intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hóa chất trong thực phẩm

Chia sẻ: Nguyễn Phương Liên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

356
lượt xem
145
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sự lạm dụng hóa chất trong chế biến và bảo quản thực phẩm tiêu dùng của người dân đã đến độ nghiêm trọng. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có 35% số nạn nhân thế giới mắc bệnh ung thư liên quan đến yếu tố thực phẩm và cung cách ăn uống thường ngày.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hóa chất trong thực phẩm

  1. Hóa chất trong thực phẩm
  2. Hóa chất trong thực phẩm SOS! Sự lạm dụng hóa chất trong chế biến và bảo quản thực phẩm tiêu dùng của người dân đã đến độ nghiêm trọng. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có 35% số nạn nhân thế giới mắc bệnh ung thư liên quan đến yếu tố thực phẩm và cung cách ăn uống thường ngày. Các hóa chất hay bị lạm dụng Borax (hàn the) Đó là tên thương mại của hóa chất sodium tetra borate decahydrate. Borax là một loại bột trắng dễ hòa tan trong nước. Khi tiếp xúc với nước, ngoài tính hòa tan, chất này còn hút nước hay gọi là ngậm nước để được bão hòa với 12 phân tử nước. Chính vì tính chất này mà hóa chất trên được ứng dụng nhiều trong kỹ nghệ thực phẩm. Đây cũng là một hóa chất có tính khử trùng và trừ sâu rầy nhẹ. Borax còn được dùng để khử nước “cứng” là nước chứa nhiều calcium carbonate (vôi). Vì đây là một loại thuốc sát trùng nhẹ cho nên tính độc hại của nó cũng ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Borax có thể xâm nhập cơ thể qua đường thực quản, khí quản, da hoặc mắt... Tùy theo liều lượng của borax xâm nhập vào người, phản ứng cấp tính của cơ thể diễn tiến như từ nhẹ đến nặng: nhức đầu - cơ thể bải hoải - mạch tim đập nhanh - áp suất máu giảm - có thể bị phong giật và đi đến bất tỉnh. Qua tiếp nhiễm dài hạn, có thể dẫn đến trầm cảm; đối với phụ nữ có thể gây nên tình trạng hiếm muộn vì hóa chất này sẽ làm giảm thiểu thời kỳ rụng trứng. Trong bánh tráng, bánh canh có thể chứa chất thuộc nhóm sulfur. Sulfite Đây là một loại hóa chất thuộc nhóm sulfur có thể xâm nhập vào thực phẩm tự nhiên trong môi trường hay được thêm vào thực phẩm để bảo quản hay làm tăng hương vị đặc biệt của thực phẩm. Các sản
  3. phẩm được một số nhà sản xuất áp dụng tính chất này là: bánh tráng, các loại bột dưới dạng sợi như bánh canh, bún, miến… Hóa chất trong xì dầu Hóa chất có tên viết tắt là 3-MCPD, hay tên hóa học đầy đủ là 3-monochloropropane-1,2-diol. Trong quy trình sản xuất xì dầu, phương pháp thủy phân bằng acid chlorhydric (HCl) trên các loại bánh dầu thực vật như đậu nành, đậu xanh, hay trong các mô mỡ động vật… cho ra phế phẩm trên và một số hóa chất tương tự thuộc nhóm chloropropanol. Tương tự như các hợp chất hữu cơ chứa chlor khác, 3-MCPD khi đi vào cơ thể qua đường thực phẩm sẽ tích tụ trong các mô mỡ và gan. Qua thời gian, một khi liều lượng của hóa chất trên cao hơn mức an toàn của cơ thể có thể chấp nhận được, nguy cơ bệnh ung thư sẽ xảy ra. Theo Ủy ban Khoa học Thực phẩm châu Âu, 3-MCPD được xếp vào hạng hóa chất có nguy cơ gây ung thư và di truyền (genotoxic carcinogen). Sự hiện diện của hóa chất trong cơ thể phải được hạn chế tối đa và định mức chấp nhận hằng ngày trong cơ thể (Tolerable Daily Intake – TDI) là 2ug/kg/cơ thể. Formol Formol có tên hóa học là formaldehyde, công thức la HCHO. Ở dạng lỏng, formol có mùi rất khó ngửi và chỉ được tung ra thị trường dưới dạng hòa tan trong rượu methanol từ 37 - 50%. Do đó, ngoài độc chất là formol, chúng ta cũng cần để ý đến độc tính của rượu methanol hay methylic. Trong quá trình chưng cất rượu ethylic, hay rượu cồn, luôn luôn có thêm một phó phẩm là methanol rất độc. Khi con người khi bị tiếp nhiễm formol qua da, mắt cảm thấy ngứa ngáy khó chịu. Khi bị xâm nhập vào thực quản, cơ thể sẽ phản ứng mạnh mẽ như ói mửa, bị tiêu chảy và mất nước mau chóng có thể đi đến tử vong. Nếu da bị tiếp xúc lâu ngày sẽ trở thành nhạy cảm, dị ứng và có những chứng bệnh ngoài da phát sinh như bệnh gảy ngứa (eczema). Urea, nitrite, nitrate Urea là một loại phân hóa học có nhiều chất đạm (nitrogen) còn có tên do nông dân thường gọi là phân “lạnh”. Urea rất cần thiết cho cây trồng, nhưng sự lạm dụng phân bón trong nông nghiệp đã làm cho nguồn nước bị ô nhiễm nặng. Qua quá trình phản ứng trong đất và nước, dư lượng urea sẽ biến thành nitrite và nitrate. Chất sau này là nguyên nhân chính của hiện tượng Blue baby Syndrome, nghĩa là một bệnh về máu của trẻ sơ sinh. Urea cũng có đặc tính phụ là kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn cho nên đã bị lạm dụng để bảo quản thực phẩm như tôm cá, giữ được sắc còn tươi dù đã để lâu ngày. Người dân đánh cá mang urea theo dùng để thay thế nước đá. Còn nitrite, đã được sử dụng làm cho cây trái, rau đậu được tươi xanh. Hóa chất trên là mầm móng của ung thư nhất là ở dạ dày và ruột già. Chì, thủy ngân, arsenic Ba hóa chất này là 3 kim loại độc hại có mặt trong nguồn nước qua nguồn phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật. Tuy nhiên, một số kỹ thuật chế biến không đúng cách cũng làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Và đây là một nguy cơ ung thư rất lớn.
