intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LÍ LUẬN MỞ ĐẦU VỀ CUNG - CẦU DẦU MỎ

Chia sẻ: Trần Hoàng Quân | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

213
lượt xem
76
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu thô tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LÍ LUẬN MỞ ĐẦU VỀ CUNG - CẦU DẦU MỎ

  1. Dầu mỏ hay dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả l ục. Dầu thô tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. D ầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần l ớn là nh ững h ợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các s ản phẩm c ủa ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc tr ừ sâu, nh ựa đ ường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất năng lượng, 12% còn l ại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhi ều ng ười lo ng ại v ề khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa. Chương I LÍ LUẬN MỞ ĐẦU VỀ CUNG - CẦU DẦU MỎ Dầu mỏ là một trong những nhiên liệu quan tr ọng nhất c ủa xã hội hi ện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên liệu của tất c ả các ph ương ti ện giao thông vận tải. Hơn nữa, dầu cũng được sử dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo ( plastic) và nhiều sản phẩm khác. Vì thế dầu thường được ví như là "vàng đen". Trên thị trường, giá cả xăng dầu cân bằng của hàng hoá xăng dầu là trạng thái khi cung hàng hoá xăng dầu đủ thỏa mãn cầu đối với nó trong một thời kỳ nhất định. Với cách định nghĩa này, giải thích diễn biến giá của xăng dầu trên thị trường là việc đi tìm hiểu đặc điểm tính chất cung - cầu của loại hàng hoá này trên thị trường, ngoài ra có thể xem xét đến một số yếu tố phi kinh tế có ảnh hưởng đến giá cân bằng. Xét về khía cạnh cung, có thể khẳng định thị trường dầu mỏ bị chi phối bởi một số nước nhỏ sản xuất dầu lửa. Đây là những quốc gia sản xuất dầu chủ yếu trên thế giới, bao gồm các nước thuộc nhóm OPEC (The Organization of Petroleum Exporting Contries)-Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ thế giới. Thành lập ngay 14/9/1960 tại Bagdhad (thủ đô Iraq), lúc đầu gồm các nước Venezuela, Saudi Arabia, Iraq, Iran, và Kuwait. Quata được kết nạp năm 1961; Indonexia và Lybia (1962); Tiểu vương quốc các nước Arab thống nhất (1967); Algeria (1969); Nigeria (1971). Ecuado gia nhập năm 1973 nhưng xin rút lui năm 1992. Gabon gia nhập năm 1975 nhưng xin rút lui năm 1994. OPEC chuyển tổng hành dinh từ Geneva (Thụy Sĩ) đến Vienna (Áo) vào ngày 01/09/1965. Hiện nay trong khối OPEC có 7 nước thuộc khối Ảrập độc quyền kiểm soát và chi phối thị trường dầu lửa thế giới, tự do áp đặt giá dầu. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% t ổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng ¾ trữ l ượng d ầu th ế gi ới. Trong số các nước thành viên có 11 nước Hồi giáo chiếm tới 75% trữ lượng dầu và trữ lượng khí đốt trong tổng trữ lượng dầu khí của thế giới. Hiện nay tổ chức này có 13 n ước thành viên đ ược li ệt kê d ưới đây v ới ngày tháng gia nhập: - Châu Phi:
  2. + Algérie (tháng 7 năm 1969) + Libya (tháng 12 năm 1962) + Nigeria (tháng 7 năm 1971) + Angola (tháng 1 năm 2007) - Trung Đông + Iran (tháng 9 năm 1960) + Iraq (tháng 9 năm 1960) (không được đếm vào phần xuất khẩu của OPEC từ năm 1998) + Kuwait (tháng 9 năm 1960) + Qatar (tháng 12 năm 1961) + Ả Rập Saudi (tháng 9 năm 1960) + Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (tháng 11 năm 1967) + Nam Mỹ + Venezuela (tháng 9 năm 1960) + Ecuador (1973-1993, 2007) - Đông Nam Á + Indonesia (tháng 12 năm 1962. Đang được xem xét lại do Indonesia không còn là nước xuất khẩu dầu thực nữa.) - Cựu thành viên + Gabon (Thành viên chính thức từ 1975 đến 1995) - Thành viên tương lai + Bolivia, Canada, Sudan và Syria đã được OPEC mời tham gia Cơ quan năng lượng quốc tế IEA- International Enegy Agency, công bố danh sách14 nước XK nhiều dầu thô nhất và 14 nước NK nhiều nhất vào năm 2006 Bảng 1: NHỮNG NƯỚC XUẤT NHẬP KHẨU DẦU NHIỀU NHẤT THÁNG NĂM 2006 Tổng Tổng số Tổng số Tổng dầu số dầu dầu Nước số dầu Nước sản sản Doanh nghiệp xuất Người tiêu nhập nhập xuất 1 xuất xuất khẩu2 khẩu tiêu dùng thụ 3 khẩu4 khẩu 1. Saudi Arabia 10,72 1. Saudi Arabia 8,65 1. Hoa Kỳ 20,59 1. Hoa Kỳ 12,22 2. Nga 9,67 2. Nga 6,57 2. Trung 7,27 2. Nhật 5,10 quốc Bản 3. Hoa Kỳ 8,37 3. Na Uy 2,54 3. Nhật 5,22 3. Trung 3,44 Bản quốc 4. Iran 4,12 4. Iran 2,52 4. Nga 3,10 4. Đức 2,48 5. Mehico 3,71 5. Các Tiểu 2,52 5. Đức 2,63 5. Hàn 2,15 Vương quốc A- Quốc rập Thống nhất 6. Trung quốc 3,84 6. Venezuela 2,20 6. Ấn Độ 2,53 6. Pháp 1,89 7. Canada 3,23 7. Kuwait 2,15 7. Canada 2,22 7. Ấn Độ 1,69 8. Các Tiểu 2,94 8. Nigeria 2,15 8. Brazil 2,12 8. Ý 1,56 Vương quốc A-
