intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Sinh học: Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ ở khu vực Vườn Quốc gia Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp khai thác và phát triển bền vững

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

95
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án: Nghiên cứu thành phần loài và giá trị của LSNG; hiện trạng khai thác, quản lý LSNG ở VQG Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp cho bảo tồn, khai thác và phát triển bền vững tài nguyên LSNG.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Sinh học: Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ ở khu vực Vườn Quốc gia Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp khai thác và phát triển bền vững

  1. a BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT ĐÀO THỊ MINH CHÂU TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ SINH HỌC NGHIÊN CỨU LÂM SẢN NGOÀI GỖ Ở KHU VỰC VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT NHẰM ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Chuyên ngành: Thực vật học Mã số: 62 42 01 11 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Minh Hợi PGS.TS. Trần Huy Thái Hà Nội – 2016
  2. b Luận án được hoàn thành tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Trần Minh Hợi 2. PGS. TS. Trần Huy Thái Người phản biện 1: PGS. TS. Trần Thế Bách Người phản biện 2: PGS.TS. Trần Đình Thắng Người phản biện 3: PGS. TS. Nguyễn Trung Thành Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Viện; họp tại Hội trường tầng 6 - Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Vào hồi 8 giờ 30 phút, ngày 2 tháng 3 năm 2016. Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật.
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Hiện nay, việc thống kê các loài Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) chưa được thực hiện đầy đủ, việc khai thác và buôn bán LSNG chưa được quản lý chặt chẽ, các loại LSNG bị khai thác tự do trong thiên nhiên, thị trường buôn bán tự phát, lượng lớn LSNG xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc ở dạng nguyên liệu thô, các địa phương ít quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển những loài LSNG giá trị... Tất cả những vấn đề trên đã làm nguồn tài nguyên LSNG ở nhiều vùng miền núi ngày càng cạn kiệt, làm mức độ phụ thuộc vào rừng của người dân địa phương sống trong các Vườn Quốc gia (VQG) và các Khu bảo tồn (KBT) ngày càng lớn, tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, cơ hội cải thiện đời sống, phát triển kinh tế ở các vùng miền núi càng hiếm hoi và khó khăn hơn. Ngoài giá trị kinh tế, LSNG còn một giá trị khác cũng rất quan trọng, đó là giá trị về mặt sinh thái. Khai thác gỗ sẽ gây tổn hại lớn đến cấu trúc của rừng, trong khi đó, sự thu hái LSNG sẽ không hoặc ít làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái rừng, mà còn mang lại thu nhập thường xuyên hơn cho người dân sống gần rừng. Từ khi VQG Pù Mát được thành lập, gỗ và động vật hoang dã được quản lý chặt chẽ hơn nên người dân địa phương tập trung vào khai thác LSNG, các loại cây thuốc, song mây, mật ong, hương liệu,... bị khai thác ngày càng nhiều để bán cho thương lái đưa sang Trung Quốc. Khai thác liên tục nhiều năm khiến LSNG trong rừng ngày càng cạn kiệt. Đề tài “Nghiên cứu lâm sản ngoài gỗ ở khu vực VQG Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp khai thác và phát triển bền vững” được thực hiện nhằm đánh giá tài nguyên LSNG và đề xuất các biện pháp bảo tồn, phát triển LSNG ở vùng miền Tây Nghệ An. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án Nghiên cứu thành phần loài và giá trị của LSNG; hiện trạng khai thác, quản lý LSNG ở VQG Pù Mát nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp cho bảo tồn, khai thác và phát triển bền vững tài nguyên LSNG. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án Ở vùng miền núi Tây Nghệ An nói chung và VQG Pù Mát nói riêng chưa có nghiên cứu thống kê các loài LSNG theo 6 nhóm như tài liệu Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam; chưa có đánh giá các tác động của hoạt động khai thác, buôn bán và quản lý lên tài nguyên LSNG; chưa thống kê các loài có giá trị, các loài nguy cấp, các loài có khả năng phát triển,... để có kế hoạch bảo tồn và phát triển trong vùng nghiên cứu. Nghiên cứu này sẽ thực hiện các nhiệm vụ trên để góp phần thực hiện “Đề án phát triển kinh tế xã hội miền Tây Nghệ An” đã được Chính phủ phê duyệt tháng 12/2013 và "Đề án quốc gia về Bảo tồn và phát triển LSNG, giai đoạn 2006 - 2020".