  4. Calcium carbide hay khí đá Đây là một hóa chất ở thể rắn màu xám có công thức hóa học là CaC2. Dễ gây phản ứng phát nhiệt mạnh với nước, có thể cháy hoặc nổ. Con người khi bị tiếp nhiễm qua mắt và da, sẽ cảm thấy khó chịu, chảy nước mắt và ngứa. Nếu bị tiếp nhiễm qua đường thực quản có thể bị hôn mê và dẫn đến tử vong. Kỹ nghệ trái cây sử dụng đến hóa chất này nhiều nhất. Để “thúc” trái cây có lợi điểm là làm bắt mắt người mua, nhưng phẩm chất của trái cây không còn giữ được như trong tự nhiên nữa như độ ngọt và mùi vị sẽ kém đi. Hiện nay khí đá đã được thay thế bằng một hóa chất tổng hợp khi pha vào nước sẽ gây phản ứng cho ra khí đá và làm trái cây chín sau vài giờ ngâm trong dung dịch. Thận trọng khi sử dụng trái cây nhập khẩu có chất bảo quản không có lợi cho sức khỏe. Hóa chất bảo quản sodium benzoate Trong kỹ nghệ, sodium benzoate là một hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm để khỏi bị hư và có tính chống mốc. Hóa chất này sẽ giúp thực phẩm không bị đổi màu, giữ mùi nguyên thủy và sau cùng bảo quản các thành phần cấu tạo sản phẩm cũng như không làm biến dạng. Theo Cơ quan Quản lý Thực phẩm Hoa Kỳ, mức chấp nhận của hóa chất này trong thực phẩm là 0,1%. Và nồng độ có thể gây tử vong khi xâm nhập vào cơ thể là 2g/kg/trọng lượng cơ thể. Hóa chất bảo vệ thực vật Người tiêu dùng thường nói “chớ thấy rau, củ, quả xanh tươi mà ham mua”. Đó là cách tránh không bị mua phải thực phẩm dùng quá nhiều hóa chất bảo vệ thực vật. Có hai loại thường dùng nhất là endo sulfan và metamidophos; chất sau này còn có tên thương mại là monitor. Monitor là một hoá chất bảo vệ thực phẩm gốc phosphor. Đây là một loại thuốc trừ sâu rất độc đối với hệ thần kinh và nội tạng. Người tiêu dùng thực phẩm có thể bị ngộ độc cấp tình như tức ngực, khó thở, chảy nước mũi, đau đầu, đau bụng, buồn nôn, rối loạn nhịp tim… Khi chất này tích tụ trong cơ thể lâu ngày có nguy cơ gây ngộ độc mạn tính, phá hủy các cơ quan nội tạng và dẫn đến các chứng ung thư.
  5. Các phẩm màu trong thực phẩm Trong thực phẩm, màu giữ một địa vị rất quan trọng. Nó làm cho sản phẩm bắt mắt hơn, gây chú ý cho người mua và gây ảnh hưởng tốt về phẩm chất của món hàng. Có hai loại màu: màu tổng hợp và màu thiên nhiên. Màu thiên nhiên được trích từ các mô của cây cỏ. Còn màu tổng hợp thường tan trong nước và ổn định hơn. Lợi điểm của màu tổng hợp là màu rất bền không bị tác dụng do thời gian, nhiệt độ hay ánh sáng. Các nhà sản xuất thực phẩm rất thích dùng loại màu tổng hợp hơn. Các màu tổng hợp được dùng để nhuộm đỏ như sudan hay rhodamine là một trong những hóa chất có nguy cơ gây ung thư. Borax hay hàn the Borax còn gọi là hàn the. Đó là tên thương mãi của hóa chất sodium tetra borate decahydrate, có công thức là Na2B4 O7,10 H2O. Borax là một loại bột trắng dẽ hòa tan trong nước. Khi tiếp xúc với nước ngoài tính hòa tan, chất nầy còn hút nước hay gọi là ngậm nước để được bảo hòa với 12 phân tử nước. Chính vì tính chất sau cùng nầy mà hóa chất trên được ứng dụng nhiều trong kỹ nghệ thực phẩm. Đây cũng là một hóa chất có tính khử trùng và trừ sâu rầy nhẹ. Trong kỹ nghệ bột giặt, borax được dùng như một chất phụ gia để chống ẩm và không biến bột giặt đóng cụt theo thời gian vì độ ẩm cao trong không khí. Borax còn được dùng để khử nước “cứng” vì chứa nhiều calcium carbonate (vôi). Vì đây là một loại thuốc sát trùng nhẹ cho nên tính độc hại của nó cũng ảnh hưởng lên con người. Khi tiếp xúc với borax qua đường thực quản, cơ thể sẽ cảm thấy khó chịu như bị dị ứng và có thể đưa đến tử vong khi hấp thụ một liều lượng lớn. Qua đường khí quản, da hoặc mắt, cơ thể cũng có phản ứng tương tự nhưng nhẹ hơn. Tùy theo liều lượng của borax xâm nhập vào người, phản ứng cấp tính của cơ thể diễn tiến như sau từ nhẹ đến nặng: nhức đầu – cơ thể bải quải – mạch tim đập nhanh – áp suất máu giảm – có thể bị phong giựt (seizure) và đi đến bất tỉnh. Qua tiếp nhiễm dài hạn, con người có cảm giác bị trầm cảm (depression), và đối với phụ nữ có thể bị sinh ra hiếm muộn vì hóa chất nầy sẽ làm giảm thiểu thời kỳ rụng trứng. Chính nhờ tính ngậm nước và khử trùng của borax mà còn người đã lợi dụng trong nhiều dịch vụ không chính đáng. Trong giai đoạn sau 1975, kỹ nghệ làm xà bông cây và kem đánh răng đã xử dụng borax để tăng độ cứng của xà bông và vì hấp thụ thêm nước cho nên cân lượng của xà bông nặng hơn nhưng độ sủi bọt và độ tẩy rửa rất kém so với trọng lượng. Trong kỹ nghệ kem đánh răng cũng thế, borax làm kem không bị “chảy nước” và nhờ đó có thể thêm vào nhiều vôi và magnesium vào để tăng trọng lượng của kem mà không có tác dụng gì đến việc làm sạch răng; đôi khi còn làm lở nướu răng nữa vì hàm lượng vôi cao.. Đối với kỹ nghệ thực phẩm hiện tại, nhiều loại bánh tránh, bánh phở, hủ tiếu được cho thêm borax để được dai, cứng, lâu thiu hơn. Còn các loại chả lụa, chả quế cũng được tăng thêm độ dòn, chống được mốc meo và lâu thiu cũng nhờ borax. Đối với các loại thực phẩm tươi như thịt cá để lâu ngày đã biến dạng, nếu có thêm borax, chúng trở nên nên cứng và có vẻ tươi trở lại. Đại khái trên đây là những ứng dụng không lành