  3. rập Thống nhất 9. Venezuela 2,81 9. An-giê-ri 1,85 9. Hàn 2,12 9. Tây 1,56 Quốc Ban Nha 10. Na Uy 2,79 10. Mehico 1,68 10. Saudi 2,07 10. Đài 0,94 Arabia Loan 11. Kuwait 2,67 11. Libya 1,52 11. 2,03 Mehico 12. Nigeria 2,44 12. Iraq 1,43 12. Pháp 1,97 13. Brazil 2,16 13. Angola 1,36 13. 1,82 Vương quốc Anh 14. Iraq 2,01 14. Kazakhstan 1,11 14. Ý 1,71 Chú ý: các thành viên OPEC in nghiêng. 1. Bảng bao gồm tất cả các nước sản xuất dầu với tổng số trên 2 triệu thùng mỗi ngày trong năm 2006. Bao gồm dầu thô, khí tự nhiên chất lỏng, ngưng tụ, được nhà máy lọc, và các chất lỏng khác. 2. Bao gồm tất cả các nước xuất khẩu ròng với quá 1 triệu thùng mỗi ngày trong năm 2006. 3. Bao gồm tất cả các nước mà tiêu thụ nhiều hơn 2 triệu thùng mỗi ngày trong năm 2006. 4. Bao gồm tất cả các nước mà nhập khẩu hơn 1 triệu thùng mỗi ngày trong năm 2006. Nguồn: Quản trị thông tin năng lượng (EIA). www.eia.doe.gov/emeu/cabs/ Bảng 2: TỐP 15 NƯỚC NHẬP KHẨU DẦU THÔ VÀ XĂNG DẦU Cập nhập ngày 29 Tháng Chín 2009 Dầu thô nhập khẩu (Top 15 nước) (Ngàn thùng mỗi ngày) Jun- Jun- YTD Jul- YTD Đất nước 09 09 2009 08 2008 CANADA 2.110 2.001 1.916 1.976 1.934 SAUDI ARABIA 1.137 902 1.063 1.676 1.538 MEHICO 985 1.099 1.136 1.200 1.197 VENEZUELA 865 1.134 1.015 1.187 1.035 NIGERIA 858 769 668 741 992
  4. BRAZIL 375 269 342 241 224 IRAQ 365 390 453 696 677 ANGOLA 320 435 504 640 517 COLOMBIA 286 286 261 178 182 Russia 267 305 272 202 127 KUWAIT 261 170 183 122 205 CÁC TIỂU VƯƠNG QUỐC A-RẬP 161 75 62 0 7 THỐNG NHẤT AN-GIÊ-RI 143 232 231 232 308 GUINEA XÍCH ĐẠO 123 51 91 66 60 Ê-CU-A-ĐO 112 148 201 226 197 Tổng số nhập khẩu của dầu khí (Top 15 nước) (Ngàn thùng mỗi ngày) Jun- Jun- YTD Jul- YTD Đất nước 09 09 2009 08 2008 CANADA 2.639 2.529 2.450 2.417 2.506 MEHICO 1.316 1.183 1.280 1.292 1.306 SAUDI ARABIA 1.153 959 1.095 1.690 1.554 VENEZUELA 959 1.237 1.147 1.329 1.193 NIGERIA 879 830 708 822 1.052 Russia 637 578 637 572 491 BRAZIL 392 299 361 275 251 IRAQ 365 374 455 696 677 AN-GIÊ-RI 329 458 462 456 526 ANGOLA 320 447 513 652 527 COLOMBIA 305 313 286 192 203 Virgin Islands 273 268 301 294 330 KUWAIT 261 179 187 122 209 VƯƠNG QUỐC ANH 188 268 252 187 218 CÁC TIỂU VƯƠNG QUỐC A-RẬP 161 75 64 0 0 THỐNG NHẤT Lưu ý: Các dữ liệu trong các bảng ở trên loại trừ dầu nhập khẩu vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Ngày nay nguồn cung cấp dầu mỏ không chỉ tập trung ở khu vực Trung
  5. Đông mà còn nhiều nơi như Biển Bắc, ngoài khơi Angola…Các nước ngoài khối OPEC cung cấp khoảng 40% sản lượng dầu thế giới. Những nước Non-OPEC (không nằm trong khối OPEC) cũng xuất khẩu dầu mỏ làm ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường dầu thế giới : đứng đầu la Canada, tiếp theo là Anh, Mexico, Na Uy, Trung Quốc, Mỹ, Nga, Đan Mạch, Congo, Việt Nam, Azerbaijan, Brunei, Romania, Peru,… Khi xảy ra biến động chính trị ở những quốc gia dầu mỏ cũng làm cho giá dầu biến động. Chẳng hạn cuộc chiến tại Iraq hoặc những xáo trộn tại Nigenia, khả năng Iran (nắm giữ 10% trữ lượng dầu thế giới) bị quốc tế áp đặt lệnh trừng phạt về vấn đề hạt nhân … khiến cho giá giầu từ giữa năm 2005 biến động mạnh, có ngày vượt qua 70 USD/thùng (trong khi mức giá bình quân thường được giữ ở mức 25 - 28 USD/thùng từ hàng chục năm qua) Đường cung của thị trường dầu mỏ biểu hiện trên đồ thị là đường có độ dốc lên từ trái qua phải, biểu thị khi giá tăng lên thì lượng cung cũng tăng lên theo. P S O Q Đồ thị 1: Biểu diễn đường cung xăng dầu trên thị trường thế giới Xét về khía cạnh cầu: Cùng với sự phát triển xã hội, nhu cầu về dầu mỏ ngày càng ngày tăng, bên cạnh đó cầu quốc tế đối với loại hàng hoá này rất không co giãn vì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phụ thuộc vào dầu và có quá ít hàng hoá thay thế sẵn có đối với sản phẩm dầu. Biểu diễn đường cầu trên đồ thị là đường có độ dốc từ trái qua phải nhưng độ dốc tương đối lớn.