  4. 2 Từ danh lục các loài LSNG, 3 loài trong họ Gừng (Zingiberacae) của VQG Pù Mát được lựa chọn và lần đầu được nghiên cứu về thành phần hóa học của tinh dầu. 4. Những điểm mới của đề tài luận án  Lần đầu tiên các loài thực vật bậc cao có mạch ở khu vực VQG Pù Mát được thống kê, lập danh lục theo các nhóm Lâm sản ngoài gỗ, gồm 1508 loài, thuộc 741 chi, 182 họ trong 6 ngành thực vật bậc cao có mạch; bổ sung 245 loài vào danh lục thực vật làm thuốc và 216 loài cây có ích khác vào danh lục các nhóm LSNG của VQG Pù Mát.  Thành phần hóa học của tinh dầu ba loài trong họ Gừng ở VQG Pù Mát: Etlingera yunnanensis (T.L. Wu & S.J. Chen) R.M. Sm.; Hornstedtia sanhan M. Newman và Siliquamomum tonkinense Baill. lần đầu được nghiên cứu.  Đánh giá về các yếu tố tác động lên tài nguyên LSNG như hiện trạng khai thác, quản lý, buôn bán LSNG, từ đó xác định các vấn đề cần khắc phục để đề xuất các biện pháp bảo tồn và phát triển bền vững LSNG ở Miền tây Nghệ An. 5. Bố cục của luận án Toàn bộ báo cáo luận án gồm 113 trang, trong đó: Mở đầu 3 trang Chương 1. Tổng quan tài liệu 28 trang Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 5 trang Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 75 trang Kết luận và kiến nghị 2 trang Phần đính kèm báo cáo luận án gồm 98 trang Tài liệu tham khảo 6 trang Danh lục các công trình nghiên cứu liên quan 2 trang Phụ lục 1: Danh lục các loài LSNG ở VQG Pù Mát 64 trang Phụ lục 2: Ảnh các loài LSNG quí, hiếm ở VQG Pù Mát 10 trang Phụ lục 3: Sắc ký đồ của tinh dầu các loài nghiên cứu 8 trang Phụ lục 4: Bảng câu hỏi phỏng vấn hộ gia đình 3 trang Phụ lục 5: Bảng gợi ý phỏng vấn bán cấu trúc 5 trang
  5. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. 1. Khái niệm và phân loại Lâm sản ngoài gỗ 1.1.1. Khái niệm Lâm sản ngoài gỗ Hiện nay, trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về Lâm sản ngoài gỗ, khái niệm này không chỉ thay đổi theo tác giả, tổ chức mà còn thay đổi theo thời gian. Theo nhiều nhà khoa học và quản lý lâm nghiệp ở Việt Nam thì dù có nhiều định nghĩa về LSNG, nhưng để phù hợp với các nước trong khu vực, Việt Nam nên sử dụng định nghĩa LSNG đã được thống nhất trong hội nghị các chuyên gia về LSNG của các nước vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Trong hội nghị này, khái niệm LSNG như sau: LSNG bao gồm tất cả các sản phẩm cụ thể, có thể tái tạo, ngoài gỗ củi và than, được khai thác từ rừng, đất rừng hoặc từ các cây thân gỗ. Vì vậy, các sản phẩm như cát, đá, nước, du lịch sinh thái không phải là các LSNG. Từ hội nghị này, nhiều tác giả cũng thống nhất: những lợi ích gián tiếp mà rừng mang lại như củi, than gỗ, và những dịch vụ trong rừng như săn bắn, giải trí, du lịch sinh thái, hấp thụ khí nhà kính, bảo tồn đa dạng sinh học, cải tạo đất,... gọi là dịch vụ môi trường rừng. Cho đến nay vẫn chưa có hệ thống phân loại LSNG thật sự hợp lý và thống nhất, trên thế giới hiện đang tồn tại nhiều cách phân loại LSNG khác nhau. Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, lâm sản được chia thành hai loại: lâm sản chính (gỗ), và “lâm sản phụ” (sản phẩm ngoài gỗ). Từ năm 1961, lâm sản phụ được thay bằng thuật ngữ “đặc sản rừng” và từ cuối thế kỷ XX, cả hai thuật ngữ trên được thay thế bằng một thuật ngữ mới “Lâm sản ngoài gỗ”. 1.1.2. Phân loại Lâm sản ngoài gỗ Có rất nhiều loại LSNG khác nhau đã được điều tra, phát hiện và khai thác sử dụng, chính vì vậy việc phân loại chúng là rất cần thiết. Có nhiều quan điểm khác nhau để phân loại LSNG, như: Phân loại theo hệ thống tài nguyên thực vật, phân loại theo hình dạng thân cây, phân loại theo giá trị sử dụng,... Phân loại LSNG theo nhóm giá trị sử dụng là phân chia các loại LSNG khác nhau không kể về nguồn gốc trong hệ thống sinh, dạng thân, nơi phân bố,... mà những loài có cùng giá trị sử dụng được xếp vào cùng một nhóm. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ áp dụng và dễ nhớ, có thể xác định nhanh trữ lượng từng loại sản phẩm trong một lâm phần; tìm loài thay thế sản phẩm hoặc lựa chọn loài kinh doanh phù hợp cho từng địa phương. Nhưng nhược điểm là chưa chú trọng tới đặc điểm sinh học của các loài nên kỹ năng nhận biết các loài gặp nhiều khó khăn. Một số loài có nhiều công dụng khi phân loại sẽ bị trùng vào nhiều nhóm.
  6. 4 Trong cuốn LSNG Việt Nam xuất bản năm 2007, các tác giả đã chia các LSNG thành 6 nhóm: Nhóm cây có sợi; Nhóm cây làm thực phẩm: Gồm rau, củ và quả; Nhóm cây thuốc; Nhóm cây cho dầu và nhựa: bao gồm tinh dầu, dầu béo, nhựa dầu và nhựa; Nhóm cây cho tanin, thuốc nhuộm; Nhóm cây cảnh, cây hoa và cây bóng mát... Cách phân loại này chỉ mang tính tương đối vì công dụng của lâm sản luôn có sự thay đổi, một số sản phẩm có thể phân vào nhiều nhóm khác nhau tuỳ nơi, tuỳ lúc, không cố định, và biến đổi theo địa phương. 