu thị khối lượng sản phẩm sản xuất, còn Oy là trục tung, biểu thị tỉ suất chi phí cố định, khi đó đường biểu diễn của nó có dạng đường cong gần giống với đường cong hypecbol ứng với hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng: b ya x đ iều đó có nghĩa là có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình có d ạng b để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xuất và tỉ suất chi ya x phí cố định - Trong đó Ox là trục biểu hiện khối lượng sản phẩm sản xuất; còn Oy là trục biểu hiện tỉ suất chi phí cố định. b Đồ thị của hàm số y  a  được biểu thị như sau - Hình 2 x y b ya x
  14. Hình 2 Các kết quả thu d ược khi sử dụng các hàm hồi quy thông qua ngoại suy chủ yếu p hục vụ cho phân tích dự đoán để lập các chỉ tiêu cho các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. Nhưng khi sử dụng các kết quả đó phải lưu ý rằng chúng được tính toán dựa trên các hiện tượng và kết quả kinh tế đã xẩy ra trong quá khứ và lại được sử dụng cho hiện tại và tương lai gần, trong đó chúng còn chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác. Do đó, cần p hải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để tiến hành điều chỉnh phù hợp với tình hình biến động của thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của các chỉ tiêu, giúp cho công tác quản lý đạt đ ược hiệu quả cao nhất. 1.4. Tổ chức công tác phân tích và các loại phân tích Cũng như bất kì công tác nào của doanh nghiệp, công tác phân tích tài chính cũng cần đ ược tổ chức một cách có hệ thống và khoa học để thực hiện đ ược các mục tiêu của nó. Cụ thể tổ chức công tác phân tích thường bao gồm 4 khâu (giai doạn) cơ b àn sau đây: - Khâu lập kế hoạch: Nội dung cơ bản của khâu này bao gồm: Nội dung, chỉ tiêu cần phân tích; khoảng thời gian mà các nội dung, chỉ tiêu đó phát sinh (trong quí, năm v.v...); thời hạn bắt đầu và kết thúc và cuối cùng là người, đơn vị thực hiện. - Khâu sưu tầm, lựa chọn kiểm tra tài liệu số liệu. Tuỳ thuộc vào nội dung và ch ỉ tiêu phân tích mà tiến hành sưu tầm, lựa chọn và kiểm tra số liệu, tài liệu sau đây: + Tài liệu kế hoạch, bao gồm hệ thống các định mức kinh tế kĩ thuật hiện hành,các mục tiêu, chỉ tiêu d ài hạn và ngắn hạn do chính doanh nghiệp tự xác định. + Tài liệu hạch toán, bao gồm tài liệu của hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê và hạch toán kế toán, trong đó chủ yếu là hạch toán kế toán. Cụ thể để phân tích tài chính doanh nghiệp cần sử dụng số liệu, tài liệu được rút ra từ báo cáo kết quả hoạt động kinh
  15. doanh (mẫu số B02 - DN), Bảng cân đối kế toán (mẫu số B01-DN), thuyết minh Báo cáo tài chính - mục chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính (mẫu số B09-DN). + Tài liệu ngoài hạch toán, bao gồm các biên bản thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, các báo cáo tổng kết hoạt động của doanh nghiệpv.v.. Vì các số liệu, tài liệu đ ược sưu tầm lựa chọn từ nhiều nguồn khác nhau nên cần kiểm tra để xác định tính chính xác, tính thống nhất của chúng. - Khâu xử lý, tính toán chỉ tiêu và tiến hành phân tích. Đây là khâu quan trọng nhất của công tác phân tích, do đó cần được tiến hành theo phương pháp phù hợp để đ ảm bảo kết quả của công tác phân tích. - Khâu lập báo cáo phân tích: Kết thúc công tác phân tích, cầ n lập báo cáo phân tích. Nội dung chủ yếu của báo cáo phân tích bao gồm: + Những kết luận đ ược rút ra từ công tác phân tích. + Những nguyên nhân chủ yếu đã ảnh hưởng đến các kết quả kinh tế của doanh nghiệp; + Những biện pháp cơ b ản cần áp dụng để khắc phục được những tồn tại đã qua, động viên và khai thác khả năng tiềm tàng của kì sắp tới. * Các loại phân tích: Tu ỳ theo mục đích và phạm vi khác nhau, phân tích tài chính có thể được phân thành phân tích thực hiện và phân tích d ự đoán; Trong phân tích thực hiện có thể bao gồm phân tích to àn diện và phân tích chuyên đề. Nói chung, phân tích chuyên đ ề thường tiến hành thường xuyên (ho ặc định kì), còn phân tích toàn diện chỉ có thể tiến hành theo đ ịnh kì. Để nâng cao đ ược giá trị của những kết luận đ ược rút ra từ phân tích, cần kết hợp sử dụng các kiến thức của các môn học có liên quan, như thống kê, kinh tế, tài chính doanh nghiệp, kế toánv.v... và áp dụng những thành tựu của các phương tiện kĩ thuật tính toán hiện đại sao cho kết quả thu đ ược ngày càng cao hơn, p hục vụ tốt nhất cho các mục tiêu của quản lý doanh nghiệp.
