TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(41).2010<br />
<br />
<br />
<br />
LIỆU HỌC TẬP MANG TÍNH HỢP TÁC CÓ PHÙ HỢP<br />
VỚI SINH VIÊN VIỆT NAM?<br />
IS COOPERATIVE LEARNING A SUITABLE TEACHING AND<br />
LEARNING METHOD IN VIETNAM?<br />
<br />
<br />
Võ Thị Kim Anh<br />
Trường Đại học Ngọai ngữ, Đại học Đà Nẵng<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Học mang tính hợp tác (cooperative learning) là phương pháp học được đánh giá cao<br />
hiện nay vì đây là phương pháp dạy và học mang lại nhiều lọi ích như khuyến khích người học<br />
phát huy khả năng, và phát triển kỹ năng mềm. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng phương pháp dạy<br />
và học này không phù hợp với sinh viên Việt nam, những người quá quen với lối học thụ đông.<br />
Bài viết đưa ra được cái nhìn chính xác hơn về việc này. Việc học mang tính hợp tác hoàn toàn<br />
có thể được áp dụng thành công trong dạy và học tiếng Anh nói riêng, và ngọai ngữ nói chung<br />
ở Việt nam. Một số khó khăn trong việc áp dụng áp dụng học tập mang tính hợp tác, và<br />
phương pháp khắc phục cũng được thảo luận trong bài báo.<br />
ABSTRACT<br />
Cooperative learning has been a highly-appreciated learning and teaching method<br />
these days since this method has provided many advantages like enhancing students’ learning<br />
and developing their soft skills. Nevertheless, it is thought that such method is not really suitable<br />
for Vietnamese students who have been regarded as passive learners. The article aims at<br />
providing a more precise view on this issue. In fact, cooperative learning can be applied<br />
successfully in the teaching and leaning foreign languages in general and English in particular<br />
in Vietnam. Some difficulties in applying cooperative learning and solutions are discussed in the<br />
article.<br />
<br />
<br />
1. Học tập mang tính hợp tác<br />
1.1. Khái niệm<br />
Học tập mang tính hợp tác đã được ứng dụng rộng rãi trong quá trình giảng dạy<br />
ngôn ngữ nói chung va tiếng Anh nói riêng ở nhiều nước trên thế giới. Giữa ba mô hình<br />
học tập học tập mang tính tranh đua (competitive learning), học tập mang tính cá thể<br />
(individualistic learning) và học tập mang tính hợp tác (cooperative learning) thì học<br />
tập mang tính hợp tác được đánh giá cao hơn hẳn. (Roger & David,1994).<br />
Vậy học tập mang tính hợp tác là gì? Theo Johnson (1994), học tập mang tính<br />
hợp tác là quá trình học tập học sinh được nhóm thành từng nhóm nhỏ mà trong đó học<br />
sinh làm việc cùng nhau để tối đa hóa khả năng học của mình và các thành viên khác<br />
trong nhóm.<br />
Học tập mang tính hợp tác còn được định nghĩa là những họat động học theo<br />
nhóm được tổ chức dựa theo cấu trúc trao đổi thông tin giữa các thành viên trong nhóm<br />
207<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(41).2010<br />
<br />
sao cho mỗi thành viên không chỉ đảm trách việc học của mình, mà còn được khuyến<br />
khích để có thể thúc đẩy khả năng học của các thành viên khác (Oxford, 1997).<br />
Tóm lại, học tập mang tính hợp tác là sinh viên họat động theo nhóm chia sẻ<br />
cùng một mục đích, trao đổi nguồn tài liệu, thông tin, cùng nhau thảo luận giải quyết<br />
vấn đề.<br />
1.2. Lợi ích của học tập mang tính hợp tác<br />