1.2. Tình hình nghiên cứu về LSNG 1.2.1. Tình hình nghiên cứu LSNG trên thế giới LSNG trên thế giới rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là ở các nước nhiệt đới, nơi tập trung sự giàu có của hệ sinh thái, trong đó các nước Đông Nam Á đã nắm giữ một phần năm diện tích rừng nhiệt đới của thế giới. Việc nghiên cứu về LSNG đã và đang là vấn đề được quan tâm chú ý ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở những nước có rừng nhiệt đới. Có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về LSNG từ rất sớm, như các công trình nghiên cứu của Chopra, R. N. và cộng sự (1956) về thực vật làm thuốc ở Ấn Độ. Nghiên cứu của W. L. Ackerman về Crataegus sp. hay của Akhtar Husain và các cộng sự về các cây có chứa tinh dầu ở Ấn Độ. Giai đoạn1990s cũng đã có nhiều nghiên cứu về tinh dầu như của D. J. Charles, J. E.Simon, M. P.Widrlechner, N. K Singl. Ở khu vực Đông Nam Á cũng đã có rất nhiều công trình của các tác giả về LSNG từ thập kỷ 1990 đăng trong “Tài nguyên thực vật Đông Nam Á”, như các tác giả: R. C. K. Chung & Purwaningsh, C. C. De Guzman & R. A. Reglos, Diah Sulistiarini, M. Flach & F. Rumawas, M. Flash & J. S. Siemonsma, ... Những nghiên cứu này đã quan tâm nhiều đến các loài cây cho tinh dầu, dầu béo, cây làm thuốc, các loài phong lan và các loài cây cho sợi như song, mây, tre, nứa. Ngoài ra còn có nhiều công trình lớn nghiên cứu về LSNG của các nhóm tác giả như: H. de Beer Jenne và cộng sự (1989), Virgilio de La Cruz và cộng sự (1989), Nepstad và cộng sự (1992), French và cộng sự (1996), Brockhoven (1996), Leakey và cộng sự (1996), Taylor (1996), Vorhies (1997), Wollenberg và cộng sự (1998), Agarwal (1999)... và FAO đã tổ chức rất nhiều hoạt động thúc đẩy nghiên cứu và chia sẻ thông tin về LSNG liên tục từ năm 1991 đến nay. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu về LSNG ở Việt Nam Nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ ở nước ta rất phong phú và đa dạng, có nhiều loài có giá trị cao, số loài cây làm thuốc chiếm tới 22% tổng số loài thực vật Việt Nam, có khoảng trên 600 loài cây cho tinh dầu, gần 600 loài cho tanin, nhiều loài khác cho dầu béo, nhựa, cây cảnh, hoa cảnh,.... Bên cạnh đó, còn có khoảng 0,789 triệu ha rừng tre nứa tự nhiên, 0,702 triệu ha rừng tre xen gỗ và 73.516ha rừng
  7. 5 tre nứa trồng với trên 4 tỷ cây, Thông nhựa có 194.721ha, Quế có 61.820ha, Hồi có 14.133ha. Ở nước ta, nghiên cứu về LSNG được bắt đầu từ khi người Pháp thiết lập được chính quyền thực dân ở Đông Dương. Sau khi Kháng chiến chống Pháp năm 1954, Bộ Nông - Lâm và trường Đại học Nông Lâm đã có nhiều nghiên cứu về LSNG, trong đó có “Lâm sản phụ” của Lê văn Giai (1956), “Trích nhựa thông” của Đào Xuân Mai (1958),... các nghiên cứu gây trồng Cánh kiến đỏ, Cánh kiến trắng, cây thuốc, công nghệ chế biến, gia công Cánh kiến đỏ, chế biến nhựa Thông... Từ cuối những năm 1990, LSNG được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn ở nước ta nhờ giá trị và tiềm năng to lớn của nó. Trong các loại LSNG, dược liệu là đối tượng được nghiên cứu nhiều nhất, có nhiều công trình lớn về cây thuốc, đóng góp lớn cho y học quốc gia và quốc tế. Các nghiên cứu về LSNG khác còn rời rạc, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, chưa tương xứng với tiềm năng của LSNG ở nước ta. Dù vậy, vẫn có một số công trình có ý nghĩa như: “Tài nguyên thực vật chứa tinh dầu ở Việt Nam” của Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001, 2002), "1900 loài cây có ích ở Việt Nam” của Trần Đình Lý và nnk (1993), về “Tài nguyên tre Việt Nam” của Nguyễn Tử Ưởng và nnk (1995), về “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” của Võ Văn Chi và Trần Hợp,... 1.2.3. Các nghiên cứu về LSNG tại vùng Miền Tây Nghệ An Ở vùng miền tây Nghệ An, có khá nhiều nghiên cứu về cây thuốc và cách sử dụng cây thuốc chữa bệnh, một số nghiên cứu về đa dạng thực vật và các cây có tích, có một vài nghiên cứu khác về LSNG ở qui mô nhỏ. Thống kê từ các nghiên cứu đã công bố cho thấy, có 1509 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 182 họ là cây có ích. Trong đó, cây thuốc có 1105 loài, cây lấy gỗ có 426 loài, cây ăn được có 367 loài. 1.3. Giá trị của Lâm sản ngoài gỗ Theo FAO (1997), 80% dân số của các nước đang phát triển sử dụng LSNG để đáp ứng cho các như cầu sức khỏe và dinh dưỡng, ít nhất 30 triệu người ở các nước Đông Nam Á sống chủ yếu dựa vào các LSNG từ rừng tự nhiên. Hiện nay, LSNG được quan tâm và nghiên cứu rất nhiều ở những nước này, nơi mà chúng được đánh giá là có giá trị cao hơn gỗ, đặc biệt là ở các nước như Inđônêxia, Thái Lan, Philipine, Malaixia... Bên cạnh đó, các nước như Hồng Kông, Singapo, Đài Loan... không có nhiều tài nguyên LSNG nhưng họ đã thu lợi rất nhiều nhờ việc chế biến LSNG. LSNG còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng và mang lại công ăn việc làm cho hàng triệu người dân nông thôn, miền núi. Nhưng cho tới nay, LSNG vẫn chưa phát huy được tiềm năng to lớn của nó, chưa đóng góp ý nghĩa và xứng đáng cho sự phát triển kinh tế xã hội của các địa phương cũng như
