intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:191

146
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận án: Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng trong vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945, từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm về CTVĐTT; làm sáng tỏ công tác trí vận của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, những quan điểm của Đảng, của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về công tác trí vận; đánh giá vai trò của công tác trí vận và những đóng góp của trí thức đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ MINH PHƯỢNG §¶NG VËN §éNG TRÝ THøC TRONG §ÊU TRANH GI¶I PHãNG D¢N TéC Tõ N¡M 1930 §ÕN N¡M 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2015
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐẶNG THỊ MINH PHƯỢNG §¶NG VËN §éNG TRÝ THøC TRONG §ÊU TRANH GI¶I PHãNG D¢N TéC Tõ N¡M 1930 §ÕN N¡M 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số: 62 22 03 15 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. HỒ THỊ TỐ LƯƠNG 2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định. Tác giả luận án Đặng Thị Minh Phượng
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7 1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 7 1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu 21 1.3. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết 23 Chương 2: ĐẢNG VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939 24 2.1. Đặc điểm cơ bản và những hoạt động của trí thức Việt Nam trước khi thành lập Đảng 24 2.2. Chủ trương và công tác vận động trí thức của Đảng từ năm 1930 đến năm 1939 39 Chương 3: ĐẢNG VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945 69 3.1. Đảng đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu 69 3.2. Đảng vận động, tập hợp trí thức vào Mặt trận dân tộc thống nhất hướng đến mục tiêu giải phóng dân tộc 77 Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 114 4.1. Nhận xét 114 4.2. Một số kinh nghiệm 138 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC 169
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CNXH : Chủ nghĩa xã hội. CTVĐTT : Công tác vận động trí thức ĐNTT : Đội ngũ trí thức NXB : Nhà xuất bản SET : Section d’Excursion et de Tourisme (Đoàn Du ngoạn và Du lịch) XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trí thức là tầng lớp quan trọng của xã hội, là lực lượng sáng tạo và truyền bá tri thức, là động lực phát triển của mọi thời đại. Thực tiễn lịch sử cho thấy, bất cứ thời đại nào, dân tộc nào biết qui tụ, tập hợp, xây dựng và trọng dụng trí thức thì thời đại ấy, dân tộc ấy hưng thịnh. Kế thừa và phát triển giá trị mà dân tộc Việt Nam đã đúc kết “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi trọng và phát huy vai trò của trí thức trong đấu tranh cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nguyễn Ái Quốc, đông đảo trí thức đã lựa chọn con đường theo Đảng làm cách mạng, cống hiến trí tuệ và tài năng cho dân tộc, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam trên các chặng đường đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Trong cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò giới trí thức đã quan trọng; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò giới trí thức càng quan trọng. Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công - nông không được nâng cao kiến thức, (…) không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội [36, tr.113-114]. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, từ năm 1930 đến năm 1945, được sự tuyên truyền, vận động của Đảng, một bộ phận đông đảo trí thức yêu nước và tiến bộ đã hòa mình vào phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn trong cuộc đấu tranh chống chế độ thuộc địa, khôi phục và phát triển phong trào cách mạng, bảo vệ Đảng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho công cuộc Tổng khởi nghĩa, góp phần tạo nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Công tác vận động trí thức (CTVĐTT) của Đảng từ năm 1930 đến năm 1945 chứa đựng nhiều sáng tạo của