  6. mạnh của borax mà con buôn dùng các thủ thuật nầy trong thực phẩm để làm sai lạc và đánh lầm thị hiếu của người mua. Formol Formol có tên hóa học là formaldehyde, công thức là HCHO. Ở dưới dạng lỏng, formol có mùi rất khó ngữi và chỉ được tung ra thị trường dưới dạng hòa tan trong rượu methanol từ 37 đến 50%. Do đó, ngoài độc chất là formol, chúng ta cũng cần để ý đến độc tính của rượu methanol hay methylic. Trong quá trình chưng cất rượu ethylic, hay rượu cồn, luôn luôn có thêm một phó phẩm là methanol rất độc. Do đó, thỉnh thoảng chúng ta vẫn thường thấy trên báo chí Việt Nam nhiều trường hợp bị nhiễm độc đi đến tử vong do uống rượu methylic kỹ nghệ là do hóa chất nầy. Trở về formol, con người khi bị tiếp nhiễm qua da, mắt cảm thấy ngứa ngái khó chịu. Khi bị xâm nhập vào thực quản, cơ thể sẽ phản ứng mạnh mẽ như ói mữa, bị tiêu chảy và mất nước mau chóng có thể đi đến tử vong. Nếu da bị tiếp xúc lâu ngày sẽ trở thành nhạy cảm, dị ứng và có những chứng bịnh ngoài da phát sinh như bịnh gảy ngứa (eczema). Như mọi người đều biết, công dụng chính thức của formol ngoài việc được xử dụng trong các phản ứng điều chế hóa chất cơ bản trong kỹ nghệ, formol còn được dùng để bảo quản các xác chết để khỏi hư thúi. Theo Chương Trình độc tố Quốc gia của Bộ Y tế HK thì hóa chất nầy được xếp vào loại hóa chất có nguy cơ gây ra bịnh ung thư khi bị tiếp nhiễm dài hạn. Còn trong thực phẩm, formol đã được tẩm lên bánh phở để chống thiu và vấn nạn nầy đã nổ lớn và làm náo động thị trường buôn bán phở ở VN cũng như ở hải ngoại, những nơi có người Việt định cư ở những năm vừa qua và vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Calcium carbide hay khí đá Đây là một hóa chất ở thể rắn màu xám có công thức hóa học là CaC2. Dễ gây phản ứng phát nhiệt mạnh với nước, có thể cháy hoặc nổ. Con người khi bị tiếp nhiễm qua mắt và da, sẽ cảm thấy khó chịu, chảy nước mắt và ngứa ngái. Nếu bị tiếp nhiễm qua đường thực quản có thể bị hôn mê và đi đến tử vong. Kỹ nghệ trái cây chiếu cố đến hóa chất nầy nhiều nhất. Trái cây từ nhà vườn được hái khi chưa được chín tới mức để tránh bị dập hư trong khi chuyên chở. Khi đi đến vựa trái cây ở các thành phố, trái cây ngay sau đó được ủ trong khí đá; và chỉ vài giờ sau, các trái cây còn xanh như chuối, xoài, đu đủ v.v... sẽ có màu tươi tốt như mới vừa chín tới. Việc dùng khí đá để “thúc” trái cây có lợi điểm là làm bắt mắt người mua, nhưng phẩm chất của trái cây không còn giữ được như trong tự nhiên nữa như độ ngọt và mùi vị sẽ kém đi. Và vì bị “vú ép” cho nên độ đường không tăng trưởng đúng chu kỳ của trái cây, do đó trái cây mất đi vị ngọt tự nhiên. Thêm nữa, sự nguy hiểm của việc vú ép bằng hóa chất nầy có thể tạo ra hỏa hoạn, và điều nầy đã được chứng minh trong quá khứ tại chơ Cầu Ông Lãnh, vựa trái cây chính của thành phố. Hóa chất bảo quản sodium benzoate Trong kỹ nghệ, sodium benzoate là một hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm để khỏi bị hư và có tính chống mốc. Hóa chất này sẽ giúp thực phẩm không bị đổi màu, giữ mùi nguyên thủy, và sau cùng bảo quản các thành phần cấu tạo sản phẩm cũng như
  7. không làm biến dạng. Công thức hóa học của sodium benzoate là NaO-C6H5. Theo Cơ quan Quản lý Thực phẩm HK, mức chấp nhận của hóa chất nầy trong thực phẩm là 0,1%. Và nồng độ có thể gây tử vong khi xâm nhập vào cơ thể là 2g/Kg/trọng lượng cơ thể. Qua độc tính kể trên, chúng ta cần phải nói đến quá trình điều chế hóa chất trên. Theo quy trình sản xúât sodium benzoate, một phế phẩm độc hại là phenol luôn hiện diện trong thành phẩm nầy. Do đó, sodium benzoate sau khi sản xuất cần phải khử phenol trước khi tung ra thị trường cho kỹ nghệ thực phẩm. Nếu không, nguy cơ bị nhiễm độc do phenol rất lớn, và hóa chất nầy ảnh hưởng đến hệ thần kinh, nhất là đối với trẻ em và thai nhi trong bụng mẹ khi bị tiếp nhiễm qua đường thực phẩm. Hiện tại hóa chất trên được nhập cảng từ Trung Quốc và dĩ nhiên có chứa rất nhiều tạp chất như phenol. Vì vậy, cần phải xem xét xuất xứ của hóa chất trước khi đem áp dụng vào thực phẩm. Hóa chất tẩy trắng chloride sodium hydrosufite. Đây là một loại bột trắng, khi bị tiếp nhiễm qua đường khí quản, căn cứ theo Cơ quan Quyền lực Âu châu về An toàn Thực Phẩm (AESA), cơ thể con người sẽ cảm thấy bị khó thở và có thể bị nghẹt thở. Đôi khi bị ho rũ rượi. Sự hiện diện của nguyên tố chlor cũng là nguyên nhân của nguy cơ ung thư nếu bị tiếp nhiễm lâu dài. Trong kỹ nghệ thực phẩm, hóa chất nầy được dùng để làm trắng các sản phẩm để làm bắt mắt người tiêu dùng. Các sản phẩm được nhà sản xuất áp dụng tính chất nầy là: bánh tráng, các loại bột dưới dạng sợi như bánh canh, bún, miếng