  6. P D O Q Đồ thị 2: Biểu diễn đường cầu dầu mỏ trên thị trường thế giới Với đường cầu có độ dốc như vậy, bất cứ khi nào cung thay đổi, mặc dù thay đổi với một lượng nhỏ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giá cân bằng. Có thể lấy ví dụ nhỏ để minh họa: Vào năm 1974, OPEC đã đơn phương quyết định tăng giá dầu thô quốc tế trên 400 %, nhưng lượng cầu chỉ giảm xuống 30%, như vậy hệ số co giãn Ed = -30/400 = - 0,075 tức là hệ số co giãn gần bằng 0. Kết hợp đồ thị cung - cầu xăng dầu ở trên có đồ thị thị trường của xăng dầu trên thế giới. P S D O Q Đồ thị 3: Biểu diễn đường cung - cầu dầu mỏ trên thị trường thế giới
  7. Với khả năng chi phối thị trường, các nước xuất khẩu dầu mỏ chủ yếu trên thế giới có thể hành động như một nhóm độc quyền, có nghĩa một vài nhóm “cấu kết với nhau ” bán một sản phẩm nhất định. Bằng cách thỏa thuận tăng vọt giá bán, trong khi cầu dầu thô của thế giới không co giãn họ có thể tăng thu nhập của mình lên rất nhiều lần. Ví dụ: vào giữa năm 1973 và 1974, giá dầu mỏ đã tăng gấp 3 lần từ 2,9 USD/thùng lên tới 9 USD /thùng và kết quả là tổng thu nhập từ việc xuất khẩu dầu của OPEC nhảy vọt từ 24,2 tỷ USD lên 100,7 tỷ USD với lượng dầu xuất khẩu có giảm một ít. Khi các nước xuất khẩu dầu chủ yếu trên thế giới phát hiện và tin rằng: Giá dầu tăng lên với 1 lượng rất lớn thị chỉ làm giảm 1 lượng nhỏ trong khi lượng dầu được bán ở trên thị trường.Với niềm tin như vậy, từ năm 1973, thị trường dầu mỏ đã biến động mạnh mẽ, giá cả của xăng dầu trên thị trường thế giới thường xuyên tăng lên đột ngột và ở mức tăng cao. Bên cạnh việc giá cân bằng của dầu mỏ trên thị trường thế giới bị ảnh hưởng bởi Cung - Cầu, giá cả của hàng hoá này còn bị ảnh hưởng một số yếu tố phi kinh tế. Thứ nhất: việc khai thác dầu phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết. Khi thời tiết lạnh, mưa bão,…dầu không khai thác được, khi đó lượng cung giảm xuống, nhưng do cầu là co giãn rất ít so với giá cho nên khi lượng cung giảm xuống, giá sẽ có sự thay đổi rất lớn. Chẳng hạn mùa mưa bão ở vùng vịnh Mehico của Mỹ, kéo dài từ tháng 6 tới tháng 11 hàng năm, cũng sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung nơi đây. Thứ hai, là yếu tố chính trị, đối với một số nước có sức mạnh về chính trị, khi nhập khẩu dầu, họ thương lượng với các nước xuất khẩu nhằm làm giảm chi phí nhập khẩu xuống; tuy nhiên khi có sự bùng phát về chính trị, mâu thuẫn giữa các nước không thể dung hoà được sẽ khiến cho giá cả dầu mỏ tăng lên rất nhiều. Ví dụ điển hình là Irắc vào năm 1991 và năm 2000 đã đẩy dầu mỏ lên tới đỉnh điểm, giá 1 thùng dầu lúc đó lên tới 55-56 USD. Thời gian qua, giá dầu thô trên thị trường thế giới luôn luôn biến động và tăng cao, có thời điểm đã vượt ngưỡng 75 USD/thùng. Tính trung bình từ đầu năm 2006 đến nay, giá dầu thô trên thế giới đã tăng khoảng 20%. Sự tăng giá đó phải kể đến cuộc khủng hoảng xung quanh chương trình hạt nhân của I-ran, bạo lực gia tăng tại Ni-giê-ri-a, bạn hàng xuất khẩu lớn thứ năm của Mỹ; Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế thế giới, giá dầu tiếp tục biến động và có thể tăng lên mức 100 USD/thùng nếu Iran, nước xuất khẩu dầu lớn hàng đầu thế giới, bị tiến công quân sự phải ngừng xuất khẩu dầu nhiều tháng. Yếu tố thứ ba là, do sản phẩm dầu xuất khẩu của OPEC trong đó 90% là sản phẩm dầu thô, việc lọc dầu lại được diễn ra tại các nước giàu có như Mỹ, Singapore, Nhật bản,… Mà nhu cầu của thế giới tăng (sản phẩm lọc dầu); giá cả của dầu mỏ cũng bị chi phối bởi các quốc gia đó. Do vậy, giá cả của xăng dầu trên thế giới luôn luôn biến động.