  7. 2 Đảng, tầm cao tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát huy những giá trị truyền thống qúy báu của dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; trong công tác vận động, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân tham gia phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, trong thời kỳ 1930 - 1945, công tác vận động, tập hợp trí thức của một số cấp bộ Đảng cũng bộc lộ một số sai lầm, hạn chế, nhất là những quan điểm tả khuynh, giáo điều trong đánh giá trí thức. Hiện thực lịch sử vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945 rất phong phú và sinh động, đã thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, song, đến nay vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và làm sáng rõ, nhất là quá trình Đảng vận động trí thức hướng đến mục tiêu đấu tranh giành chính quyền cần phải được nghiên cứu toàn diện và thấu đáo. Việc nhìn nhận, đánh giá một số phong trào yêu nước của trí thức, sự đóng góp của trí thức vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng cần được nghiên cứu, luận giải để đánh giá xác đáng, tương xứng với những đóng góp của trí thức đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam càng coi trọng và đánh giá cao những đóng góp của đội ngũ trí thức (ĐNTT) đối với dân tộc; đề ra nhiều chủ trương, giải pháp để phát huy tốt hơn vai trò của ĐNTT. CTVĐTT của Đảng được coi là một cơ sở quan trọng để phát triển nền khoa học - công nghệ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN); là một nhân tố quan trọng, bảo đảm sự vững mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong bối cảnh nhân loại đang tiến những bước dài vào thời đại của văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức. Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã nhấn mạnh phải xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của ĐNTT; xây dựng chiến lược phát triển ĐNTT đến năm 2020. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
  8. 3 lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước (…). Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước” [45, tr.241-242]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ĐNTT Việt Nam không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi mới. Bên cạnh đó, thực tiễn công tác xây dựng và phát huy vai trò của ĐNTT cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, như vấn đề đánh giá, sử dụng, phát huy tiềm lực của ĐNTT, vấn đề tạo dựng môi trường tự do sáng tạo của ĐNTT, vấn đề ứng xử và cách thức qui tụ ĐNTT trong điều kiện mới để khai thác mạnh mẽ tiềm năng trí tuệ, một nguồn nội lực dân tộc lớn lao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc v.v.. Để thực hiện được các chính sách đó, bên cạnh việc nghiên cứu, phát triển lý luận, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, rất cần nghiên cứu, đúc kết và vận dụng những kinh nghiệm vận động trí thức trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, trong đó có những kinh nghiệm về CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. Xuất phát từ nhận thức trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945” làm luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Nghiên cứu đề tài: “Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 đến năm 1945” làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng trong vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945, từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm về CTVĐTT. 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và Nguyễn Ái Quốc về trí thức và CTVĐTT ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945. - Luận giải quá trình các cấp bộ Đảng lãnh đạo thực hiện CTVĐTT, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. - Đánh giá một cách khoa học, khách quan vị trí, vai trò và những đóng góp của trí thức trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.
  9. 4 - Khẳng định những thành công, phân tích hạn chế của Đảng trong vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là CTVĐTT của Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. Đó là những quan điểm, chủ trương, chính sách trí vận của Đảng, Nguyễn Ái Quốc; những hoạt động lãnh đạo của các cấp bộ Đảng về vận động, tập hợp trí thức; những tổ chức, phong trào, hoạt động và đóng góp của trí thức từ năm 1930 đến năm 1945. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi thời gian, luận án giới hạn trong phạm vi 15 năm, từ đầu năm 1930 đến tháng 8 năm 1945. Tuy nhiên, để trình bày nội dung chính được lôgíc và khoa học, đề tài mở rộng thêm thời gian trước năm 1930, nhằm nêu bật những đóng góp to lớn của những trí thức yêu nước đối với sự ra đời của Đảng. Phạm vi không gian, luận án nghiên cứu CTVĐTT trên phạm vi cả nước, trong đó, trọng tâm là những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn - Chợ Lớn - là những nơi tập trung đông đảo lực lượng trí thức; trong một số trường hợp có đề cập đến hoạt động của trí thức khi họ hoạt động ở nước ngoài. Phạm vi nội dung, luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển nhận thức của Đảng về CTVĐTT; các khuynh hướng tư tưởng của trí thức và các nhóm trí thức; sự chuyển biến về tư tưởng của trí thức và những đóng góp của trí thức vào tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, về CTVĐTT và xây dựng trí thức phục vụ nhiệm vụ cách mạng.