  8. 6 của cả quốc gia. Theo đề án phát triển lâm nghiệp Việt Nam 2006-2020, định hướng phát triển LSNG của Việt Nam đến năm 2020, LSNG trở thành một trong những ngành hàng sản xuất chính, chiếm trên 20% tổng giá trị sản xuất lâm nghiệp, giá trị LSNG xuất khẩu tăng bình quân 15-20%, thu hút khoảng 1,5 triệu lao động, thu nhập từ LSNG chiếm 15-20% trong kinh tế hộ gia đình nông thôn. Bên cạnh đó, LSNG còn mang lại cho người dân nguồn thu nhập thường xuyên hơn, ít đầu tư, ngắn ngày... dễ dàng để người dân các vùng miền núi nghèo có thể có cơ hội để phát triển và khai thác tốt các loại sản phẩm này. Đây cũng có thể là một hình thức làm kinh tế để người dân địa phương "lấy ngắn nuôi dài" khi họ đầu tư vào trồng rừng hoặc trồng cây lâu năm. 1.4. Một số đặc điểm của các chi lựa chọn nghiên cứu tinh dầu trong họ Gừng 1.4.1. Đặc điểm nhận biết các chi lựa chọn nghiên cứu tinh dầu Chi: Etlingera Giseke – Ét ling: Cây to cao khoảng 4-5m. Cụm hoa mọc từ thân rễ, dạng bông hay đầu, xếp theo vòng cầu đồng tâm trên một đế phẳng, thường có vài hoa nở đồng thời xòe ra. Cánh môi dạng lưỡi dài. Thường sống ở ven rừng, ven suối, sườn đồi nơi ẩm. Trên thế giới có khoảng 70 loài, Việt Nam có 5 loài. Chi: Hornstedtia Retz. – Giả sa nhân: Cây thảo cao 1-2(4)m. Cụm hoa mọc từ thân rễ, gần gốc thân giả, hình trứng hay thoi, cuống cụm hoa ngắn. Các lá bắc xếp lợp, những lá bắc ở dưới và ngoài cùng dày, bất thụ, mầu đỏ, lá bắc hữu thụ ở phía trên, chứa 1 hoa. Quả nang gần hình cầu, gần như 3 góc, nhẵn, mở đến gần gốc. Mọc nơi đất ẩm, ven đường mòn, ven suối, bờ đá ẩm. Việt Nam có 1 loài. Chi: Siliquamomum Baill. – Sa nhân giác: Cây thảo cao 1-2m. Cụm hoa chùm, trên ngọn thân có lá, hoa thưa. Hoa đẹp có cuống dài, gần đầu có khớp. Quả nang dài dạng quả cải, dài gấp nhiều lần rộng. Thường mọc ở các sườn núi ẩm ở độ cao 800-1500m. Trên thế giới có 2 loài, Việt Nam mới phát hiện 1 loài.. 1.4.2. Các nghiên cứu về tinh dầu trong một số đại diện của họ Gừng Các thành phần chính của tinh dầu thân, lá, rễ, thân rễ, hoa, vỏ quả và hạt) của 5 loài riềng trong nghiên cứu của Trịnh Đình Chính (1995) gồm: zerumbon, các monoterpen như α–pinen, β-pinen, một số monoterpen alcohol, sesquiterpen hoặc dẫn xuất của chúng. Trên Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều nghiên cứu về tinh dầu của các loài trong họ Gừng được công bố, như của Đặng Văn Hoài, Olivier Duval, Pascal Richomme, Marie Lavault, Nguyễn Thị Hữu, Trần Công Luận, Nguyễn Thị Phương Thảo, Trần Thu Hoa,... cho thấy, thành phần tinh dầu trong dịch chiết củ các loài họ Gừng có cấu trúc 3,5-dihydroxy-1,7-bis(4- hydroxyphenyl) heptane và những dẫn chất của chúng có hoạt tính kháng ung thư. Ở cả Việt Nam và trên thế giới, các nghiên cứu về tinh dầu của các loài trong chi Etling (Etlingera Giseke), chi Giả sa nhân (Hornstedtia Retz.) và chi Sa nhân giác (Siliquamomum Baill.) đều còn ít. Với chi Siliquamomum Baill. mới chỉ có
  9. 7 nghiên cứu về tinh dầu của B.V.Thanh và N.Q. Bình về thành phần hóa học tinh dầu thân của Siliquamomum tonkinense thu tại VQG Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Thân của loài này chứa 0,37% tinh dầu (hàm lượng khô), với 42 hợp chất từ tinh dầu thân (chiếm 96,18%). Các thành phần chính là: 1,8 cineol (31,78%), E,E- farnesol (10,62%), Myrtenal (8,10%), Borneol (6,64%), β-pinen (5,21%), γ- terpinen (4,82%), o-cymen (3,89%), 7-epi-α-selinen (2,20%), α-terpineol (2,14%). Với chi Etlingera, đã có một vài nghiên cứu từ Malaysia và Trung Quốc về thành phần tinh dầu và khả năng kháng khuẩn của chúng ở của năm loài trong chi Etlingera thu từ Borneo. 1.5. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng nghiên cứu Vườn Quốc Gia Pù Mát nằm gọn trong dải Truờng Sơn Bắc, ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, trên độ cao khoảng từ 100 đến 1.841m, trong đó khu vực có độ cao lớn nhất tạo nên dải núi chính, nằm ở phía Nam VQG, hình thành đường biên giới dài 61,5 km giữa Việt Nam và Lào. Địa hình nhìn chung là dốc, thổ nhưỡng khô cằn và có rất ít vùng bằng phẳng, đáy thung lũng là 4 con sông lớn Khe Thơi, khe Bu, Khe Choang và Khe Khặng, thường có lũ bất thường và có thể cạn khô vào mùa kiệt. Có một số vùng đất thấp bên bờ Khe Thơi và Khe Khặng nên thường có dân cư tập trung, thậm chí cả trong vùng lõi. VQG Pù Mát nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc và Tây Nam. Các yếu tố khí hậu mang tính chất phân cực mạnh, hình thành hai mùa rõ rệt. VQG Pù Mát hiện đang lưu giữ một diện tích rừng rất lớn, lớn nhất miền Bắc nước ta so với các khu rừng đặc dụng khác, với diện tích vùng lõi là 94.804.4ha (trong đó rừng giàu chiếm 20.716ha và rừng trung bình chiếm 24.650ha); vùng đệm có diện tích khoảng 86.000 ha, trải rộng trên lâm phần 3 huyện miền núi (Anh Sơn, Con Cuông và Tương Dương), trong đó 94% diện tích đang còn rừng che phủ và khoảng 22% là rừng nguyên sinh. Diện tích rừng vùng lõi - còn gọi là phần rừng đặc dụng - do Vườn quốc gia quản lý; phần diện tích vùng đệm do công ty lâm nghiệp, chính quyền một số xã và người dân quản lý. Diện tích này nằm giáp ranh với rừng đặc dụng, gần các vùng dân cư nên đây cũng là nơi chịu sự tác động mạnh mẽ của người dân địa phương. Tổng số loài thực vật bậc cao có mạch đã thống kê được là 2494, thuộc 931 chi của 202 họ (có số loài thực vật lớn nhất trong các VQG hiện nay ở Việt Nam). Hiện nay, trong vùng đệm VQG Pù Mát đang có rất nhiều dân cư sinh sống, gồm 16 xã, 111 thôn bản, trên 17.000 hộ dân với khoảng 93.500 người [10], tốc độ gia tăng dân số 2,6% mỗi năm, đa số dân cư hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong khi đó diện tích đất canh tác ngày càng hạn chế do sự nghèo kiệt nhanh chóng của các vùng đất dốc, do biến đổi khí hậu, hạn hán và thiếu nước canh tác.