Học tập mang tính hợp tác mang lại ba lợi ích cơ bản cho việc giảng dạy và học<br />
tiếng Anh nói riêng và ngôn ngữ nói chung.<br />
- Học tập mang tính hợp tác là phương pháp hữu hiệu để khuyến khích sinh<br />
viên phát huy hết năng lực tiềm ẩn của mình. Sinh viên thường cảm thấy e<br />
ngại khi phải trình bày ý kiến, hay bảo vệ ý kiến của mình trước lớp học.<br />
Tuy nhiên, họ sẽ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn trong một nhóm nhỏ. Các<br />
giờ thảo luận, làm bài chung trong nhóm cùng hướng đến một mục đích<br />
chung là động lực lớn để sinh viên cố gắng trong lớp học cũng như ở nhà.<br />
- Đối với việc dạy và học ngọai ngữ, học tập mang tính hợp tác mang lại cho<br />
người học cơ hội phát triến, trau dồi kỹ năng giao tiếp, và các kỹ năng mềm<br />
khác như họat động theo đội, nhóm, quản lý hay lãnh đạo (leader ship).<br />
- Lợi ích thứ ba của học tập mang tính hợp tác là giúp người học phát triển tư<br />
duy sáng tạo, khả năng phân tích tổng hợp và giải quyết vấn đề. Đây là cơ<br />
hội tốt cho sinh viên luyện tập kỹ năng tổng hợp, phân tích các ý kiến trái<br />
ngược được đưa ra trong quá trình học. Khả năng phản biện một ý kiến cũng<br />
như bảo vệ ý kiến của mình cũng được cải thiện.<br />
2. Học tập mang tính hợp tác có phù hợp với sinh viên Việt Nam?<br />
Một số nhà nghiên cứu nước ngoài tỏ ra rất hoài nghi về việc ứng dụng của học<br />
tập mang tính hợp tác trong việc giảng dạy ngọai ngữ cho sinh viên châu Á nói chung<br />
và sinh viên Việt Nam nói riêng. Pennycook (1994, 1998) mô tả sinh viên châu Á như<br />
những người: “lạc hậu”, “khép kín”, “thụ động” và “chỉ biết học vẹt”, họ là “sản phẩm<br />
của xã hội truyền thống không thay đổi”. “...thật sự muốn lắng nghe và vâng lời” là<br />
những lời mô tả của Littlewood (2000) dành cho sinh viên Châu Á. Và từ quan điểm<br />
này những nhà nghiên cứu này đã đưa ra nhận định phương pháp học theo giao tiếp<br />
(communicative approach) bao gồm cả học tập mang tính hợp tác không phù hợp với<br />
sinh viên châu Á nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng.<br />
Tuy nhiên những nghiên cứu được tiến hành tại Việt Nam do các nhà nghiên<br />
cứu trong và ngoài nước tiến hành lại chứng minh điều ngược lại.<br />
Kramsch & Sullivan (1996) đã đưa ra một cái nhìn hoàn toàn mới về phương<br />
pháp giảng dạy ngoại ngữ ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Theo Kramsch &<br />
Sullivan việc ứng dụng cùng một phương pháp giảng dạy ở Hà Nội hay Luân Đôn hoàn<br />
toàn khác nhau. Điều đó không có nghĩa la phương pháp đó không thể dùng ở Việt<br />
<br />
208<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(41).2010<br />
<br />
Nam. Tuy nhiên, Kramsch & Sullivan lại cho rằng học tập mang tính hợp tác ở Việt<br />
Nam được tiến hành theo lớp (classwork) hơn là theo nhóm nhỏ (groupwork).<br />
Nghiên cứu của Phan Lê Hà (2004) cũng chỉ ra rằng phương pháp học và dạy<br />
theo giao tiếp nói chung và học tập mang tính hợp tác nói riêng đã được ứng dụng thành<br />
công ở Việt nam. Và dĩ nhiên việc ứng dụng các phương pháp này là sự kết hợp giữa<br />
phương pháp dạy và học hiện đại với truyền thống cũng như tính quốc tế kết hợp với địa<br />
phương.<br />
Như vậy, học tập mang tính hợp tác hoàn toàn phù hợp với sinh viên Việt nam.<br />