  10. 5 4.2. Nguồn tài liệu Nguồn tài liệu chủ yếu sử dụng cho luận án gồm: Các văn bản, nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được công bố trong Văn kiện Đảng Toàn tập, của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được công bố trong Hồ Chí Minh toàn tập; đồng thời, khai thác tài liệu của các cấp bộ Đảng, nhất là của các Xứ uỷ. Đây chính là nguồn tư liệu gốc để thực hiện nội dung luận án. Các tác phẩm hồi ký của các cán bộ cách mạng lão thành, lịch sử Đảng địa phương, lịch sử chiến tranh nhân dân, địa chí văn hóa của các tỉnh, thành. Các đề tài, luận án, luận văn, các công trình nghiên cứu khoa học về lịch sử đã được công bố, các bài viết đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Các bài tham luận được in, đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học hiện đang được lưu giữ trong các thư viện của các tỉnh, thành địa phương và Trung ương. Một số bài viết có liên quan trên các trang web trên mạng internet. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là: phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, so sánh; chú trọng áp dụng các phương pháp phê phán sử liệu và phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học Lịch sử Đảng là lấy các văn bản nghị quyết, chỉ thị gốc của Đảng làm cơ sở đối chiếu với sự kiện, nhân vật lịch sử trong thực tiễn để phân tích, đánh giá, qua đó tái hiện quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Về khoa học: Làm sáng tỏ công tác trí vận của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, những quan điểm của Đảng, của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về công tác trí vận. Đánh giá vai trò của công tác trí vận và những đóng góp của trí thức đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.
  11. 6 Về thực tiễn: Hệ thống hóa quan điểm của Đảng về trí thức và CTVĐTT thời kỳ 1930 - 1945, góp phần xóa dần những “khoảng trống” trong lịch sử Đảng. Cung cấp thêm những luận cứ khoa học, tư liệu, tài liệu trong việc vận động trí thức tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc. Góp phần vào việc nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thêm toàn diện và sâu sắc, góp phần vào công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho ĐNTT, nhất là ĐNTT trẻ; động viên họ cống hiến tài năng và trí tuệ cho đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
  12. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Nghiên cứu về trí thức Việt Nam nói chung, về công tác vận động, tập hợp trí thức của Đảng qua các thời kỳ cách mạng, trong đó có thời kỳ 1930 - 1945 nói riêng, đã được đề cập trong nhiều tác phẩm, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, xã hội dưới dạng chuyên khảo, các công trình, các luận án, luận văn. Có thể phân chia thành các nhóm sau đây: 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng có đề cập đến trí thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 Ngay từ thập niên 30 thế kỷ XX, trong các dịp kỷ niệm thành lập Đảng hàng năm, những nhà lãnh đạo, lý luận của Đảng đã công bố nhiều bài viết trên báo chí của Quốc tế Cộng sản và của Đảng Cộng sản Đông Dương v.v.. phản ánh về lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng, trong đó có đề cập đến công tác vận động quần chúng nói chung và CTVĐTT của Đảng nói riêng. Đáng chú ý nhất là tác phẩm Sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương của tác giả Hồng Thế Công (tức Hà Huy Tập) thực hiện năm 1933 [40, tr. 399 - 425]. Tác phẩm này hàm chứa nhiều vấn đề lịch sử về sự ra đời của Đảng, trong đó có đề cập đến trí thức cũng như một số quan điểm nhìn nhận của Đảng đối với trí thức. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ đề cập một cách sơ lược về trí thức với tư cách là một cơ sở xã hội cho sự hình thành các tổ chức chính trị ở Việt Nam; giới hạn nghiên cứu cũng dừng lại ở những năm đầu của thập kỷ 30 thế kỷ XX. Từ năm 1960, thực hiện chủ trương tăng cường công tác tổng kết kinh nghiệm và viết lịch sử Đảng được đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960), nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng được tiến hành. Những công trình nghiên cứu của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (nay là Viện Lịch sử Đảng), đặc biệt là tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (sơ thảo), tập I