  10. 8 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loài LSNG có nguồn gốc từ thực vật bậc cao có mạch phân chia thành 6 nhóm theo của tài liệu “Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam”, 2004. 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu Vùng nghiên cứu được chọn là vùng lõi và vùng đệm của VQG Pù Mát, tỉnh Nghệ An. 2. 2. Nội dung nghiên cứu 1. Lập danh lục, đánh giá sự đa dạng của LSNG ở khu vực VQG Pù Mát; 2. Lựa chọn 3 loài trong họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Pù Mát để nghiên cứu về thành phần tinh dầu. 3. Đánh giá hiện trạng khai thác, buôn bán và quản lý LSNG ở VQG Pù Mát; Xác định các vấn đề trong khai thác, sử dụng, quản lý và bảo tồn các loài LSNG. 4. Xác định các loài quí, hiếm, cần bảo vệ, chịu sức ép lớn của việc khai thác và sử dụng, các loài có giá trị, có thể gây trồng, phát triển. 5. Đề xuất các biện pháp khai thác, sử dụng và quản lý LSNG bền vững ở khu vực miền Tây Nghệ An. 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Phương pháp kế thừa Thống kê các kết quả nghiên cứu đã có tại vùng nghiên cứu về các loài LSNG, tình hình khai thác, sử dụng và quản lý. Các kết quả kế thừa được thống kế trong Phụ lục 1, các mẫu thực vật còn lưu tại Bảo tàng thực vật - VQG Pù Mát và Phòng thí nghiệm thực vật – Khoa Sinh học – Trường Đại học Vinh. 2.3.2. Phương pháp thu thập số liệu Điều tra thực địa và thu thập các mẫu thực vật LSNG theo 5 tuyến chính: tuyến Tuyến Cao Vều; Tuyến Lục Dạ - Môn Sơn; Tuyến Khe Kèm; Tuyến Khe Bu; Tuyến Khe Thơi; theo phương pháp của Nguyễn Nghĩa Thìn, 2000. Tổng số 585 mẫu của 496 loài đã được thu và làm tiêu bản. Các phương pháp phỏng vấn và đánh giá xã hội dùng để thu thập số liệu về kinh tê, xã hội, thu nhập và tác động của sự khai thác, quản lý, buôn bán lên LSNG. 240 hộ gia đình, 20 cán bộ và 15 người thu mua LSNG đã được phỏng vấn.
  11. 9 2.3.3. Phương pháp phân loại và xác định loài Định loại theo tài liệu của Nguyễn Tiến Bân, Phạm Hoàng Hộ, Nguyễn Quốc Bình. Chỉnh lý tên khoa học và sắp xếp theo Brumitt, 1992 và Danh lục các loài thực vật Việt Nam. Xác định các loài quí, hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng theo Sách Đỏ Việt Nam và theo Danh lục Đỏ của IUCN. Xây dựng hệ thống phân loại LSNG theo tài liệu “Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam”, 2007. 2.3.4. Phương pháp nghiên cứu thành phần hóa học của tinh dầu a. Phương pháp thu mẫu và chưng cất tinh dầu Mẫu nguyên (lá, thân, hoa, thân rễ) được chưng cất bằng phương pháp lôi cuốn theo hơi nước có hồi lưu, theo tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam. b. Phương pháp định lượng tinh dầu Hàm lượng tinh dầu trong mẫu tươi là tỷ lệ tính bằng % của khối lượng tinh dầu chứa trong mẫu so với khối lượng của mẫu tươi (Theo Dược điển Việt Nam). Công thức tính: Hl(t) (%) = Lượng tinh dầu thu được (gam) x % Khối lượng mẫu chưng cất (g) = N (khối lượng tinh dầu) x 0,9 (tỷ trọng quy ước với tinh dầu nhẹ hơn nước) x 100 M (khối lượng mẫu chưng cất) Sau đó tinh dầu được làm khô bằng Na2SO4 khan, đựng trong các lọ tiêu chuẩn, đậy kín, bảo quan ở 0-5OC trước khi đem phân tích. c. Phương pháp phân tích thành phần hóa học tinh dầu * Sắc ký khí (GC – Gas Chromatography): Được thực hiện trên máy Agilent Technologies HP 6890N Plus gắn vào detector FID của hãng Agilent Technologies, Mỹ. Cột sắc ký HP-5MS có chiều dài 30m, đường kính trong (ID) = 0,25mm, lớp phim mỏng 0,25µm đã được sử dụng. * Sắc ký khí-khối phổ (GC/MS - Gas Chromatography/Mass Spectometry): Việc phân tích được thực hiện trên hệ thống sắc ký – khối phổ liên hợp của hãng Agilent Technologies HP 6890, hệ thống này được lắp với cột tách mao quản và vận hành sắc ký với khí mang là He. Việc xác định các thành phần tinh dầu được thực hiện trên việc xác định các chỉ số RI (Retention Indices), với các tài liệu đồng đẳng của n-alkan (C4–C30), trong điều kiện như nhau của các thử nghiệm, theo các chất chuẩn (Sigma-Aldrich, St. Louis, MO, USA) hoặc các thành phần của tinh dầu đã biết được tìm kiếm trong các thư viện (NIST 08 và Wiley 9th Version) và bằng các so sánh với các dữ liệu của (Adam, 1995; Joulain & Koenig, 1998). 2.3.5. Phương pháp phân tích và thống kê số liệu Số liệu được thống kê và phân tích trên phần mềm Excel.
  12. 10 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Sự đa dạng của LSNG ở VQG Pù Mát 3.1.1. Đa dạng về các taxon phân loại Qua quá trình điều tra, nghiên cứu đã xác định và thống kê được 1508 loài thực vật bậc cao có mạch là LSNG thuộc 741 chi, 182 họ của 6 ngành, chiếm 60,46% tổng số loài thực vật của khu vực VQG Pù Mát (Bảng 3.1). Trong đó, kế thừa 1142 loài từ các nghiên cứu trước và bổ sung 366 loài với 245 lượt loài cây làm thuốc và 216 lượt loài LSNG khác. Bảng 3.1. Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài LSNG ở VQG Pù Mát Họ Chi Loài Số Số Số Ngành lượng % lượng % lượng % Psilotophyta 1 0.55 1 0.13 1 0.07 Lycopodiophyta 2 1.65 3 0.40 12 0.80 Equisetophyta 1 0.55 1 0.13 1 0.07 Polypodiophyta 22 12.09 35 4.72 58 3.85 Pinophyta 7 3.85 10 1.35 15 0.99 Magnol- Magnoliopsida 120 65.38 567 76.52 1182 78.38 iophyta Liliopsida 29 15.93 124 16.73 239 15.85 Tổng 149 81.32 691 93.25 1421 94.23 Tổng cộng 182 100 741 100 1508 100 Hầu hết các loài LSNG tập trung ở ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), chiếm 94,23% tổng số loài; 93,25% tổng số chi và 81,32% tổng số họ. Trong 182 loài có 10 họ giàu loài cho LSNG nhất, đó là: Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Lan (Orchidaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), Họ Lúa (Poaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), họ Vang (Caesalpiniaceae); 10 loài này có tới 533 loài, chiếm 35,35% tổng số loài LSNG ở VQG Pù Mát. 10 chi giàu loài cho LSNG nhất gồm: chi Sung (Ficus), chi Sồi (Lithocarpus), chi Trọng đũa (Ardisia), chi Khúc khắc (Smilax), chi Dẻ gai (Castanopsis), chi Củ nâu (Dioscorea), chi Móng bò (Bauhinia), chi Bời lời (Litsea), chi Trâm (Syzygium), chi Thị (Diospyros). Hầu hết các loài trong các họ và các chi này được khai thác để làm thuốc và để ăn. Theo kết quả điều tra về khai thác và sử dụng LSNG, đã thống kê được 848 loài mà người dân khai thác để sử dụng và để bán, chiếm 56,23% tổng số loài cây LSNG ở khu vực VQG Pù Mát. Số loài chủ yếu thuộc về ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), chiếm 87,14% tổng số loài, trong đó lớp Ngọc lan chiếm phần
  13. 11 lớn (77%). Các họ có số loài được khai thác nhiều nhất cũng gồm họ Đậu (Fabaceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Cà phê (Rubiaceae) và họ Cúc (Asteraceae). 5.1.2. Đa dạng về phân bố, dạng thân và bộ phận sử dụng. Các sinh cảnh sống của các loài LSNG ở khu vực VQG Pù Mát được chia thành 5 nhóm. Sinh cảnh sống phổ biến nhất của các loài LSNG ở VQG Pù Mát là rừng (53%), tiếp đến là đồi núi đá (22%), các sinh cảnh khác như nương rẫy, ven đường và vườn, ven khe suối đều chiếm tỷ lệ từ 7 đến 9%. Về dạng thân, các cây thân gỗ và thân thảo chiếm tỷ lệ lớn nhất (32 và 30%), tiếp đến là các cây thân leo (19%) và thân bụi (17%), 2% là dạng thân bì sinh và ký sinh. Trong thực tế, từ 848 loài cây LSNG đã được khai thác ở VQG Pù Mát, nhiều bộ phận khác nhau được người dân được sử dụng, trong đó bộ phận được thu hái phổ biến nhất là lá và ngọn (465 loài), tiếp đến là toàn cây (320 loài), rễ (258 loài), thân (205 loài), vỏ (166 loài) và quả (157 loài). 3.2. Các nhóm LSNG ở VQG Pù Mát 3.2.1. Các nhóm LSNG phân theo mục đích sử dụng Mục đích sử dụng LSNG của người dân địa phương rất đa dạng, bao gồm: làm lương thực, thực phẩm, gia vị, dệt vải, nhuộm sợi, nhuộm răng, chăn nuôi, thuộc da, bện sừng, làm dây buộc, làm lưới, làm công cụ lao động, dựng nhà, làm đồ dùng trong gia đình, chữa bệnh cho con người và vật nuôi, bồi bổ sức khỏe, làm đồ chơi, diệt côn trùng, ký sinh trùng, làm mồi đánh bắt cá, săn thú vật,... Sự phân bố của 1508 loài LSNG có trong khu vực VQG Pù Mát theo 6 nhóm công dụng như trong bảng 3.6. Trong thực tế thì có nhiều loài có nhiều công dụng. Vì thế tổng số lượt loài xuất hiện trong các nhóm công dụng ở bảng 3.6 lên tới 2161 lượt. Bảng 3.6. Phân bố của các loài LSNG ở khu vực VQG Pù Mát theo công dụng TT Công dụng Số loài Tỷ lệ (%) 1 Nhóm cây cho sợi 99 6,56 2 Nhóm cây cho thực phẩm 366 24,27 3 Nhóm cây cho thuốc 1192 79,05 4 Nhóm cây cho dầu và nhựa 136 9,02 5 Nhóm cây tanin, thuốc nhuộm 68 4,51 6 Nhóm cây cảnh và công dụng khác 300 19,89 2161 lượt/ Tổng 1508 loài 143,30
  14. 12 Trong thực tế, khi tìm hiểu về việc khai thác và sử dụng 848 loài cây LSNG vào các mục đích sử dụng khác nhau, đã thống kê được 1406 lượt loài được khai thác để sử dụng cho 6 nhóm mục đích khác nhau. Trong đó, nhóm cây được các ông lang, bà mế ở các địa phương sử dụng để làm thuốc chữa bệnh cho người và vật nuôi tại địa phương là nhiều loài nhất, tới 738 loài, chiếm 87% số lượt loài LSNG được khai thác, tiếp đến là nhóm cây cảnh và cây khác (127 lượt loài), nhóm cây ăn được (93 lượt loài), nhóm cây nhựa, dầu (92 lượt loài), nhóm cây cho sợi (55 lượt loài) và nhóm cây cho tanin, thuốc nhuộm (46 lượt loài). 3.2.1.1. Nhóm cây cho sợi Trong tổng số 1508 loài cây cho LSNG ở VQG Pù Mát có 99 loài cây cho sợi, chiếm 6,65%. Nhóm này bao gồm các loài song, mây, tre, nứa, mét, dây buộc, sợi dệt vải, đan lưới, bện thừng, bột làm giấy,… tuy số loài ít nhưng được khai thác thường xuyên và nhu cầu thị trường khá lớn, đặc biệt là thị trường nguyên liệu mây tre đan xuất khẩu. Do quá trình khai thác quá mức và thiếu kế hoạch nên nhiều loài cạn kiệt trong tự nhiên, ví dụ như: Song mật (Calamus platyacanthus), Song bột (Calamus poilanei) Mây nếp (Calamus tetradactylus), Bời lời nhớt (Litsea glutinosa),… Bảng 3.8: Sự phân bố số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài cây cho sợi ở VQG Pù Mát Họ Chi Loài Ngành Số % Số % Số % lượng lượng lượng Polypodiophyta 2 8,33 2 3,70 2 2,02 Pinophyta 1 4,17 2 3,70 2 2,02 Magnol Magnoliopsida 16 66,67 27 50,00 42 42,42 -iophyta Liliopsida 5 20,83 23 42,59 53 53,54 Tổng 21 87,50 50 92,59 95 95,96 Tổng cộng 24 100 54 100 99 100 Bảng 3.8 trình bày sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây lấy sợi ở khu vực VQG Pù Mát. Hầu hết các loài cây lấy sợi đều thuộc ngành Ngọc lan (chiếm 95,96%). Trên 53% tổng số loài cây lấy sợi thuộc lớp Loa kèn (Liliopsida) của ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), tập trung chủ yếu trong 3 họ, đó là Họ Cau – Arecaceae; Họ Cói – Cyperaceae; Họ Lúa – Poaceae. 3.2.1.2. Nhóm cây làm thực phẩm Nhóm cây cho thực phẩm có số lượng loài khá lớn (366 loài), chiếm tỷ lệ 24,27% tổng số loài LSNG ở VQG Pù Mát. Các taxon phân loại, các bộ phận thu hái và nơi sống, dạng thân của các loài cây ăn được rất đa dạng. Bảng 3.9 trình bày sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây thực phẩm ở VQG Pù Mát.