  8. Theo tính toán của OPEC, với chi phí cận biên của việc khai thác dầu bằng 0 vì việc khai thác dầu chỉ phi bỏ ra chi phí ban đầu trong việc thăm dò, sau đó lắp đặt hệ thống hút dầu và khai thác dầu. Trong quá trình khai thác hầu như không phải bỏ chi phí gì thêm, cho nên lượng dầu tối ưu của các nước xuất khẩu và nhập khẩu là 22,8 USD/thùng. Với mức giá bán thực tế luôn cao hơn mức giá cân bằng cung - cầu khiến cho cầu luôn nhỏ hơn cung. Có nghĩa khi các nước xuất khẩu dầu mỏ có khả năng để cung cấp nhiều hơn nhưng với mức giá cao như vậy khiến cho cầu bị hạn chế. Trong thực tế khi có mâu thuẫn xảy ra trong OPEC, một quốc gia muốn tăng sản lượng để thu thêm lợi nhuận về, các quốc gia còn lại không thống nhất sẽ dẫn đến giá cả của dầu mỏ trên thị trường thế giới sẽ giảm xuống. Ngược lại khi mức giá bán trên thị trường thấp hơn mức giá cân bằng, có nghĩa cầu lớn hơn lượng cung, khi đó lượng dầu mỏ được sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu của thế giới, với mức giá thấp, nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo, dầu mỏ bị khai thác quá mức và có nguy cơ bị cạn kiệt. Do đó hạn chế lượng cung là điều kiện cần thiết. P ’ S S P2 P1 D 0 Q2 Q1 Q Đồ thị 4: Biểu diễn ảnh hưởng của các yếu tố phi kinh tế Ban đầu, thị trường xăng dầu cân bằng tại mức giá P1 và Q1 do các yếu tố phi kinh phí như thời tiết, chiến tranh, chính sách của các nước giầu có, đẩy đường cung (S) lên (S') điểm cân bằng mới của thị trường (P2;Q2). Sự tác động của các yếu tố phi kinh tế làm cho sản lượng giảm từ Q1 → Q2, một lượng nhỏ nhưng tăng mạnh từ mức giá P1 → P2.. Chương II PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CAN THIỆP VÀO GIÁ XĂNG, DẦU CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA II.1 Tác động của giá xăng dầu đối với nền kinh tế thế giới và Việt Nam
  9. Nam là nước phải nhập khẩu 100% sản phẩm xăng dầu; dĩ nhiên sự gia Việt tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới cũng kéo theo sự gia tăng liên tục của giá xăng dầu tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, nhờ nhiều biện pháp can thiệp kịp thời của Chính phủ nên biến động giá xăng dầu ở nước ta chưa đến mức cao như mức bình quân trên thị trường thế giới, nhưng giá xăng dầu cũng đã khá cao này nếu duy trì trong một thời gian dài cũng đặt ra nhiều vấn đề kinh tế đáng để các nhà hoạch định chính sách xem xét. Theo lý thuyết, một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh nặng đối với các nền kinh tế theo hai cách thức khác nhau, tùy thuộc vào mức độ mà một quốc gia phụ thuộc vào xăng dầu nhập khẩu (về phương diện này thì các nước châu Á trong đó có Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng hơn so với các nước như Mỹ, Anh...) và việc tiêu thụ xăng dầu tương đối so với tổng sản phẩm quốc dân (về phương diện này thì các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là châu Á trong đó có Việt Nam, chịu nhiều ảnh hưởng hơn so với các quốc gia công nghiệp do có tỷ lệ tiêu thụ xăng dầu so với tổng sản phẩm quốc dân cao hơn: ví dụ tỷ lệ này của Việt Nam là khoảng 5% so với của Mỹ chỉ là 2,5%). Thứ nhất, việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản phẩm xăng dầu tăng lên tương đối so với thu nhập (ước tính sự gia tăng giá xăng tại Việt Nam khiến cho mỗi cá nhân sử dụng phương tiện xe gắn máy mỗi tháng phải chi thêm bình quân khoảng 20.000 đồng so với thời điểm đầu năm 2004; hơn nữa, mặt hàng xăng dầu tương đối không co giãn so với giá - nghĩa là giá tăng nhưng người sử dụng phương tiện vận tải cơ giới vẫn phải sử dụng do không có nhiên liệu khác thay thế, do vậy khi giá xăng dầu tăng thì người tiêu dùng có ít thu nhập hơn dùng để chi tiêu cho các hàng hóa khác). Thứ hai, sự gia tăng này tác động đến nền kinh tế theo các cách thức mà rất khó để các nhà hoạch định chính sách có thể quản lý được: một mặt, sự gia tăng giá xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hiện tượng giá cánh kéo. Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế khác, nên giá đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo giá đầu ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến sức mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng trong nước tháng 5 đã tăng mạnh đến 0,6% mà nguyên nhân chính là do xăng dầu tăng giá. Trong 5 tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 3,6%, mức tăng này tuy thấp hơn so với cùng kỳ 2 năm trước đó là 6,3% (2004) và 4,8% (2005). Trong những tháng gần đây nhiều hãng tàu quốc tế đã thông báo tăng phụ phí xăng đối với các lô hàng từ Việt Nam đi châu Âu, đi Mỹ; giá nguyên liệu nhựa các loại đã tăng khoảng tăng 15-20%; giá