v.v….. Một thí dụ điển hình là trước kia, bánh tráng sản xuất từ VN có màu ngà, và hay bi bể vì dòn. Trong thời gian sau nầy, bánh tráng trở nên trắng phau, được cán mõng, và đặc biệt rất dai, nhúng nước và cuốn không bị bể ra. Đó là do công lao của borax và hóa chất tẩy trắng. Các phẩm màu trong thực phẩm Trong thực phẩm, màu giữ một địa vị rất quan trọng. Nó làm cho sản phẩm bắt mắt hơn, gây chú ý cho người mua và gây ảnh hưởng tốt về phẩm chất của món hàng. Có hai loại màu: màu tổng hợp và màu thiên nhiên. Màu thiên nhiên được trích từ các mô của cây cỏ. Việc xử dụng loại màu nầy nảy sinh ra nhiều vấn đề như: màu không cố định có thể thay đổi hay biến dạng theo thời gian, nhiệt độ, ánh sáng, và nhất là có thể làm biến dạng phẩm chất của thưc phẩm được nhuộm màu. Còn màu tổng hợp thường tan trong nước và ổn định hơn. Trên thị trường, màu tổng hợp có dưới dạng hạt, bột, dung dịch, hay dạng dẽo. Màu tổng hợp tác dụng với hydroxid nhôm Al(OH)3 để cho ra một dung dịch gọi là hồ (lakes) sẵn sàng để nhuộm màu trong thưc phẩm. Lợi điểm của màu tổng hợp là màu rất bền không bị tác dụng do thời gian, nhiệt độ hay ánh sáng. Các nhà sản xuất thực phẩm rất thích dùng loại màu tổng hợp nầy. xin đan cử ra đây hai màu căn bản là màu tartrazine có màu vàng và màu carmine màu đỏ ngã qua cam. Đứng về phương diện độc hại, màu rất nhạy cảm cho da, có thể
  8. làm nứt da, tạo ra những vảy nến, hay làm dị ứng cũng như nghẹt mũi căn cứ theo báo cáo của Ủy ban Khoa học Thực phẩm cho con người của EU (CSAH). Hóa chất bảo vệ thực vật Đây là một vấn nạn lớn của dân tộc, ví nó ảnh hưởng dài hạn lên nhiều thế hệ trong tương lai. Theo báo chí Việt Nam , các vụ ngộ độc chiếm đến 25% trên tổng số vụ ngộ độc. Điều nầy nói lên tính cách quan trọng của vấn đề. Xin hãy nghe tiếng nói của tác giả Liêu Tử ở Việt Nam :” Các bạn phải luôn đề cao cảnh giác, và nhớ luật nầy: các thứ rau, củ, quả, ngó thấy ngon chớ mà ham. Trái khổ qua, ngó như trái bị đèo thì hãy mua. Củ cải trắng, củ cà rốt cũng vậy. Người trồng trọt xứ mình chi ham trồng được rau củ quả to bự, cân có ký, bán có giá, mặc sức hóa chất tống vào trong đó”. Xin thưa hóa chất tống vào đó chính là hóa chất bảo vệ thực vật tức là hóa chất diệt cỏ, trừ sâu rầy, trừ nấm mốc v.v ... Các hoá chất diệt trừ cỏ dại nếu dùng liều lượng thích hợp sẽ biến thành các hóa chất “kích thích tăng trưởng” . Đó chính là lý do tại sau rau đậu, quả dưa, trái cà, thậm chí đếm cọng giá, cong rau muống …cũng to lớn, xanh mướt rất bắt mắt. TS Nguyễn Đức Tuấn, Trưởng phòng thí nghiệm Môi trường thuộc Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng I đã cho biết như sau:”Kết quả nhiều đợt phân tích cho thấy tất cả các loại hoa quả TQ và cam Việt Nam đều có chứa thuốc diệt cỏ 2,4-D và 2,4,5-T. Các loại hóa chất nay đang được nông dân xử dụng để bảo quản hoa quả.. Trung tâm Thông tin và Chuyển giao Hà Giang đã chuyển đến chúng tôi hai gói boat in chữ TQ với hình ảnh quả hồng tươi rói. Qua phân tích chúng tôi tìm thấy nhiều hợp chất trong đó có hóa chất 2,4-D có hàm lượng đến 70%. Riêng gói thuốc diệt cỏ có băng màu xanh đậm còn tìm thấy hóa chất 2,4,5-T”. Các gói hóa chất nay được bày bàn tự do ngoài thị trường ở Hà Nội và Tp Sài Gòn dưới giá khoảng 2.000 Đồng Việt Nam một gói độ 2g. Liền ngay khi kết quả trên được công bố, ngày 13/5/2004, ông hoàng Thủy Tiến, Phó Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực Phẩm đã tuyên bố:” Các hóa chất bảo vệ thực vật 2,4-D và 2,3,5-T trong táo, mơ, trứng, sữa và các loại quả mọng khác có hàm lượng không quá 0,05 mg/kg hoa quả. Như vậy, lượng hóa chất độc hại tồn dư trong hoa quả vẫn dưới ngưỡng cữa cho phép. Người tiêu dùng không nên quá lo lắng”. Theo Cơ quan Lương Nông Quốc tế (FAO) và Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), hai loại hóa chất trên hoàn toàn bị cấm sử dụng cho thực phẩm. Yugi Cựu Moderator Hàn The- có phải là chất không thể thiếu trong thực phẩm Có lẻ hóa chất đầu tiên mà ai trong chúng ta cũng một lần gặp hoặc ăn phải là hàn the. Đặc biệt trong kỹ nghệ thực phẩm, muốn cho thực phẩm sau khi chế biến có độ dai, giữ độ dòn bảo quản được lâu thì một trong những hóa chất duoc dùng nhiều nhất là Hàn the. Vây Hàn the là gì, nó như thế nào mà "nổi Tham gia ngày: Jun danh đền như thế". 2006 Location: Bốn bể là nhà Posts: 114 Thanks: 0 Thanked 15 Times in 10 Posts
  9. Groans: 0 Groaned at 1 Time in 1 Post Rep Power: 12 Borax và sản phẩm từ Borax trong cuoc sống Hàn the còn gọi là Borax. Đó là tên thương mãi của hóa chất sodium tetra borate decahydrate, có công thức là Na2B4O7 ngậm 10 phân tử H2O. Borax là một loại bột trắng dẽ hòa tan trong nước. Khi tiếp xúc với nước ngoài tính hòa tan, chất nầy còn hút nước hay gọi là ngậm nước để được bảo hòa với 12 phân tử nước. Chính vì tính chất sau cùng nầy mà hóa chất trên được ứng dụng nhiều trong kỹ nghệ thực phẩm.