  15. 13 Nơi sống của các loài cho thực phẩm rất đa dạng, ở tất cả các sinh cảnh đều xuất hiện, nhưng phổ biến nhất vẫn là rừng, chiếm 45%; tiếp đến là đồi núi, chiếm 21% và ven khe, suối, chiếm 19% tổng số loài ăn được. Bảng 3.9: Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của các cây ăn được Họ Chi Loài Ngành SL % SL % SL % Equisetophyta 1 1.32 1 0.42 1 0.27 Polypodiophyta 5 6.58 5 2.12 6 1.64 Magnoli Magnoliopsida 58 76.32 189 80.08 299 81.69 -ophyta Liliopsida 12 15.79 35 14.83 60 16.39 Tổng 70 92.11 228 94.92 98.09 Tổng cộng 76 100 236 100 366 100 Theo dạng thân, các cây ăn được là cây thân gỗ chiếm đến 43%, những loài này thường cho các loại quả, hoa, hạt, lá, rễ… có thể ăn được, có đến 89 loại quả được người dân thu hái từ rừng để ăn và để bán. Tiếp theo là nhóm cây thân thảo, chiếm tỷ lệ 27%, lá, củ, hoa, quả hoặc cả thân của chúng thường để làm rau. Các loài cây thân leo chiếm 21%. Bộ phận được thu hái làm thực phẩm nhiều nhất là lá và ngọn (tới 148 lượt), tiếp đến là quả (122 lượt), còn búp, mầm, thân, củ, toàn cây, hoa, hạt đều chiếm số lượng không nhiều, từ 8 – 32 lượt loài. 3.2.1.3. Nhóm cây làm thuốc Bảng 3.10 Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây làm thuốc ở khu vực VQG Pù Mát Họ Chi Loài Ngành Số Số Số lượng % lượng % lượng % Psilotophyta 1 0,63 1 0,19 1 0,08 Lycopodiophyta 2 1,25 3 0,56 6 0,50 Equisetophyta 1 0,63 1 0,19 1 0,08 Polypodiophyta 21 13,13 30 5,59 55 4,61 Pinophyta 4 2,50 5 0,93 6 0,50 Magnol Magnoliopsida 103 64,38 422 78,58 975 81,80 -iophyta Liliopsida 28 17,50 75 13,97 148 12,42 Tổng 131 81,88 497 92,55 1123 94,21 Tổng cộng 160 100,00 537 100,00 1192 100,00
  16. 14 Nhóm cây làm thuốc là nhóm có số loài lớn nhất trong 6 nhóm LSNG đã thống kê ở bảng 3.2, có tới 1192 loài, chiếm 79,05 % tổng số loài cây LSNG thống kê được của khu vực VQG Pù Mát. Chúng phân bố trong 6 ngành, 160 họ, 537 chi thực vật bậc cao có mạch của VQG Pù Mát. Trong đó số loài, chi, họ tập trung chủ yếu trong lớp Ngọc lan (Magnoliopsida), chiếm 81,8 % tổng số loài; 78,58% tổng số chi và 64,38% tổng số họ. Những họ có trên 20 loài cây làm thuốc gồm: Họ Đậu (Fabaceae), họ Cúc (Asteraceae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Phong lan (Orchidaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Long não (Lauraceae), họ Cam (Rutaceae), họ Bạc hà (Lamiaceae) và họ Gừng (Zingiberaceae). Nơi sống của các loài cây làm thuốc khá đa dạng, chúng có mặt ở tất cả các sinh cảnh, nhưng số loài sống ở rừng chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), tiếp đến là đồi núi (22%). Các sinh cảnh còn lại đều là nơi sống của 8-11% của tổng số loài. Dạng thân của các loài cây cho dược liệu khá đa dạng, tỷ lệ các loài dạng thân thảo chiếm 32%, dạng thân gỗ chiếm 28%, thân leo chiếm 20% và dạng thân bụi chiếm 19%, dạng thân bì sinh, ký sinh chỉ chiếm 1%. Thu hái lá và ngọn để làm thuốc là phổ biến nhất, chiếm đến 421 lượt loài, tiếp đến là rễ (328 lượt loài) và thu hái toàn cây lên đến 212 lượt loài và thu hái thân đến 153 lượt loài. Việc thu hái cả cây, thân và rễ thường làm giảm cơ hội tái sinh và phát triển của các loài dược liệu, cần có kế hoạch và phương pháp bền vững. 3.2.1.4. Nhóm cây cho tanin, thuốc nhuộm Nhóm cây cho tanin, thuốc nhuộm gồm 68 loài, chiếm 4,51% tổng số loài LSNG của khu vực VQG Pù Mát, thuộc 37 chi, 15 họ của 2 ngành thực vật (ngành Thông và ngành Ngọc lan). Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây chiết xuất được trình bày trong bảng 3.11. Hầu hết các taxon đều thuộc lớp Ngọc lan (Magnoliopsida), chiếm 97,06% tổng số loài; 94,6% tổng số chi và 93,33% tổng số họ. Những họ có khá nhiều loài cho tanin là: Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae). Bảng 3.11: Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây tanin, thuốc nhuộm ở VQG Pù Mát Họ Chi Loài Số Số Số Ngành loài % loài % loài % Pinophyta 1 6,67 2 5,4 3 4,41 Magnoli Magnoliopsida 14 93,33 35 94,6 65 95,59 -ophyta Liliopsida 0 0 0 0 0 Tổng cộng 15 100.0 37 100.0 68 100.0