  10. thành một số loại hàng hóa dịch vụ cũng đã tăng từ 2 đến 5%, trong đó, giá thép tăng 12,5%, cước vận tải đường bộ tăng 2%, đánh bắt hải sản xa bờ tăng 4,1%.... Trong một tính toán mới đây, chi phí trong năm nay của Tập đoàn Công nghiệp than - Khoáng sản Việt Nam sẽ tăng thêm khoảng 120 tỷ đồng do tăng giá xăng dầu. Than lại là nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành sản xuất khác nên áp lực dây chuyền cứ thế tiếp tục. Chi phí sản xuất tăng sẽ tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam Bên cạnh đó, Các chuyên gia của Tập đoàn Tài chính HBSC và IMF nhấn mạnh, nếu giá dầu tiếp tục tăng cao hơn, nền kinh tế toàn cầu sẽ đứng trước nguy cơ mất ổn định dài hạn. Theo tính toán của IMF và Tổ chức các nước xuất khẩu dầu (OPEC), giá dầu tăng thêm 10% sẽ làm nền kinh tế toàn cầu giảm tăng trưởng 1- 1,5%; giá dầu tăng quá cao kéo theo lạm phát và chi phí tiêu thụ năng lượng tăng dẫn tới sự suy giảm của nhiều ngành công nghiệp lớn như sản xuất ô-tô, hàng không ...đẩy kinh tế toàn cầu vào vòng xoáy phát triển bất thường. Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế cho biết, phí tổn nhiên liệu tổng cộng của tất cả các hãng hàng không trên thế giới đã vượt mức 92 tỷ USD năm 2005, tăng 50% so với năm 2004; tình hình thị trường dầu mỏ cứ biến động như hiện nay thì khó tránh khỏi giá vé máy bay sẽ tăng vọt trong tương lai. II.2 PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH CAN THIỆP VÀO GIÁ XĂNG, DẦU CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG NĂM QUA Qua sự phân tích tình hình biến động giá xăng dầu trên thế giới, từ đó thấy chính sách can thiệp vào giá xăng dầu trong những năm qua một số tác động sau: Trước hết, năm 2003, giá bán của xăng trên thị trường Việt Nam đối với loại xăng A92 là 6000 đ/lít; giá bán này được Chính phủ Việt Nam quy định theo mức bán giá trần, có nghĩa mức giá này luôn thấp hơn so với giá bán theo quy luật cung - cầu, Nhà nước bù lỗ cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu. Do sự bất ổn về tình hình chính trị - kinh tế, xã hội trên thế giới như: khủng bố, chiến tranh, thiên tai khiến cho giá xăng, dầu trên thế giới vượt quá cao, Chính phủ nâng mức giá trần đối với loại xăng A92 lên 6.600 đồng/lít và qua nhiều lần điều chỉnh và thời điểm hiện nay là 11.000VNĐ/lít đối với vùng 1 (xem bảng) Bảng 2: NHỮNG LẦN ĐIỀU CHỈNH GIÁ XĂNG DẦU TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY đvt: đồng/lít THỜI ĐIỂM ĐIỀU CHỈNH MÃ HÀNG VÙNG I VÙNG II A95 5900 6018 A92 5600 5712
  11. A90 5400 5508 1/2/2004 DO 4400 4488 DL 4300 4386 A95 6300 6420 A92 6000 6120 22/02/2004 A90 5800 5910 DO 4650 4740 DL 4600 4690 A95 7200 7300 A92 6900 7000 19h 19/06/2004 A90 6700 6800 DO 4850 4940 DL 4800 4890 A95 7300 7300 A92 7000 7000 1/7/2004 A90 6800 6800 DO 4850 4850 DL 4800 4800 A95 7800 7800 A92 7500 7500 19h 1/11/2004 A90 7300 7300 DO 4850 4850 DL 4800 4800 A95 8300 8460 A92 8000 8160 12h 29/03/2005 A90 7800 7950 DO 5500 5160 DL 4900 4990 A95 9100 9280 A92 8800 8970 12h 03/7/2005 A90 8600 8770 DO 6500 6630 DL 6500 6630 A95 10300 10500 A92 10000 10200 18h 17/8/2005 A90 9800 9990 DO 7500 7650 DL 7500 7650 A95 9800 9990 A92 9500 9690 6h 22/11/2005 A90 9300 9480 DO 7500 7650 DL 7500 7650 A95 11300 11520 A92 11000 11220 20h 27/4/2006 A90 10800 11010 DO 7900 8050 DL 7900 8050 A95 12200 12440 A92 12000 12240 08/09/2006 A90 11800 12130 DO 8600 8770 DL 8600 8770 A95 11600 11830 A92 11300 11520 13h 16/08/2007 A90 11100 11320 DO 8600 8770 DL 8600 8770
  12. A95 11600 11830 A92 11300 11520 12h 22/11/2007 A90 11100 11320 DO 10250 10450 DL 10200 10400 A950 A920 19000 19400 10h 21/07/2008 A90 DO 15900 7650 DO DL 1300 A95 A92 18000 18360 10h 14/08/2008 A90 DO DL 19000 19380 A950 16000 16320 A920 15500 15810 30/08/2009 A900 DO 13300 13560 DL 14200 14480 Việc quy định một mức giá trần thấp hơn so với mức giá thị trường của Chính phủ có tác dụng nâng cao sức cạnh tranh đối với thị trường trong nước vì một số ngành của chúng ta hiện nay đang sử dụng xăng dầu là nguyên liệu đầu vào, nếu giá xăng dầu tăng có thể làm tăng thêm chi phí của doanh nghiệp. Do vậy, có có thể sẽ dẫn đến việc giảm khả năng cạnh tranh. Mặt khác, một tác động tích cực do định mức giá trần thấp như vậy Chính phủ nhằm duy trì lạm phát ở mức thấp vì giá xăng dầu tăng có thể sẽ kéo theo giá cả của một số mặt hàng có liên quan tăng theo. Bên cạnh đó, giá xăng dầu được sử dụng để tính chỉ số lạm phát và nếu giá của mặt hàng này giữ được sự ổn định có ý nghĩa là đã kiềm chế được lạm phát. Tác động tích cực thứ ba của chính sách Chính phủ là đảm bảo ổn định cuộc sống của người dân. Nếu giá bán