  10. Ảnh chỉ mang tính chất minh họa Hàn the cũng là một hóa chất có tính khử trùng và trừ sâu rầy nhẹ. Trong kỹ nghệ bột giặt, borax được dùng như một chất phụ gia để chống ẩm và không biến bột giặt đóng cụt theo thời gian vì đỗ ẩm cao trong không khí. Borax còn được dùng để khử nước "cứng" vì chứa nhiều calcium carbonate (vôi) và magnesium carbonate (thạch cao). Vì đây là một loại thuốc sát trùng cho nên tính độc hại của nó cũng ảnh hưởng lên con người. Khi tiếp xúc với borax qua đường thực quản, cơ thể sẽ cảm thấy khó chịu như bị dị ứng và có thể đưa đến tử vong khi hấp thụ một liều lượng lớn. Qua đường khí quản, da hoặc mắt, cơ thể cũng có phản ứng tương tự nhưng nhẹ hơn. Tùy theo liều lượng của borax xâm nhập vào người, phản ứng cấp tính của cơ thể diễn tiến như sau từ nhẹ đến nặng: nhức đầu - cơ thể bải quải - mạch đập nhanh - áp suất máu giảm - có thể bị phong giựt (seizure) và đi đến bất tỉnh. Qua tiếp nhiễm dài hạn, con người có cảm giác bị trầm cảm (depression), và đối với phụ nữ có thể bị sinh ra hiếm muộn vì hóa chất nầy sẽ làm giảm thiểu thời kỳ rụng trứng. Ảnh chỉ mang tính chất minh họa Chính nhờ tính ngậm nước và khử trùng của borax mà còn người đã lợi dụng trong nhiều dịch vụ không chính đáng. Trong giai đoạn sau 1975, kỹ nghệ làm xà bông cây và kem đánh răng đã xử dụng borax để độ cứng của xà bông tăng và vì hấp thụ thêm nước cho nên cân lượng của xà bông nặng hơn nhưng độ sủi bọt và độ tẩy rửa rất kém so với trọng lượng.
  11. Trong kỹ nghệ kem đánh răng cũng thế, borax làm kem không bị "chảy nước" và nhờ đó có thể thêm vào nhiều vôi và magnesium vào để tăng trọng lượng của kem mà không có tác dụng gì đến việc làm sạch răng; đôi khi còn làm lở nướu răng nữa. Đối với kỹ nghệ thực phẩm hiện tại, nhiều loại bánh tránh, bánh phở, hủ tiếu được cho thêm borax để được dai, cứng, lâu thiu hơn. Còn các loại chả lụa, chả quế cũng được tăng thêm độ dòn, chống được mốc meo va lâu thiu cũng nhờ borax. Đối với các loại thự c phẩm tươi như thịt cá để lâu ngày đã biến dạng, nếu có thêm borax, chúng trở nên cứng và có vẻ tươi trở lại. Đại khái trên đây là những ứng dụng không lành mạnh của borax mà con buôn dùng các thủ thuật nầy trong thực phẩm để làm sai lạc và đánh lạc thị hiếu của người mua. Theo Ông Lê Thanh Hải, giám đốc Trung Tâm Y Tế Dự Phòng thành phố Saigon, cho biết chả lụa là sản phẩm có chứa hàn the nhiều nhất, kế đó là mì sợi. Đây cũng là hai sản phẩm mà người tiêu dùng sử dụng thường xuyên, đặc biệt là ở những đám cưới, đám tiệc. Trong số mẫu kiểm tra chả lụa, mì sợi được bày bán ở những chợ có hàn the khá cao, trung bình từ 70 đến 74%, riêng giò sống bán ở những chợ, tỷ lệ chứa hàn the là 45.7%. Còn chả lụa, giò sống, mì sợi được bày bán ở những quán ăn uống bình dân, xe bánh mì thì 68% có chứa hàn the. Chả lụa bán rong tỷ lệ hàn the còn cao hơn nữa là 77%. Mục đích sử dụng hàn the, formol là để thực phẩm giòn, dai, tạo cảm giác mà người tiêu dùng thích. Hàn the khi ăn vào sẽ tích lũy trong cơ thể khoảng 15%, tập trung nhiều nhất là ở gan và não, kế đó là tim, phổi, dạ dày, thận, ruột... Khi ăn nhiều hàn the sẽ có biểu hiện khó tiêu, chán ăn, mệt mỏi, gây thoái hóa cơ quan sinh dục, làm suy yếu khả năng sinh sản và gây tổn thương bào thai. Formol là loại phụ gia thì có tính sát trùng mạnh, thường dùng trong y tế để ướp xác người hay xác thú vật để giữ cho lâu, loại thuốc này có thể gây ra viêm loét dạ dày và gây ung thư. Vợ một cô, bồ một đống Chữ kí cá nhân 08-24-2006 Mã bài: 3306 #3
  12. hoangcyberchem Có 1 ứng dụng rất hay của Borax là : Dung dịch Borax Thành viên ChemVN không màu nhưng khi chiếu đèn cực tím vào thì sẽ phát quang. Do đó, nó được dùng làm mực của viết tàng hình. Có ai thử điều này chưa? Chữ kí cá nhânPhântích Oil, Gas & Chemicals: www.kiemnghiem.com Tham gia ngày: Jul 2006 Tuổi: 27 Posts: 33 Thanks: 0 Thanked 2 Times in 2 Posts Groans: 0 Groaned at 0 Times in 0 Posts Rep Power: 0 08-24-2006 Mã bài: 3309 #4 cơm nguội Trích: Thành viên ChemVN Nguyên văn bởi hoangcyberchem Có 1 ứng dụng rất hay của Borax là : Dung dịch Borax không màu nhưng khi chiếu đèn cực tím vào thì sẽ phát quang. Do đó, nó được dùng làm mực của viết tàng hình. Có ai thử điều này chưa? em có cây bút cũng để viết tàng hình, cái nắp của nó có Tham g ia ngày: Aug 2006 một bóng đèn nhỏ khi muốn đọc thì chiếu đèn vào. Ra nó Location: nơi đang mưa... là hàn the à! Tuổi: 7 Posts: 29 Trích: Thanks: 0 Thanked 0 Times in 0 Posts Formol là loại phụ gia thì có tính sát trùng mạnh, thường Groans: 0 dùng trong y tế để ướp xác người hay xác thú vật để giữ Groaned at 0 Times in 0 Posts cho lâu, loại thuốc này có thể gây ra viêm loét dạ dày và Rep Power: 0 gây ung thư. Trong các chất tẩy rửa, keo dán cũng có một lượng nhỏ formaldehyl. Formaldehyd là chất dễ dàng kết hợp với các protein trong thực phẩm tạo thành một hợp chất bền khó phân hủy, nhờ đó thực phẩm giữ được độ tươi lâu hơn. Tuy nhiên, nó đã ko còn sử dụng nhiều vì những tính chất quá độc hai. Thế nhưng Hàn the vẫn luôn tồn tại trong một số thực phẩm, mặc dù trên thị trường đã có nhiều sản phẩm thay thế hàn the (Hàn the khi vào cơ thể chỉ đào thải được khoảng 70%, phần còn lại sẽ ở trong người vĩnh viễn, cứ như thế cơ thể tích tụ ngày càng nhiều và ung thư là tất nhiên)
  13. Chữ kí cá nhânEm có miệng mà lạ lùng cách nói Nên ý mình chưa đủ thoát l àn môi My poem in my blog
  14. Nếu bạn đang mang thai, tránh ăn đường hóa học và tuyệt đối không cho con bạn ăn những loại thức ăn có hóa chất này. Ngoài ra, các chất làm ngọt nhân tạo và đường hóa học cũng được coi là tác nhân có liên quan đến bệnh ung thư. Thuốc và hóa chất trừ sâu trong thực phẩm Có khoảng 3 triệu trường hợp ngộ độc thuốc trừ sâu trên toàn thế giới vào năm 1996, theo Tổ chức Y tế Thế giới với hai mươi ngàn ca tử vong. Ở hầu hết các nước, trái cây như dâu tây, nho, cà chua có chứa tối thiểu là 6 loại thuốc trừ sâu khác nhau.