  16. Chương 2 Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh Như người ta biết, có rất nhiều đối tác quan tâm và sử dụng các số liệu được p hản ánh trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, trong đó có báo cáo "kết quả hoạt động kinh doanh" - mẫu số B02 -DN. * Với các nhà đầu tư, vì mục tiêu của họ là lợi nhuận, do đó họ rất quan tâm đ ến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định tiếp tục hay ngừng việc đầu tư vào doanh nghiệp (ví dụ tiếp tục mua hay quyết định bán tín phiếu của doanh nghiệp). * Với các nhà cho vay, họ quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định cho vay hay từ chối tín dụng, bởi vì kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo hoàn trả cả vốn và lãi tiền vay cho họ. * Với các nhà cung cấp, dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh, họ đánh giá đ ược khả năng thanh toán, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, do vậy nó là cơ sở để họ quyết định có tiếp tục hay ngừng việc cung cấp (bán hàng) thiết bị, vật tư cho doanh nghiệp; * Với cơ quan thuế, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để cơ quan thu ế xác định đ ược các khoản thu từ doanh nghiệp, trong đó có thuế thu nhập doanh nghiệp; Với các cơ quan chức năng của nhà nước, thông qua kết quả hoạt động kinh doanh, họ có các quyết định điều c hỉnh các cơ chế chính sách tài chính, cơ chế quản lý sao cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ví dụ chính sách ưu đ ãi về Tài chính - Tín d ụng, việc sát nhập, cổ phần, bán, cho thu ê, giải thể doanh nghiệpv.v... Với những người tham gia vào ho ạt động của doanh nghiệp, đương nhiên kết quả hoạt động kinh doanh trực tiếp liên quan đến thu nhập của họ v.v... * Với bản thân doanh nghiệp: Trong điều kiện hiện nay, đ ương nhiên để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp p hải bán đ ược sản phẩm d o doanh nghiệp sản xuất ra. Việc bán đ ược sản phẩm có nghĩa là sản phẩm do doanh nghiệp làm ra đ ã được thị trường chấp nhận, do đó doanh nghiệp sẽ thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm, từ đó mới có điều kiện để bù
  17. đ ắp được những chi phí đ ã b ỏ ra, tiếp tục quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, để tồn tại và phát triển, số tiền thu về do bán sản phẩm phải lớn hơn số tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và bán được sản phẩm đó. Nói cách khác, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả tức là phải thu được lợi nhuận. Như vậy, lợi nhuận phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có đ ược lợi nhuận, doanh nghiệp mới thực hiện đ ược việc bổ xung thêm vốn, từ đó mới có điều kiện để mở rộng hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư phát triển, tạo ra những tiền đề cơ bản để tiếp tục nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh, đồng thời không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, thực hiện đ ược các nghĩa vụ với nhà nước, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của ngành nói riêng, của đất nước nói chung. Với tất cả những ý nghĩa nói trên, người ta thấy rằng cần thiết phải tiến hành phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp. * Nội dung chủ yếu của phân tích kết quả hoạt động kinh doanh bao gồm: - Phân tích môi trường kinh doanh và tác đ ộng của nó đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Phân tích chỉ tiêu lợi nhuận bán hàng. * Tài liệu chủ yếu dùng để phân tích: - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (mẫu số B.02 -DN). - Thuyết minh báo cáo tài chính (mẫu số B.09-DN). - Báo cáo chi tiết về kết q uả sản xuất, chi phí và giá thành sản phẩm, và tiêu thụ sản phẩm v.v... Sau đây sẽ lần lượt tiến hành phân tích các nội dung nói trên. 2.1. Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến các quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh là tập hợp những lực lượng "ở bên ngoài" mà các doanh nghiệp đều phải tính đến khi xác định chiến lư ợc kinh doanh, vì các doanh nghiệp