của xăng dầu được bán theo quy luật cung - cầu trên thị trường với mức giá dầu, xăng trên thế giới cao như vậy có rất ít người tiêu dùng Việt Nam có khả năng thanh toán nhưng chúng ta cũng phải thấy rằng hầu hết các gia đình Việt Nam đều có xe máy, thậm chí có hộ gia đình nhiều hơn 1 chiếc xe máy. Cho nên nhu cầu về xăng cho xe đi lại là rất lớn.. Bên cạnh tác động tích cực của chính sách ngày cũng tạo ra một số ảnh hưởng tiêu cực. Thứ nhất, phải kể đến sự thâm hụt của Ngân sách Nhà nước. Vì việc quy định mức giá trần thấp hơn mức giá của thị trường thì phần lỗ của doanh nghiệp nhập khẩu và bán xăng dầu được Nhà nước bù đắp. Theo tính toán của Bộ Tài chính, kể từ đầu 1/1 đến 1/7/05, ngân sách Nhà nước phải bù lỗ khoảng 6.450 tỷ đồng cho xăng dầu do giá trên thị trường thế giới liên tục tăng cao. Đó còn chưa kể giảm thu ngân sách do việc đưa thuế nhập khẩu xăng dầu về 0% từ nhiều tháng nay mà chưa khôi phục được. Phần bù đắp được lấy từ lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu dầu. Việt Nam là nước xuất khẩu ngoài OPEC, sản lượng mà Việt Nam cung cấp nhỏ bé ra thị trường thế giới, cho nên chúng ta là người chấp nhận giá. Khi giá dầu
  13. thô trên thị trường thế giới tăng thị hoạt động xuất khẩu dầu thô của chúng ta có lợi, cùng với một lượng hàng hóa bán như cũ, nhưng khi giá cao hơn doanh thu có được cao hơn. Nhưng với đặc điểm của hoạt động khai thác dầu mỏ của Việt Nam khác so với các nước Trung Đông và một số nước xuất khẩu trước dầu mỏ khác trên thế giới là hoạt động khai thác dầu mỏ được thực hiện ngoài biển. Vì vậy chi phí thăm dò, lắp đặt hệ thống giàn khoan khai thác và chi phí khai thác cũng cao hơn cho nên lợi nhuận thu được thường thấp hơn. Chúng ta chưa có nhà máy lọc dầu để chế biến sản phẩm từ dầu thô. Cho nên dầu khai thác sẽ xuất khẩu sang những nước có công nghệ hiện đại để lọc thành xăng từ đó bán ra thị trường để sử dụng.Việc nhập khẩu xăng hoàn toàn phụ thuộc theo giá của thị trường thế giới. Điều này cũng có nghĩa khi giá xăng trên thế giới tăng lên chi phí nhập khẩu xăng theo đó cũng tăng lên. Do mức giá bán ở thị trường trong nước được giữ ở mức giá tương đối thấp so với giá hình thành theo quy luật thị trường. Nên trong thực tế doanh thu từ hoạt động xuất khẩu dầu thô không đủ bù đắp phần lỗ do Ngân sách Nhà nước bù đắp. Khi khoản tiền trích từ Ngân sách Nhà nước nằm ngoài dự toán Ngân sách sẽ ảnh hưởng đến việc chi Ngân sách cho các mục tiêu khác
  14. Thứ hai, Khi mức giá bán được quy định thấp sẽ xảy đến hiện tượng cầu lớn hơn cung. Tại mức giá P* của xăng được hình thành theo quy luật cung - cầu thì mức sản lượng được cân bằng cung - cầu trên thị trường Q*. Khi chính phủ quy định mức giá trần Ps, lượng cung là Q1, lượng cầu là Q2, một lượng thiếu hụt là Q2 - Q1. Xét về lý thuyết, khi mức giá bán trên thị trường thấp hơn mức giá bán được định ra, nhưng lượng thiếu hụt thực tế của Việt nam không phải xuất phát từ cầu tiêu dùng trong thực tế mà phần thiếu hụt này được cộng thêm cầu từ các nước láng giềng như: Trung Quốc, Campuchia, Lào. Nguyên nhân là do các với mức giá trần của Chính phủ thấp hơn so với mức giá bán tại các quốc gia đó dẫn đến tình trạng là có 1 dòng xuất khẩu lậu sản phẩm này sang các quốc gia đó để hưởng phần chênh lệch. Đường cầu mới của sản phẩm xăng là D', lượng cầu là Q3 và lượng thiếu hụt bây giờ là : Q3 - Q1 = (Q3 - Q2)+ (Q2 - Q1) P S P* Ps D’ D O Q1 Q* Q2 Q3 Q Chiều ngày 06-6-2006, phóng viên báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với ông Vũ Thế Bằng, Chánh văn phòng Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) về giá bán lẻ xăng, dầu tại Việt Nam. Theo ông Bằng, giá bán lẻ xăng, dầu đến người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay đang ở mức thấp so với các nước. Hiện nay Nhà nước quy định giá bán lẻ xăng MG92 là 11.000 VNĐ/lít (vùng 1). Mức giá trên đã có các khoản nộp ngân sách Nhà nước (khoảng 25%). Hiện nay, giá bán xăng MG92 tại một số nước như sau : Tại Ô-xtrây-li-a, một lít giá 1,138 USD, tương đương 18.200 VNĐ; tại Hàn Quốc là 1,6 USD, tương đương 25.600 VNĐ; tại