  13. 8 (1920 - 1954) [9] khi đề cập đến sự lãnh đạo của Đảng qua các giai đoạn lịch sử đã nêu lên chủ trương chỉ đạo của Đảng về công tác quần chúng, trong đó có CTVĐTT. Một số giáo trình về lịch sử Đảng của Trường Chuyên khoa Lịch sử Đảng trước đây, của Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), của Viện Lịch sử Đảng, của Bộ Giáo dục và Đào tạo khi biên soạn về thời kỳ 1930 - 1945 cũng phản ánh một cách khái lược về CTVĐTT của Đảng. Từ tháng 9/1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tư số 97 về việc thành lập Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng các khu, tỉnh, thành phố. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đã hoàn thành việc nghiên cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử Đảng bộ cấp tỉnh, thành phố. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau: Tác phẩm Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập 1 (1930 - 1945) [3] là công trình khảo cứu qui mô, toàn diện về lịch sử của Đảng bộ Thừa Thiên Huế từ năm 1930 đến năm 1945. Trong khi khắc họa bức tranh toàn cảnh về những ngày lịch sử sôi động chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945 ở Huế, tác phẩm đã đề cập đến sự ra đời của Trường Thanh niên Tiền Tuyến, quá trình “Việt Minh hóa” những thanh niên, trí thức của Trường như: Nguyễn Tấn, Nguyễn Kèn, Lê Khánh Khang v.v.. khi họ được bổ sung vào Ban Chấp hành Việt Minh Nguyễn Tri Phương và những đóng góp của các học viên Trường Thanh niên Tiền Tuyến ở Huế trước và sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền thành công ở Huế (ngày 23/8/1945). Cuốn Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930 - 2000) [135] với dung lượng hơn 900 trang được chia làm 3 phần, gồm 6 chương, công trình miêu tả, phân tích, đánh giá những đóng góp của những trí thức trong chi bộ cộng sản đầu tiên (tháng 3/1929), hoạt động của Tổng Hội Sinh viên Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ. Một bức tranh khá toàn diện về hoạt động của những nhân sĩ, trí thức như Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp, Nghiêm Xuân Yêm,
  14. 9 Nguyễn Xiển, Vũ Đình Hoè, Bùi Kỷ v.v.. dưới sự vận động, lãnh đạo của Đảng trên nhiều lĩnh vực cũng được khắc họa sinh động. Tác phẩm Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1930 - 1975) của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh [4] là một trong những công trình khoa học công phu, quy mô, với 4 phần chính. Từ thực tiễn sinh động, phong phú của cuộc đấu tranh cách mạng ở Nam Kỳ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn nói riêng, trong phần thứ nhất với tiêu đề: “Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ra đời và lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công tại Thành phố (1930 - 1945)”, đã làm rõ những đóng góp của phong trào thanh niên, sinh viên, trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, đặc biệt là vai trò của Thanh niên Tiền Phong trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngoài ra, có thể kể đến các công trình khác như: Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 1991 đến năm 2005 của Nguyễn Thắng Lợi [109] , luận án Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007 của Lương Quang Hiển [57] v.v... Những luận án trên đã đề cập, phân tích một số quan điểm của Đảng về trí thức và chủ trương vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. Những công trình nghiên cứu nêu trên khi đề cập đến quá trình ra đời và lãnh đạo cách mạng của các Đảng bộ tỉnh, thành phố, đã đề cập đến công tác vận động, tập hợp quần chúng, trong đó có CTVĐTT tại địa phương thời kỳ 1930 - 1945. Tuy nhiên, do việc giới hạn nghiên cứu về không gian, nên việc nghiên cứu về trí thức rất tản mạn và thiếu tính hệ thống. Nhìn chung, những công trình trên mới dừng lại ở việc nêu chủ trương chỉ đạo của Đảng, những kinh nghiệm chung về công tác vận động quần chúng, trong đó có CTVĐTT thời kỳ 1930 - 1945, quá trình vận động, tranh thủ và tập hợp trí thức cũng như sự hình thành những tổ chức của trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là những chuyển biến về tư tưởng chính trị của một số tổ chức trí thức do quá trình vận