  18. không thể là một thực thể cô lập và hoạt động của nó không thể tự đóng kín với môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp thường đa dạng, sinh động và sự biến động của nó có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy cần thiết phải phân tích môi trường kinh doanh để thông qua đó giúp cho các nhà qu ản lí có thể dự đoán đ ược khả năng có thể xảy ra để hướng cho doanh nghiệp ứng phó đ ược kịp thời, tránh đ ược những rủi ro không cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Như người ta biết, câu hỏi đầu tiên đặt ra với các nhà quản lí là về chiến lược sản phẩm. Cụ thể trong giai đoạn hiện tại, đâu là sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp và trong tương lai, hướng phát triển sản phẩm mới của doanh nghiệp như thế nào... Để trả lời câu hỏi đó, cần thiết phải nghiên cứu, phân tích các vấn đề sau đây: - Vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp; - Đối thủ cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; - Quan hệ với các nhà cung cấp; - Các yếu tố về chính trị, kinh tế, tự nhiên, xã hội, văn hoá, khoa học kĩ thuật v.v... * Trước hết là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm: Trước khi quyết định về qui mô, khối lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã sản phẩm cần sản xuất kinh doanh thì phải biết rõ khách hàng của doanh nghiệp là ai (đối tượng phục vụ của doanh nghiệp). Ví dụ nếu người tiêu dùng thuộc các khu đô thị có thu nhập cao thì vấn đề chủ yếu đối với họ là mẫu mã, chất lượng và tính năng của sản phẩm, còn giá cả của sản p hẩm có cao hơn, họ vẫn chấp nhận được. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp cần p hải đầu tư chiều sâu, hiện đại hoá thiết b ị, sử dụng công nghệ cao, tìm ngu ồn cung cấp nguyên liệu đúng chủng loại đảm bảo chất lượng, sử dụng đội ngũ lao động có tay nghề đ ể tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đ ẹp, chủng loại phong phú. Trường hợp người tiêu dùng thuộc vùng nông thôn, miền núi, kinh tế chậm phát triển, thu nhập tiền tệ thấp, khi đó họ quan tâm chủ yếu đến giá bán của sản phẩm. Trường hợp người tiêu dùng là các cơ quan, tổ chức, tập thể thì các yếu tố giá cả, thị hiếu không phải là trọng yếu; Trường hợp người tiêu dùng là các nhà buôn, nhu cầu của họ thường rất lớn vì họ mua để bán kiếm lời, do đó họ quan tâm đến tất cả các yếu tố có liên quan nói trên. Trường hợp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm để xuất khẩu thì yêu cầu về chất lượng,
  19. qui cách, mẫu mã, bao bì đóng gói và thời hạn giao hàng đ òi hỏi doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt theo hợp đồng đã kí kết. Cuối cùng nếu người tiêu dùng là các doanh nghiệp khác, sản phẩm của ta lại là nguyên liệu của họ thì cái họ quan tâm lại là số lượng, chất lượng và giá cả của sản phẩm. Như vậy tuỳ thuộc vào đối tượng phục vụ mà doanh nghiệp có các quyết định thích ứng kịp thời, sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, vừa tăng được lợi ích cho bản thân doanh nghiệp. * Về đối thủ cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là xu thế tất yếu mà các doanh nghiệp đ ều phải chấp nhận. Đối thủ cạnh tranh là các doanh nghiệp hiện tại cùng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cùng lo ại và các doanh nghiệp sẽ hình thành tương lai gần, bao gồm cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Số lượng các doanh nghiệp cùng lo ại hình sản xuất càng nhiều, qui mô càng lớn thì mức độ cạnh tranh càng khốc liệt, vì thế người ta mói nói "thương trường là chiến trường". Sức mạnh của cạnh tranh được thể hiện thông qua chất lượng, mẫu mã, giá trị sử dụng, giá