Học tập mang tính hợp tác cũng đã được các giảng viên khoa tiếng Anh, trường Đại học<br />
Ngọai Ngữ áp dụng rất rộng rãi trong việc giảng dạy cho sinh viên, đặc biệt là ở kỹ<br />
năng nói va viết.<br />
Bản thân người viết cũng đã áp dụng hoc tập mang tính hợp tác vào việc dạy kỹ<br />
năng viết cho sinh viên Anh ngữ dưới hình thức viết theo nhóm (groupwriting). Một<br />
thăm dò nhỏ của người viết năm 1998 cũng chứng minh rằng học tập mang tính hợp tác<br />
có thể được sử dụng thành công trong việc học và dạy ở khoa tiếng Anh, trường Đại học<br />
ngọai ngữ Đà Nẵng. Việc ứng dụng phương pháp học mang tính hợp tác được thực hiện<br />
dưới hình thức viết theo nhóm ở hai lớp học chính quy năm thứ nhất trong một học kỳ<br />
với tần suất 60%. Giáo trình sử dụng là Writing Task.<br />
Có 67% số sinh viên trong hai lớp học trả lời họ thích tham gia viết theo nhóm<br />
hơn viết cá nhân, 18% chọn viết cá nhân và 15% không có ý kiến. Theo những sinh viên<br />
chọn viết theo nhóm, họ có thể học được rất nhiều từ cách học này và cảm thấy tự tin<br />
hơn về khả năng diễn đạt sau khi kết thúc học kỳ. Số còn lại thích viết một mình<br />
(individual writing) để có thể phát huy khả năng cá nhân. Tuy nhiên, những sinh viên<br />
này lại mong muốn được học theo nhóm thảo luận ý tưởng, cách phát triển ý trước khi<br />
thực hiện việc viết bài riêng lẻ. Như vậy, rõ ràng tuy khác nhau về lựa chọn, việc học<br />
mang tính hợp tác vẫn là điều phần lớn sinh viên mong đợi trong giờ học.<br />
Tóm lại, học tập mang tính hợp tác hoàn toàn có thể được áp dụng thành công<br />
trong lớp học ngoại ngữ ở Việt nam.<br />
<br />
3. Một số điều cần lưu ý khi áp dụng học tập mang tính hợp tác trong giảng dạy<br />
ngọai ngữ:<br />
3.1. Một số khó khăn thường gặp khi ứng dụng học tập mang tính hợp tác ở Việt Nam<br />
Khi áp dụng phương pháp học tập mang tính hợp tác, giáo viên thường phải<br />
đương đầu với những khó khăn sau:<br />
- Khó khăn thứ nhất là thói quen học thụ động của sinh viên. Phương pháp<br />
dạy và học truyền thống cộng với cách thi cử đòi hỏi học thuộc lòng đã làm<br />
cho một bộ phận không nhỏ sinh viên chây ỳ trong học tập, và có thói quen<br />
học vẹt. Những sinh viên này thường ỷ lại các bạn trong nhóm và không<br />
tham gia tích cực.<br />
<br />
209<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(41).2010<br />
<br />
- Khó khăn thứ hai là sinh viên cảm thấy nhóm học không phù hợp với mình,<br />
các bạn trong nhóm quá yếu hay quá giỏi so với khả năng học của minh.<br />
Những sinh viên này vì thế cảm thấy không thỏai mái, hay lo sợ điêm học bị<br />
ảnh hưởng. Vì thế, họ sẽ không cố gắng trong giờ học.<br />
3.2. Phương pháp khắc phục<br />
Phương pháp thứ nhất là về vai trò của giáo viên trong lớp học. Một trong những<br />
sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng học tập mang tính hợp tác là coi học tập mang tính<br />
hợp tác chỉ đơn giản như là việc cho sinh viên ngồi học theo nhóm. Thực ra, để thành<br />
công vai trò của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên phải đóng vai trò như là nguồn tài<br />
liệu khi cần, người hướng dẫn, người tổ chức (Cohen, 1994). Ngoài ra, sinh viên Việt<br />
nam đã quá quen thuộc với hình ảnh một người Thầy nghiêm khắc trong lớp học với<br />