  15. 10 động, tuyên truyền của Đảng cũng như vai trò, đóng góp của trí thức đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc chưa được tìm hiểu thấu đáo và chưa có những đánh giá xác đáng. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về lịch sử dân tộc, về các danh nhân văn hóa có đề cập đến trí thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 Vai trò hết sức quan trọng của trí thức đã được khẳng định trong tiến trình lịch sử của dân tộc, đặc biệt trong lịch sử hiện đại, khi trí thức Việt Nam chính là một lực lượng không thể thiếu trong liên minh công - nông - trí, một liên minh hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những chiến công vang dội trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Nếu chỉ tính riêng từ năm 1975 đến nay, liên quan đến CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945, bên cạnh những công trình nghiên cứu lịch sử Đảng, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa dân tộc đã được công bố. Tác phẩm Thanh niên Tiền phong và các phong trào học sinh, sinh viên, trí thức Sài Gòn 1939 - 1945 của Huỳnh Văn Tiểng, Bùi Đức Tịnh [164] làm rõ hoạt động sôi nổi của phong trào học sinh, sinh viên, trí thức thời kỳ 1930 - 1945 qua hai cuộc đấu tranh năm 1937, 1939 tại trường Petrus Ký, phong trào Câu lạc bộ học sinh, trại hè Suối Lồ Ô, Section d’Excursion et de Tourisme (Đoàn Du ngoạn và Du lịch) (S.E.T). Bên cạnh đó, tác phẩm còn là tài liệu quý khi khắc họa toàn bộ quá trình ra đời, hệ thống tổ chức, hoạt động của tổ chức Thanh niên Tiền Phong. Đây là một sự sáng tạo của Xứ ủy Nam Kỳ nhằm tập hợp, qui tụ những trí thức lớn tại Nam Kỳ vào trong một tổ chức dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là lực lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh giành chính quyền tại Nam Bộ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Cuốn sách Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn [169] cung cấp cho người đọc một bức tranh toàn cảnh về người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, chỉ ra đặc điểm cũng như xu hướng phát triển
  16. 11 của trí thức Việt Nam, vai trò của trí thức đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Trong tác phẩm, tác giả khẳng định: trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc thời kỳ 1930 - 1945, Đảng đã vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức từ cuộc vận động chống lại những quan niệm “tiểu nông đố kỵ” đối với trí thức theo kiểu “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” cho đến cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm, giữa quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” và định hướng con đường đấu tranh đúng đắn cho trí thức, văn nghệ sỹ khi ban hành Đề cương văn hóa Việt Nam và tổ chức trí thức thành một lực lượng chính trị rộng rãi bên cạnh Đảng trong Đảng Dân chủ Việt Nam. Với dung lượng gần 700 trang, năm 2000, tác giả William J. Duiker trong tác phẩm nổi tiếng Ho Chi Minh - a Life (Hồ Chí Minh - một cuộc đời) [209], đã mô tả chi tiết về tiểu sử, cuộc đời và hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh, quá trình Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, những nhận định, đánh giá về trí thức của Nguyễn Ái Quốc cũng được tái hiện và luận giải khá kỹ. Tác phẩm Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt Nam (1936 - 1939) của Phạm Hồng Tung [182] đã làm sáng tỏ sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương sau những chuyển biến mới của thời cuộc trong nước và quốc tế từ tháng 7/1936. Đứng trước nguy cơ của chiến tranh thế giới do chủ nghĩa phát xít ráo riết chuẩn bị, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Đảng đã khắc phục dần những hạn chế của đường lối tả khuynh, biệt phái từ sau tháng 10/1930 trong công tác chỉ đạo chiến lược cách mạng nói chung và công tác vận động quần chúng (trong đó có CTVĐTT) nói riêng; chủ trương liên hiệp với tất cả các giai cấp, tầng lớp, tổ chức các hình thức đấu tranh của quần chúng, hướng các cuộc đấu tranh vào việc đòi các quyền dân sinh, dân chủ thiết yếu, ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hòa bình. Tác phẩm đã cung cấp khối kiến thức rất đa dạng về hoạt động của lực lượng trí thức dưới sự lãnh đạo