bán của sản phẩm cũng như thông qua phương thức bán, hình thức bán, phương pháp tiếp thị, quảng cáo v.v.... Hoạt động trong môi trường cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm biện pháp để giảm chi phí, nâng cao chất lượng, thường xuyên cải tiến mẫu mã, thay đổi cơ cấu mặt hàng, tìm kiếm thị trường mới và cuối cùng để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, cần xây dựng và bảo vệ được thương hiệu của doanh nghiệp. * Về quan hệ với các nhà cung cấp: Để tiến hành sản xuất (để đáp ứng đầu vào), doanh nghiệp cần xác lập mối quan hệ thường xuyên tin cậy với các nhà cung cấp, bao gồm các nhà cung cấp thiết bị, vật tư, lao động, tiền vốn, thông tin v.v.... Mối quan hệ càng rộng, mức độ càng bền vững thì tính ổn định của đầu vào càng cao và do đó nó là tiền đề rất quan trọng đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ổn định và phát triển. * Về các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô: - Yếu tố chính trị: Tuy tiến hành ho ạt động kinh doanh, nhưng kết quả của hoạt động kinh doanh lại tuỳ thuộc không nhỏ vào yếu tố chính trị. Đó là sự ổn định về chính trị, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, các quan điểm, các chính sách, chế độ của nhà nước về hội nhập, về đầu tư của nước ngo ài, về tài chính, tín dụng, giá cả, thuế v.v... Nhận thức được các yếu tố nói trên sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được
  20. giới hạn của hành lang pháp lí, từ đó đưa ra được các quyết định thích hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (Ví dụ khi nhà nước đ ưa ra các biện pháp đ ảm bảo an to àn giao thông, giảm lượng xe máy lưu thông trên đường thì các nhà sản xuất xe máy cần xác định lại qui mô sản xuất và cơ cấu mặt hàng cho phù hợp). - Yếu tố kinh tế: Vì sức mua có tác động rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh, do đó khi quyết định mở rộng hay thu hẹp qui mô sản xuất kinh doanh, quyết định đầu tư chiều sâu hay quyết định thay đổi cơ cấu mặt hàng sản xuất kinh doanh, các nhà quản lí doanh nghiệp đều phải tính đến yếu tố kinh tế hiện thời, như tốc độ tăng trưởng của ngành, của toàn bộ nền kinh tế, chính sách lãi suất ngân hàng, chính sách khuyến khích hay hạn chế đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, việc đổi mới cơ chế quản lí đối với doanh nghiệp nhà nước v.v... - Yếu tố tự nhiên: Tu ỳ thuộc vào đặc điểm của sản phẩm, các nhà quản lý phải tính đến nguồn lực và tài nguyên thiên nhiên vì nó là yếu tố cơ bản để đảm bảo cung cấp đầu vào, như điện nước, dầu mỏ, quặng, rừng, đất đaiv.v.... Mặt khác, để bảo vệ môi trường sinh thái, các doanh nghiệp cần có quyết định lựa chọn thiết bị, công nghệ sản xuất phù hợp để trong quá trình sản xuất nó đảm bảo được các tiêu chuẩn do vệ sinh môi trường qui định. - Yếu tố văn hoá, xã hội: Vì đối tượng phục vụ của doanh nghiệp suy đến cũng đ ều là nhu cầu tiêu dùng của con người, do vậy các quyết định liên quan đ ến sản xuất đ ều phải tính đến yếu tố văn hoá và xã hội. Yếu tố này bao gồm: sự gia tăng về dân số, cơ cấu và việc phân bổ dân cư, thói quen, truyền thống văn hoá và tiêu dùng, vấn đề thị hiếu tiêu dùng, nhận thức, thái độ của con người trước cuộc sống hiện tại, các quan niệm, lối sống và các giá trị văn hoá, đạo đức xã hội v.v...Các yếu tố nói trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định sản xuất về số lượng cơ cấu, chất lượng, mẫu mã của sản phẩm. - Yếu tố khoa học kĩ thuật: Ngày nay, khoa học kĩ thuật đang phát triển với tốc độ rất nhanh, do vậy để không bị lạc hậu, để tăng khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến yếu tố khoa học kĩ thuật để có quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất để tạo ra b ước thay đổi cơ b ản về chất lượng, mẫu mã, tăng năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2