  15. Cam-pu-chia, giá bán mỗi lít xăng tương đương với mức 15.200 VNĐ; tại Lào, mỗi lít giá 8.920 kíp, tương đương 14.040 VNĐ; tại Trung Quốc, giá xăng MG 92 vào khoảng 11.200 VNĐ/lít. Tất nhiên mức giá trên bao gồm cả thuế nhập khẩu, còn ở Việt Nam, tại thời điểm hiện tại, thuế nhập khẩu bằng 0. Thứ ba, Khi chính phủ đặt ra mức giá trần, người cung cấp hàng hoá xăng dầu không muốn bán vì hoạt động kinh doanh của họ luôn bị lỗ. Trong khi đó Nhà nước can thiệp vào các doanh nghiệp xăng dầu bắt buộc họ phải bán xăng dầu ra thị trường dẫn đến tình trạng họ tìm cách gian lận trong việc bán xăng (ngoại trừ các doanh nghiệp cung cấp xăng ra thị trường thế giới). Thực tế qua các cuộc kiểm tra của các cơ quan hữu quan 90% doanh nghiệp bán xăng dầu đều vi phạm như điều chỉnh đồng hồ bán xăng để bán ra với lượng ít hơn, chất lượng xăng cũng không tốt vì bị pha trộn thêm 1 số chất khác, chủng loại xăng bán ra không đúng tiêu chuẩn Theo Ông Bùi Ngọc Bảo, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cho biết giá xăng dầu thế giới tăng cao khiến mỗi ngày Petrolimex lỗ từ 26 - 30 tỉ đồng. Riêng mặt hàng xăng (không còn được bù lỗ từ 27/4/2006), Petrolimex lỗ từ 4-5 tỉ đồng/ngày; tính ra một lít xăng nhập về công ty chịu lỗ đến 1.000đ. Saigon Petro cũng cho biết nếu mức lỗ của công ty hồi tháng 3/2006 là 200-300đ/lít xăng thì tháng 6/2006 đã là 700- 800đ/lít. Hơn nửa tháng qua (tháng 5/2006), Saigon Petro đã lỗ 20-30 tỉ đồng. Thứ tư, Với việc các doanh nghiệp có những hành vi gian lận trong bán xăng dầu ngày càng nhiều như hiện nay khiến cho Nhà nước phải bỏ một khoản chi phí nhất định phục vụ cho công tác tăng cường kiểm tra, giám sát lực lượng nhằm ngăn chặn những hành vi gian lận cũng như việc ngăn chặn tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới. Qua phân tích trên những ưu điểm tích cực cũng như những hạn chế trong chính sách quy định mức giá trần đối với sản phẩm xăng dầu của Chính phủ, có thể thấy rằng tùy theo từng mục tiệu của từng giai đoạn mà chính phủ nên lựa chọn giải pháp đặt giá trần hoặc để giá cả được hình thành theo quy luật cung - cầu thị trường. Qua phân tích diễn biến giá xăng dầu trên thị trường thế giới có thể thấy rằng, đây là một loại hàng hóa mà giá cả luôn biến động lớn do sự tác động của các yếu tố cung- cầu và các yếu tố phi kinh tế, xu hướng giá tăng lên và tăng ở mức cao là điều không thể tránh khỏi. Sự can thiệp của Chính phủ để điều tiết giá cả xăng dầu trên thị trường Việt Nam là hết sức đúng đắn, tuy nhiên trong quá trình can thiệp này, Chính phủ cần phải nắm rõ những tác động tiêu cực để từ đó có những biện pháp chiến lược nhằm phòng tránh rủi ro và mang lại hiệu quả.
  16. Chương III NHỮNG GIẢI PHÁP KIÊM SOÁT ẢNH HƯỞNG SỰ BIẾN ĐỘNG XĂNG DẦU THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 1. Giải pháp giảm sự lệ thuộc vào nguồn cung cấp dầu của thế giới – Giải pháp tăng cung 1.1. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà máy lọc dầu Việc xây dựng các nhà máy lọc dầu hiện nay có ý nghĩa rất lớn đối với ngành dầu khí nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. Khi đó chúng ta sẽ tự chủ được một phần nào đó về cung nguyên nhiên liệu cũng như nâng cao giá trị xuất khẩu các sản phẩm từ dầu mỏ thay vì là chỉ xuất khẩu dầu thô với giá trị thấp như trước kia, đồng thời giảm được giá trị nhập khẩu xăng dầu, cải thiện cán cân thanh toán. Nhà máy lọc dầu Dung Quất, một công trình trọng điểm quốc gia đang từng bước được hoàn thiện để đưa vào sử dụng. Đến nay,Tập đoàn Dầu Khí Petrol Việt Nam đã hoàn thành các công tác chuẩn bị mặt bằng. Các hạng mục hạ tầng cơ sở phục vụ cho xây dựng nhà máy đã được đưa vào sử dụng. Dự án khí – điện – đạm Cà Mau đã hoàn thành san lấp mặt bằng cần thiết cho nhà máy điện và phân đạm. Các cơ sở hạ tầng đã được triển khai, đường ống dẫn khí đốt từ cụm mỏ PM3 về Cà Mau cũng như nhà máy điện đã hoàn thành thiết kế và lập tổng dự toán, đang chờ được phê duyệt. 1.2. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào ngành khai thác và chế biến dầu khí Những ứng dụng khoa học kỹ thuật vào ngành khai thác sẽ nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng cho hoạt động khai thác, đồng thời giảm sự lệ thuộc của ta vào việc thuê các thiết bị của nước ngoài. Phát triển lọc dầu trong nước để tăng giá trị xuất khẩu sản phẩm. Trong năm 2004 tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin đã đóng góp cho Petro Việt Nam một giàn khoan tự nâng trị giá 100 triệu USD tại nhà máy đóng tàu Dung Quất. Giàn khoan này được đóng theo quy phạm và giám sát phân cấp của đăng kiểm Mỹ ABS, phục vụ cho hoạt động khoan thăm dò tại vùng mỏ Bạch Hổ, Đại Hùng. 1.3. Tiết kiệm tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên Để đảm bảo an ninh năng lượng, các nước có nhiều biện pháp khác nhau. Trong đó đối với Việt Nam biện pháp thực thi nhất là thực hành tiết kiệm năng lượng. Hoạt động tiết kiệm có quy mô lớn nhất trong ngành dầu khí là chấm dứt tình trạng đốt bỏ khí đồng hành tại nơi khai thác dầu thô, thu gom và đưa lượng lớn khí này vào bờ phục vụ cho phát điện, sản xuất ure và các hóa chất khác, thậm chí có thể biến thành nhiên liệu lỏng thay cho xăng.