  17. 12 trực tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương trong phong trào Đông Dương Đại hội, cuộc vận động dân chủ trên địa hạt báo chí công khai và phong trào Đại hội báo giới, cuộc vận động tranh cử vào hội đồng quản hạt Nam Kỳ, cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ của quần chúng. Tác phẩm Nội các Trần Trọng Kim - Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử của Phạm Hồng Tung [184] đề cập đến sự ra đời, hoạt động, tổ chức của hai tổ chức hoạt động công khai là Thanh niên Tiền Phong ở Sài Gòn và Trường Thanh niên Tiền Tuyến ở Huế. Hai tổ chức này gắn liền với tên tuổi của những trí thức đã đứng trong hàng ngũ của Đảng như Phạm Ngọc Thạch, hoặc được “Việt Minh hóa”, trở thành những cán bộ cấp cao của Đảng trong bộ máy chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Cách mạng Tháng Tám như: Luật sư Phan Anh, Giáo sư Tạ Quang Bửu v.v.. Cuốn sách của Trịnh Nhu, Trần Trọng Thơ với nhan đề Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam [130] khắc họa những nét cơ bản hoạt động của phong trào học sinh, sinh viên trong Tổng Hội Sinh viên Đông Dương gắn liền với tên tuổi của Dương Đức Hiền, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, v.v.... Bên cạnh đó, tác phẩm còn dành một dung lượng lớn về quá trình “Việt Minh hóa” của những trí thức trong Trường Thanh niên Tiền tuyến, sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ (Tiền Phong) đối với tổ chức Thanh niên Tiền Phong, đánh giá những đóng góp to lớn của trí thức Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám và trong việc thành lập chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Luận án Các cuộc vận động dân chủ trong quá trình phi thực dân hóa ở Việt Nam, giai đoạn 1904 - 1945 của Nguyễn Thị Thanh Thủy [163] đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc vận động dân chủ ở Việt Nam trong quá trình phi thực dân hóa. Tuy nhiên, bên cạnh việc phân tích, lí giải, đặt các cuộc vận động dân chủ trong phạm vi rộng lớn là cuộc vận động giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng xã hội, tác giả đã phân tích khá cặn kẽ quan điểm, chủ trương
  18. 13 của Đảng trong việc vận động, tập hợp lực lượng của toàn dân tộc, trong đó có trí thức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tác giả cũng khắc họa một bức tranh sinh động về hoạt động của trí thức Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực như văn hóa văn nghệ, báo chí, đấu tranh nghị trường từ năm 1930 đến năm 1939 đến sự ra đời, hoạt động của các tổ chức trí thức trong giai đoạn 1939 - 1945 dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng trong Mặt trận Việt Minh như: phong trào học sinh sinh viên trong Tổng Hội Sinh viên Đông Dương, Đảng Dân chủ Việt Nam, Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Tiền Phong. Tác giả Phạm Thị Huệ trong tác phẩm Phong trào dân tộc dân chủ ở Nam Kỳ 1930 - 1945, nghiên cứu qua tài liệu lưu trữ [69] đã phân tích hoạt động sôi nổi của những trí thức hoạt động trên địa bàn Nam Kỳ từ khi Đảng ra đời (1930) đến khi giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (1945) như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Trần Huy Liệu, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Chính Thắng, Phạm Ngọc Thạch v.v.. Những trí thức trên đã đấu tranh không mệt mỏi cho phong trào dân tộc dân chủ ở Nam Kỳ trên các lĩnh vực từ đấu tranh nghị trường, báo chí công khai, văn học nghệ thuật, đấu tranh cách mạng v.v.. Tác phẩm còn làm sáng tỏ công tác vận động quần chúng, trong đó có CTVĐTT của Đảng thông qua những cuộc đấu tranh đầu tiên ở Nam Kỳ khi Đảng vừa mới thành lập cho đến các cuộc đấu tranh để khôi phục, củng cố tố chức và lực lượng cách mạng trong thời kỳ 1930 - 1945. Sự ra đời, hoạt động của phong trào học sinh, sinh viên trong nhóm Hoàng - Mai - Lưu; phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ của những trí thức có tên tuổi như Đặng Minh Trứ, Lê Văn Huấn, Trần Văn Nguyên, Huỳnh Tấn Phát; tổ chức Thanh niên Tiền Phong cũng được khắc họa rõ nét trong tác phẩm. Ngoài các tác phẩm trên, có thể thể kể tên các công trình, như: Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? của Nguyễn Ngọc Thiện [158]; Lịch sử nhà tù Côn Đảo (1862 - 1975) của Nguyễn Đình Thống, Nguyễn Linh và Hồ Sỹ Hành [159], Luận án Tiến sĩ Lịch sử Phong trào yêu nước của