  15. Và khoảng 89-99 % các loại trái cây tươi, rau và ngũ cốc đều được phun thuốc trừ sâu để bảo quản và giúp phát triển. Bộ Nông nghiệp Thực phẩm và Thuỷ sản thế giới cho biết, lượng hóa chất dùng cho cà rốt cao hơn 25 lần so với giới hạn an toàn cho phép. Và một thử nghiệm trên rau diếp cho thấy mức độ hóa học trong loại rau này cao hơn với giới hạn an toàn. 10% so Nhiều hóa chất cần tránh khác
  16. Có rất nhiều hóa chất nên tránh, nhưng bạn có thể lưu ý một số hóa chất sau: - Chất tạo màu: màu xanh ở cấp độ 2, màu đỏ ở cấp độ 3, màu vàng ở cấp độ 5 & 6, ở cấp độ 3 màu da cam và màu xanh lá cây dầu thực vật - Hydro hóa Dầu thực vật hydro hóa một phần - Mỡ tổng hợp (Olean hay olestra) - - Natri nitrat Bột ngọt momosodium glutamate (MSG) - - Kali benozoate - Sulfur dioxide - Natri sunfit - Acid benzoic Có thể nói với hơn 14.000 hóa chất được “bổ sung” một cách vô tình hay cố ý vào thực phẩm thì cũng đều là mối đe dọa cho sức khỏe con người. Để bảo vệ sức khỏe của mình và người thân, bạn hãy lưu ý đọc kĩ các nhãn mác của hàng hóa trước khi quyết định lựa chọn. Các hóa chất nitơ (phổ biến là nitrate) rất nguy hiểm cho sức khỏe con người khi có mặt trong các loại nông sản, lương thực và thực phẩm cũng như trong nước uống với liều lượng vượt mức quy định của Tổ chức Y tế thế giới. Khi hàm lượng nitrate
  17. (NO3) trong nước uống và rau quả vượt quá mức sẽ gây ra các bệnh hiểm nghèo như: “hội chứng trẻ xanh” (Methemoglobinaemia) vì ăn rau nhiễm độc – xảy ra khi đứa trẻ 1 tuổi gây ra “tắc nghẽn hóa học” kìm hãm sự vận chuyển oxy trong máu làm cho đứa trẻ xanh xao, chậm lớn và gầy yếu. Đối với người lớn thì có nguy cơ bị ung thư dạ dày bằng việc tạo ra hợp chất Nitrosoamine trong cơ thể. Ngộ Ðộc các hóa chất bảo vệ thực vật I. Mở Ðầu Hiện nay các thuốc trừ sâu, trừ mốc trong nông nghiệp được gọi bằng một CÁI TÊN CHUNG LÀ HÓA CHẤT BẢO VỆ THỰC VẬT. ĐÓ là danh từ chung để chỉ các chất hóa học được dùng để chống sâu bệnh bảo vệ cây trồng. NHU CẦU SỬ DỤNG HÓA CHẤT BẢO VỆ THỰC VẬT Ở nước ta ngày khoảng 30-40 ngàn tấn trong một năm. Tuy nhiên, ngoài tác dụng diệt sâu bệnh, hóa chất bảo vệ thực vật cũng đã và đang gây ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) và lương thực thực phẩm. Từ đó gây nên các vụ ngộ độc cấp tính và mãn tính cho người tiếp xúc và người sử dụng (xem bảng dưới đây). Thời gian Ðịa điểm Số người bị ngộ độc cấp Tử vong 1980-1982 Bệnh viện Bạch Mai 182 38 1980-1982 Bệnh viện Việt Nam-Cu Ba 60 4 1980-1982 Bệnh viện Gia Lâm 43 7 1980-1982 Bệnh viện Hoài Ðức 3 11980-1982 Bệnh viện Từ Liêm 29 0 1980-1982 Bệnh viện Chợ Rộy 353 34 1981 Bệnh viện Minh Hải 334 - 1982 Bệnh viện Minh Hải 319 - 1981 Bệnh việnHậu Giang 219 - 1982 Bệnh viện Hậu Giang 102 - 1987 Bệnh viện Tiền Giang 174 20 GHI CHÚ: DẤU (-) GHI Ở cột tử vong có nghĩa là trong thông báo thống kê không ghi số liệu. QUA ÐIỀU TRA THỐNG KÊ Ở trên, người ta cho thấy nguyên nhân ngộ độc chủ yếu là do công tác quản lí thuốc trừ sáu không tốt. Nguyên nhân này chiếm tỉ lệ 91% (trong đó 72% là do chủ ý tự tử, 19% do ăn uống nhầm lẫn) và 9% là do công tác phòng hộ lao động không chu đáo hoặc do ăn uống. Con đường gây nhiễm độc chủ yếu là qua ăn uống (tiêu hóa) chiếm 97,3%. Qua da và hô hấp chỉ chiến 1,9% và 0,8% . Thuốc gây độc chủ yếu là WOLFATOX (77,3%) SAU ÐÓ LÀ 666 (14,7%) VÀ DDT (8%). Ðối tượng bị nhiễm độc chủ yếu là nông dân tuổi lao động:II. PHÂN LOẠI CÓ NHIỀU CÁCH PHÂN LOẠI khác nhau: A. PHÂN LOẠI THEO DỐC TÍNH (DỰA VÀO LD 50) Chia làm 3 loại: Loại I: Cực độc: FOSFAMIDAN ( CE 80%) CARBOFENOTON ( CE 80%) SCHRODAN ( CE 60%) NICOTIN ( CE 90%)...