  17. Lượng khí đồng hành ở mỏ Bạch Hổ bị đốt bỏ từ năm 1986 đến 1994 lên đến 3 5.5 tỷ m và sau năm 1995 lượng khí này mới được sử dụng như một năng lượng hữu ích. Lượng khí đồng hành ở bể Cửu Long có thể thu gom khoảng 43 3 tỷ m . Mỏ 3 Bạch Hổ trong thời gian ổn định có thể cung cấp 1.5 đến 2 tỷ m /năm. Mỏ Rạng 3 Đông ước tính mỗi ngày khai thác được 58.5 triệu m nhưng từ 1998 đến 2001 ngoài việc sử dụng cho các nhu cầu tại mỏ thì phần khí còn lại vẫn bị đốt bỏ. Trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến 2010, mỏ Hồng Ngọc dự tính có thể cung 3 3 cấp khoảng 800 triệu m và mỏ Emerald có thể cung cấp khoảng 4.5 tỷ m . Ngoài lợi ích kinh tế, việc chấm dứt đốt bỏ khí đồng hành còn mang lại lợi ích bảo vệ môi trường, chống hiệu ứng nhà kính do lượng khí CO2 và CH4 cùng các loại khí độc hại khác phát tán vào khí quyển trong quá trình đối khí gây ra. Ngoài ra có thể thực hiện tiết kiệm năng lượng thông qua việc xây dựng ngành kinh tế có hàm lượng cacbon thấp (sử dụng ít nhiên liệu). 2. Giải pháp về những hàng hóa thay thế – giải pháp giảm cầu 2.1. Hàng hóa thay thế trong ngành năng lượng và nhiên liệu Để có thể giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của biến động giá xăng dầu đối với nền kinh tế trong nước thì một trong những biện pháp thực hiện là giảm bớt nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế đối với loại sản phẩm này. Việc giảm cầu có thể thực hiện bằng cách tìm các nguồn năng lượng và nhiên liệu khác với nguồn xăng dầu để vận hành máy móc, thiết bị. Chẳng hạn như đẩy mạnh việc nghiên cứu để sử dụng được nguồn năng lượng mặt trời tương đối dồi dào cho các loại phương tiện giao thông, các máy móc thiết bị cần năng lượng để vận hành. Nguồn năng lượng từ sức gió cũng là nguồn năng lượng tốt và lại nhiều. Trong khi nguồn dầu mỏ thì có hạn, khai thác đến một lúc nào đó sẽ làm cạn kiệt thì những nguồn năng lượng như vừa kể trên là nguồn năng lượng thay thế tốt nhất. Ngoài ra, có thể nghiên cứu để tìm cách tổng hợp nhân tạo những hợp chất cần thiết mà từ trước đến nay chỉ có thể chiết xuất từ nguồn dầu mỏ. Ngày nay ngành công nghệ vật liệu mới đang phát triển mạnh và sẽ hứa hẹn nghiên cứu được nhiều hợp chất có giá trị. Như vậy nước ta cũng cần đẩy mạnh theo hướng nghiên cứu này. 2.2. Dùng phương tiện giao thông công cộng thay cho phương tiện giao thông cá nhân Một thực trạng của nền kinh tế ngày nay ở nước ta cho thấy nhu cầu sử dụng các phương tiện giao thông cá nhân hiện nay là rất nhiều, lưu lượng xe máy tăng vọt trong năm 2003 và 2004. Đây là một điều đáng lo ngại trong vấn đề giải quyết nhu cầu nhiên liệu cho các phương tiện này. Sự sử dụng như vậy là rất lãng phí nguồn lực kinh tế. Mỗi người đều tiêu thụ một lượng lớn xăng dầu mỗi ngày để vận hành phương tiện, mà với số dân đông như chúng ta hiện nay (83 triệu người) thì chỉ cần
  18. 1/2 số người có xe máy đã tạo nên nhu cầu lớn về tiêu thụ xăng. Giải pháp cho vấn đề này đang được chính phủ từng bước thực hiện, tuy chưa hoàn toàn đạt hiệu quả như mong muốn nhưng cũng có những ý nghĩa nhất
  19. định. Đó là khuyến khích người dân tham gia giao thông bằng các phương tiện giao thông công cộng như xe buýt. Trong thời gian tới sẽ tăng cường xây dựng các tuyến Metro và tàu điện ngầm để phục vụ nhu cầu đi lại của người dân. Nếu thực hiện được điều này sẽ giải quyết được bài toán lớn cho vấn đề nhiên liệu của đất nước. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có những quy định nghiêm trong vấn đề sử dụng xe công để thực hiện nhiệm vụ, cần hạn chế sự tiêu dùng lãng phí và hạn chế những đối tượng sử dụng để giảm áp lực cho chi tiêu của chính phủ trong việc trả các chi phí nhiên liệu của các hoạt động công tác này. Khuyến khích cán bộ thực hành tiết kiệm. KẾT LUẬN Khi có sự biến động giá xăng dầu, mỗi quốc gia đều ch ịu ảnh hưởng ở một mức nhất định tùy vào quy mô của quốc gia và sự phát tri ển c ủa qu ốc gia đó. Hiện nay các nước phát triển đã có những kinh nghiệm đối phó tác động của sự biến động giá xăng dầu bằng việc tăng cường dự trữ dầu, thực hiện tiết kiệm năng lượng và có ưu thế trong việc tìm kiếm những nguồn nguyên liệu thay thế cho nên trong ngán hạn thì sự biến động đó s ẽ không ảnh hưởng nhiều. Chỉ khi nào biến động đó diễn ra trong th ời gian dài thì mới có thể tác động đến nền kinh tế này. Ngược l ại n ước nh ỏ nh ư Việt Nam và một số nươc khác, nhu cầu về nhiên liệu, năng lượng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm cho Việt Nam chịu ảnh hương khá lớn với mỗi biến động giá xăng dầu trên th ế giới. Vì v ậy. Xem sét và đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh t ế, đối v ới mỗi nhân tố trong nền kinh tế để từ đó hạn chế hạn chế những tác động tiêu cực. Phát huy những mặt tích cực là điều rất tốt.
  20. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu kinh tế vi mô Robert S.Pindyck 2. Tài liệu kinh tế vi mô Jack Hrhleifer & Amhai Glazer 3. Trang web gso.com của Tổng cục thống kê Việt Nam 4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế 5. Thời báo kinh tế Việt Nam 6. Website của Bộ Thương Mại Việt Nam 7. http://www.laodong.com.vn 8. Trang web vneconomy.com.vn 9. http://www.quandoinhandan.org.vn 10. http://vietbao.vn 11. http://dantri.com 12. http:// www.eia.doe.gov/pub/oil_gas/petroleum/ 13. http://www.infoplease.com/ipa/A0922041.html 14. http://www.google.com.vn 15. http://vi.wiktionary.org/ 16. Trang thông tin điện tử VTC New 17. Tài liệu Quản trị kinh doanh Lê Hồng Lam
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2