  19. 14 giáo chức và học sinh, sinh viên Hà Nội từ năm 1888 đến năm 1945 của Lê Thị Thu Hương [74] v.v… Ngoài các công trình trên, những bài viết nghiên cứu về các chiến sĩ cộng sản, những trí thức tên tuổi trong các hồi ký đã được xuất bản cũng là nguồn tư liệu phong phú về CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945. Tiêu biểu là các tác phẩm: Hồi ký Đào Duy Anh (Nhớ nghĩ chiều hôm) của Đào Duy Anh [1]. Tác giả đã dành trọn mục XV để bàn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của trí thức Việt Nam đối với dân tộc và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo. Trên cơ sở phân kỳ lịch sử hình thành, phát triển của trí thức thành hai thời kỳ lớn: thời kỳ phong kiến và thời kỳ hiện đại, tác giả đã lí giải một cách thấu đáo nhiều vấn đề liên quan đến trí thức Việt Nam từ thời Trần đến những năm sau Cách mạng Tháng Tám. Trong tác phẩm, tác giả có những nhận định hết sức sâu sắc về trí thức Việt Nam: trí thức Việt Nam có nguồn nước mạch ngầm chảy bất tận không bao giờ tắt đó chính là ý thức dân tộc, là thái độ, tình cảm, là ý chí tranh đấu, là tinh thần hăng hái đi theo cách mạng và kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng để hướng đến độc lập cho Tổ quốc và sự tự do cho những người cần lao trong xã hội. Hồi ký Thanh Nghị tập 1, quyển 1: Báo Thanh nghị và nhóm Thanh Nghị của Vũ Đình Hòe [64] đã khắc họa một bức tranh toàn cảnh về quá trình ra đời, tổ chức, hoạt động của nhóm Thanh Nghị và báo Thanh Nghị gắn liền với tên tuổi của những trí thức Vũ Đình Hòe, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Hoàng Thúc Tấn, Lê Huy Vân. Đặc biệt, tập Hồi ký này liên tục được tái bản nhiều lần vào các năm 1977, 2000, 2004 và có những bổ sung quan trọng. Trong hồi ký, một số bài viết của các tác giả nước ngoài như P. Brocheux, Stein Tonnesson nhận định, đánh giá về những gương mặt trí thức Việt Nam và đóng góp của họ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng được sưu tầm đưa vào tác phẩm. Ngoài ra, còn phải kể đến các hồi ký như: Trường Chinh một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam [23], Hồi ký Trần Huy
  20. 15 Liệu của Viện Sử học do Phạm Như Thơm sưu tầm, chỉnh lí [198], Hồi ký Trần Văn Giàu 1940 - 1945 của Trần Văn Giàu [52] v.v.. Những công trình trên đây đề cập đến những gương mặt trí thức cụ thể, những hoạt động, tổ chức của trí thức có vai trò quan trọng trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945 và CTVĐTT của Đảng trong thời gian này. Trên các tạp chí khoa học và lý luận như: Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử v.v.. xuất hiện nhiều bài nghiên cứu về trí thức Việt Nam, những bài viết có nội dung liên quan đề cập trực tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, đề cập đến CTVĐTT của Đảng thời kỳ 1930 -1945 của nhiều tác giả, tiêu biểu như: Mấy vấn đề về trí thức trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn Khánh Bật [15], Bài học từ quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức của Phan Thanh Khôi [92] , Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Nguyễn Văn Khánh [80], v.v... Tuy nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tạp chí, các bài viết chủ yếu nghiên cứu một số khía cạnh thuộc về quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, một số hoạt động của trí thức trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong Cách mạng Tháng Tám 1945. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu lịch sử về trí thức có đề cập đến trí thức và công tác vận động trí thức của Đảng thời kỳ 1930 - 1945 Trong thời gian gần đây, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu lịch sử ở cả trong và ngoài nước về trí thức, tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, vai trò của trí thức trong lịch sử Việt Nam, các tổ chức trí thức, các nhân vật trí thức v.v… trong đó có đề cập đến những quan điểm, đến CTVĐTT của Đảng trong thời kỳ 1930 - 1945. Có thể kể đến một số công trình sau: Trong tác phẩm The Rise of Nationalism in Vietnam 1900 - 1941(Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam 1900 - 1941), tác giả William J. Duiker [208] trong khi đề cập đến những trí thức Pháp tham gia giảng dạy tại các trường
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2