  18. Loại II: Ðộc nhiều: Aldrin (PDE 50%) Bensulfit (CE 40%) Sulfolot (CE 40%)... Loại III: ít độc: Aldrin (bột 5%) CLORDECAN (BỘT 10%) DDT (PDE 40%) Malation (PDE 50%)... Ghi chú: C.E: nồng độ thể sữa. P.D.E: Bột huyền phù trong nước. B. Phân loại theo mục đích sử dụng trong sản xuất. Thuốc diệt côn trùng gây hại. Thuốc chống bệnh nấm cho côn trùng. Thuốc diệt cỏ dại Thuốc làm rụng lá cây . Thuốc kích thích sinh trưởng. Thuốc chống bệnh vi khuẩn thực vật... C. Phân loại theo cấu tạo hóa học. Bao gồm:1. Các thuốc hữu cơ tổng hợp: Là loại phổ biến nhất, bao gồm lân hữu cơ, Clo hữu cơ, thủy ngân hữu cơ, cấc dẫn xuất nitro và clo của phenol.. 2. Các thuốc vô cơ: như Asenit natri, aseniat canxi, sulfat đồng (CUSO4) Sau đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài hóa chất bảo vệ thức vật chính THƯỜNG ÐƯỢC SỬ DỤNG NHIỀU Ở NƯỚC TA. ĐÓ LÀ hai nhóm clo hữu cơ và lân hữu cơ Nhóm clo hữu cơ: Thuộc loại này có 2 thứ thuốc hay dùng ở NƯỚC TA LÀ DDT và 666. + DDT (DICLORO- DIPHENYL- Tricloetan): có tác dụng diệt sâu bệnh tất, duy trì hoạt tính trong vài tháng, nó khá bền vững trọng môi trường bên ngoài. Vào cơ thể nó tích lũy khá LÂU Ở CÁC MÔ MỠ VÀ GAN. CÓ RẤT NHIỀU CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ÐỘC TÍNH CỦA DDT ÐỐI VỚI ÐỘNG VẬT MÁU NÓNG. DDT CHỈ GÂY ngộ độc cho người và gia súc khi qua đường tiêu hóa. ĐỘ NHẠY CẢM CỦA SÚC VẬT ÐỐI VỚI DDT RẤT KHÁC NHAU (xem bảng) Tên súc vật Mèo Chuột bạch Chuột thường Thỏ Chó Liều gây chết (mg/kg) 300 300 500 600- 700 1000Liều gây chết đối với người chưa xác định được rõ ràng, có thể nó Ở MỨC ÐỘ TRUNG BÌNH KHOẢNG 500mg/kg. Như vậy liều gây độc đến chết có thể nằm vào khoảng từ 5g đến 25G DDT CHO NGƯỜI TRƯỞNG thành. Do đặc tính tích lũy lâu trong cơ thể, nếu dùng DDT VỚI LIỀU THẤP DÀI NGÀY CŨNG CÓ THỂ gây ngộ độc và tử vong. Chẳng hạn với mèo nếu cho ăn dài ngày với liều DDT LÀ 0 5mg/kg có thể gây ngộ .độc và với liều lmg/kg có thể gây tử VONG.
  19. LIỀU LƯỢNG NÀY RẤT GẦN VỚI LƯỢNG DDT còn sót lại trong lương thực thực phẩm đã được phun DDT 5,5% (XEM BẢNG). Thực phẩm có phun ÐT 5,5% Lượng ÐT còn sót lại (mg/kg) - Táo 0,5-1 - Rau xanh 0-14,8 - Ngũ cốc 0,7-0,8 - Su hào, cải bắp, cà chua, khoai tây, hành lá 3,6 Như vậy, nếu người ăn các loại lương thực thực phẩm đã được phun DDT VỚI LƯỢNG CÒN SÓT LẠI NHƯ TRÊN VÀ ăn kéo dài thì có nhiều nguy cơ dẫn tới ngộ độc mãn tính. Ðó LÀ ÐIỀU ÐÁNG LO NGẠI BUỘC CÁC NHÀ chức trách phải suy nghĩ và có biện pháp tích cực phòng tránh.Nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho phép khẳng định khả nàng ngộ ÐỘC DDT Ở NHỮNG ÐỨA TRẺ BÚ SỮA MẸ. DDT ÐƯỢC BÀI tiết ra ngoài không chỉ qua đường nước tiểu và phân mà còn qua sữa mẹ . Ở NƯỚC TA, ÐÃ CÓ MỘT số công trình nghiên cứu và cho kết quả nhận xét là: Tất cả các bà mẹ dù CÓ TIẾP XÚC HAY KHÔNG TIẾP XÚC TRỰC TIẾP VỚI DDT ÐỀU CÓ LƯỢNG DDT TRONG SỮA MẸ RẤT CAO, VÌ DDT xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua đường tiêu hóa, cao hơn rất NHIỀU LẦN SO VỚI LIỀU LƯỢNG CHO PHÉP CỦA OMS (0,05ppm), của Liên Xô (0,14ppm) và của Hungari (0,13ppm). + 666: Công thức C6H6CL6 (Hexacloxyclohecxan) 666 kết thành bột không hòa tan trong nước, nhưng hòa tan mạnh trong dung môi hữu cơ. Khác với DDT, Hexacloran gây nhiễm độc mạnh ở SÂU BỌ VÀ ÍT GÂY ÐỘC ÐỐI VỚI ÐỘNG vật máu nóng. Liều gây chết cho thỏ là 900 mg/kg. Hexacloran sau 1 lần dùng vẫn còn tồn tại trong cơ thể một thời gian dài. Khi cho thỏ ăn 1 liều 600mg/kg người ta thấy chất (độc vẫn còn tồn tại trong máu 11 ngày sau. Như vậy các hóa chất bảo vệ thực vật thuộc nhóm Clo hữu cơ bao gồm DDT VÀ 666 ÐỀU CÓ TÍNH TÍCH LŨY LÂU trong cơ thể và là chất gây độc đối với hệ thần kinh trung ương, thường được tích lũy trong các mô mỡ và thải trừ rất chậm. Nó RẤT BỀN VỮNG TRONG NƯỚC, ÐẤT, TỪ ÐÓ GÂY Ô NHIỄM RA NGOẢI MÔI trường một cách lâu dài. Trong thực phẩm đã phát hiện thấy dư lượng cao hóa chất bảo vệ thực