mối quan hệ Thầy trò theo truyền thống. Vì vậy giáo viên cũng không nên để sinh viên<br />
quá tự do trong họat động học của mình. Điều này không chỉ giúp cho việc áp dụng<br />
phương pháp học tập theo tính hợp tác mà còn ngăn ngừa sự thụ động của một số không<br />
nhỏ sinh viên.<br />
Điều thứ hai là tần suất sử dụng học tập mang tính hợp tác. Tuy học tập mang<br />
tính hợp tác mang lại nhiều ý lợi ích, việc sử dụng quá thường xuyên cũng có thể mang<br />
lại bất lợi nhất định. Khó có thể nói là việc học mang tính hợp tác nên chiếm bao nhiêu<br />
phần trăm trong quá trình dạy và học. Việc áp dụng phương pháp này vào lớp học như<br />
thế nào phải dựa trên nhu cầu của người học và môn học. Cái khéo của giáo viên là phải<br />
biết cách đan xen các phương pháp khác nhau trong lớp để có thể phát huy tốt nhất khả<br />
năng học của từng sinh viên trong lớp.<br />
Ngoài ra cách tổ chức nhóm như thế nào cũng là một vấn đề cần quan tâm. Để<br />
phù hợp với nhu cầu và sở thích của từng sinh viên trong lớp học, giáo viên cần có sự<br />
linh họat trong việc lập nhóm học. Để sinh viên tự chọn bạn học, chia nhóm ngẫu nhiên<br />
hay theo khả năng của sinh viên là những việc giáo viên cần cân nhắc để tạo sự thoải<br />
mái cho các sinh viên trong quá trình ứng dụng học mang tính hợp tác. Và trong mỗi<br />
nhóm nhất thiết phải có một trưởng nhóm, người đủ khả năng dẫn dắt cả nhóm đi đúng<br />
hướng.<br />
Đánh giá kết quả cũng là một phần quan trọng trong việc học mang tính hợp tác.<br />
Giáo viên không nên cho điểm chung cả nhóm vì điều này có thể làm giảm sự đóng góp<br />
nhiệt tình của các thành viên cũng như tạo tâm lý ỷ lại vào một hai thành viên xuất sắc<br />
trong nhóm học. Một sự chênh lệch không lớn lắm về điêm sẽ là sự khích lệ cho các<br />
thành viên. Để làm được điều này giáo viên cần quan sát kỹ va sư dụng phương pháp tự<br />
đánh giá (self-evaluation), đánh giá các thanh viên khác (peer evaluation).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
210<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 6(41).2010<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
<br />
[1] Cohen, E. G. (1994), Designing groupwork: Strategies for the Heterogeneous<br />
Classroom. New York: Teachers college, Columbia University.<br />
[2] Johnson, D.W. et al., E.J. (1994), Cooperative learning in the classroom. Virginia:<br />
Association for supervision and curriculum.<br />
[3] Kramsch, C and P. Sullivan (1996), Appropriate pedagogy. ELT Journal 50/3,<br />
199-212<br />
[4] Littlewood. W. (2000), Do Asian students really want to listen and obey?. ELT<br />
Journal. 54/1: 31-35<br />
[5] Oxford, R. L. (1997), Cooperative learning, collaborative learning, and interaction:<br />
Three communicative strands in the language classroom. The modern language<br />
journal, 443-456.<br />
[6] Pennycook, A. (1994), The cultural politics of English as an international<br />
language. New York: Longman<br />
[7] Pennycook, A. (1998), English and the discourse of colonialism. London:<br />
Routledge.<br />
[8] Phan Le Ha (2004), University classroom in Vietnam: contesting the stereotypes.<br />
ELT Journal, 58/1, 50-57<br />
[9] Roger, T. & David, W.J., An overview of cooperative learning. Brookes Press,<br />
Baltimore, 1994.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
211<br />