vật nhóm Clo hữu cơ trong sữa, sản phẩm chế biến từ sữa, mỡ động vật, cá, trứng... Hiện nay nhiều nước đã cấm hoặc hạn chế SỬ DỤNG TRONG. Ở NƯỚC TA DDT VÀ 666 KHÔNG CÒN ÐƯỢC SỬ DỰNG trong sản xuất nông nghiệp nữa mà chỉ còn được dùng trong công tác phong chống dịch như diệt muỗi trong phòng chống sốt rét, chống sốt xuất huyết... Nhóm Lân hữu cơ: Cũng có tác dụng mạnh đối với côn trùng và thực vật có hại. Hóa chất bảo vệ thực vật lân hữu cơ thường được dùng với nồng độ thấp, thời gian tồn tại trên cây trồng ngắn và được phân hủy rồi đào thải nhanh khỏi cây trồng. Khi phân hủy, nó thường tạo ra các sản phẩm ít độc hoặc không độc. Ðối với người và gia súc ít có khả năng tích lũy. Thường được đào thải nhanh sau 1-2 tuần. Ðiều đáng chú ý là hóa chất bảo vệ thực vật lân hữu cơ có tính chuyển hóa nhanh trong cơ thể động vật có xương sống nên nó thường gây tác dụng độc lên hệ thần kinh, làm tê liệt men axetyl cholinesteraza và gây ngộ độc cấp tính. Trong nhóm Lân hữu cơ hiện nay thường được dùng nhiều hơn cả là
  20. Wolfatox (parathion metyl), Malathion, Diázinon, Dimethoate (Bi 58.. .) III. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA MỘT NGỘ ÐỘC HÓA CHẤT BẢO VỆ THỰC VẬT. Tùy theo loại thuốc mà biểu hiện lâm sàng có khác nhau. Thường có những hội chứng sau đây:1. Hội chứng về thần kinh. Rối loạn thần kinh trung ương, nhức đầu, mất ngủ, giảm trí nhớ. RỐI LOẠN THẦN KINH THỰC VẬT NHƯ RA MỒ HÔI. ở mức độ nặng hơn có thể gây tổn thương thần kinh ngoại biên dẫn đến liệt. Nặng hơn nữa có thể tổn thương đến não, hội chứng nhiễm độc não thường gặp nhất là do thủy ngân hữu cơ sau đó đến lân hữu cơ và clo hữu cơ. 2. Hội chứng về tim mạch. Co thắt mạch ngoại vi, nhiễm độc cơ tim, rối loạn nhịp tim, nặng là suy tim. Thường là do nhiễm độc lân hữu cơ, clo hữu cơ và nicotin. 3. Hội chứng hô hấp. Viêm đường hô hấp trên, thở khò khè, viêm phổi. Nặng hơn có thể suy hô hấp cấp, ngừng thở. Thường là do nhiễm độc lán hữu cơ và clo hữu cơ. 4. Hội chứng tiêu hóa - gan mật. Viêm dạ dày, viêm gan mật, co thắt đường mật. Thường là do nhiễm độc clo hữu cơ, carbamat, thuốc vô cơ chứa Cu, S. 5. Hội chứng về máu.Thiếu máu giảm bạch cầu, xuất huyết, thường do nhiễm độc cho, lân hữu cơ carbamat . Ngoài ra trong máu có sự thay đổi hoạt tính của một số men như men Axetyl cholinesteza do nhiễm độc lân hữu cơ. Ngoài ra có thể thay đổi đường máu. Tăng nồng độ axit pyruvic trong máu. NGOÀI 5 HỘI CHỨNG KỂ TRÊN, NHIỄM ÐỘC HCBVTV còn có thể gây tổn thương đến hệ tiết NIỆU, NỘI TIẾT VÀ TUYẾN GIÁP. IV. BIỆN PHÁP XỬ LÝ. Ðưa ngay nạn nhân ra khỏi khu vực bị nhiễm độc. Cởi bỏ quần áo, lau sạch thuốc còn dính lại trên da nếu là nhiễm độc qua da. Nếu nhiễm độc qua ăn uống phải cho rửa dạ dày ngay, để chậm quá 2 giờ thì không còn hiệu quả nữa. Tiêm atropin liều cao l-2mg/1 lần, tùy theo nặng nhẹ mà tiêm tĩnh mạch, bắp, dưới da. Cứ 15-30 phút tiêm nhắc lại cho tới khi bão hòa Atropin thì thôi ( bệnh nhân có biểu hiện mặt hồng, môi khô, mạch nhanh). Cho thuốc lợi niệu, thở ôxy. NẾU CÓ ÐIỀU KIỆN THÌ CHO TIÊM PAM (Pyridineandoxim-iodo-metilat) để hồi phục lại hoạt động CỦA MEN AXETYL CHOLINESTERAZA. TIÊM TĨNH MẠCH, TIÊM 0, 5-1gam. Nếu chưa đỡ thì tiêm thêm 1 lần nữa. Tổng liều không quá 2 gam. Tiên lượng nói chung còn tùy thuộc vào lượng thuốc đã ăn uống vào. Có 3 khả năng: Khỏi hoàn toàn không để lại di chứng. Chuyển sang mãn tính ( ít gặp hơn ) TỬ VONG ( ÍT GẶP HƠN ) V. BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG. Ðể chủ động đề phòng ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vặt, bảo vệ môi trường sống, đảm bảo an toàn trong sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật cần thực hiện một số biện pháp sau: 1. Tăng cường công tác quản lý hóa chất bảo vệ thực vật chặt chẽ của ngành nông nghiệp. Chỉ nhập hoặc sản xuất các loại hóa chất bảo vệ thực vật có
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2