  17. 15 Phần lớn các loài của nhóm này phân bố ở rừng (70%), tiếp đến là đồi núi (12%) và vườn (8%). Dù chỉ có 68 loài của nhóm này nhưng có tới 6 loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (2007). Phần lớn các cây nhóm này ở dạng thân gỗ (chiếm 68%), các cây thân thảo, thân leo và bụi chỉ đều chiếm từ 9-13% tổng số loài. Các chất nhuộm và tanin chủ yếu được lấy từ vỏ (45loài), từ quả (32 loài), từ lá (15 loài), từ toàn cây (8 loài), từ rễ (8 loài) và từ thân (6 loài); ít được lấy từ hoa và củ. 3.2.1. 5. Nhóm cây cảnh và cây có công dụng khác Nhóm cây cảnh (cây cảnh, hoa cảnh, cây xanh bóng mát) và cây có công dụng khác (cây cho lá gói, thức ăn chăn nuôi, giá thể trồng nấm, cây cải tạo đất,... ) gồm 300 loài, chiếm 19,89% tổng số loài LSNG ở VQG Pù Mát. Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm còn lại này được trình bày trong bảng 3.12. Bảng 3.12: Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây cảnh và cây có công dụng khác ở VQG Pù Mát Họ Chi Loài Số Số Số Ngành lượng % lượng % lượng % Psilotophyta 1 1.39 1 0.59 1 0.33 Lycopodiophyta 1 1.39 1 0.59 3 1.00 Polypodiophyta 6 8.33 6 3.55 8 2.67 Pinophyta 5 6.94 6 3.55 9 3.00 Magnoli- Magnoliopsida 46 63.89 109 64.50 192 64.00 -ophyta Liliopsida 13 18.06 46 27.22 87 29.00 Tổng 59 81.94 155 91.72 279 93.00 Tổng cộng 72 100 169 100 300 100 Các loài thuộc nhóm cây này phân bố trong 5 ngành thực vật bậc cao có mạch, nhưng tập trung hầu hết trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), chiếm 93% tổng số loài của cả nhóm. Trong ngành Ngọc lan, lớp Ngọc lan có số loài chiếm phần lớn, 192 loài, chiếm 64%. Trong nhóm này, số loài cây được khai thác để làm cảnh, làm bóng mát, cho hoa đẹp chiếm phần nhiều, các loài được khai thác để làm lá gói, làm giá thể trồng nấm, cải tạo đất hay chăn nuôi,… chiếm số lượng không nhiều và nằm rải rác ở nhiều chi, nhiều họ. Các sinh cảnh thường bị khai thác các sản phẩm thuộc nhóm này là rừng (45% lượt loài) và đồi núi (21% lượt loài). Các cây thân gỗ được khai thác nhiều hơn, chiếm tới 40% tổng số loài, chúng cung cấp các loại cây bóng mát, cây cảnh, cây làm giá thể trồng nấm,… Nhóm tiếp theo là cây thân thảo, chiếm 30% tổng số loài của nhóm. Đa số các loài
  18. 16 thuộc nhóm này (185 loài) đều được khai thác cả cây để làm cảnh, trồng làm bóng mát, trồng làm hoa cảnh,… 3.2.1.6. Nhóm cây cho nhựa, dầu Trong 1508 loài cho LSNG ở khu vực VQG Pù Mát có tới 136 lượt loài cho dầu và nhựa (bao gồm tinh dầu, dầu béo, nhựa dầu và nhựa). Đây là những LSNG có giá trị cao trong nhiều lĩnh vực kinh tế cũng như trong đời sống xã hội. Trong đó, có tới 92 loài chứa tinh dầu, thuộc 22 họ thực vật có mạch. Bảng 3.13 trình bày sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây cho dầu nhựa ở VQG Pù Mát. Hầu hết các loài cây cho dầu, nhựa đều thuộc lớp Ngọc lan (Magnoliopsida), chiếm 81,15% và trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta), chiếm 94,17%. Bảng 3.13. Sự phân bố về số lượng và tỷ lệ họ, chi, loài của nhóm cây cho dầu nhựa ở khu vực VQG Pù Mát. Ngành Họ Chi Loài SL % SL % SL % Pinophyta 6 13,95 7 7,29 8 5,83 Magnol- Magnoliopsida 29 67,44 75 78,13 111 81,15 iophyta Liliopsida 8 18,60 14 14,58 17 13,02 Tổng cộng 43 100 96 100 136 100 Các loài thực vật chứa tinh dầu, dầu nhựa thường thuộc các dạng sống khác nhau, nhưng phần lớn là cây thân gỗ (59%), thân thảo chiếm 25%. Các họ có nhiều loài cho dầu, tinh dầu gồm: Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Hòa thảo (Poaceae), họ Gừng (Zingiberaceae), họ Bạc hà (Lamiaceae). Các loài thực vật cung cấp nhựa quan trọng thường thuộc về các họ: Thông (Pinaceae), Trám (Burseraceae), Dầu (Dipterocarpaceae), Bồ đề (Styracaceae), Vang (Caesalpiniaceae), Thầu dầu (Euphorbiaceae)… Những họ có nhiều loài chứa dầu béo gồm: Đậu (Fabaceae), Thầu dầu (Euphorbiaceae), Cam (Rutaceae), Cúc (Asteraceae), Bí (Cucurbitaceae), Bông (Malvaceae), Bạc hà (Lamiaceae), Lúa (Poaceae), Long não (Lauraceae), Bồ hòn (Sapindaceae), Hoa hồng (Rosaceae), Xoan (Meliaceae), Cà (Solanaceae),… Bộ phận được thu hái để lấy dầu và dầu nhựa phổ biến nhất là hạt (39 lượt loài), quả (30 lượt loài), vỏ (28 lượt loài) và rễ (25 lượt loài). Để tìm hiểu thêm về nhóm cây có tinh dầu, 3 loài trong họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Pù Mát đã được lựa chọn để nghiên cứu về hàm lượng và thành phần của tinh dầu. Đây là lần đầu tiên loài Etlingera yunnanensis và loài Hornstedtia sanhan được nghiên cứu về tinh dầu; loài Sliquamomum tonkinense lần đầu được nghiên cứu về tinh dầu lá và rễ.
  19. 17 3.2.2. Một số loài cho tinh dầu trong họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Pù Mát Ba loài mới được bổ sung cho họ Gừng (Zingiberace) ở Pù Mát gồm: Giả sa nhân (Hornstedtia sanhan M. Newnam), Sa nhân giác (Siliquamomum tonkinense Baill.) và Ét linh vân nam (Etlingera yunnanensis (Wu & Senjen) R.M.Sm.). 3.2.3. Phân tích thành phần tinh dầu của 3 loài họ Gừng ở VQG Pù Mát 3.2.3.1. Thành phần tinh dầu Etlingera yunnanensis (Wu&Senjen) R.M.Sm Lá, thân và rễ của E. yunnanensis được thu thập từ khu vực thác Khe Kèm, VQG Pù Mát, Nghệ An. Hàm lượng tinh dầu của lá, thân và rễ tương ứng với 0,25%, 0,20% và 0,31% khối lượng khô. Tinh dầu có màu vàng nhạt, nhẹ hơn nước. Trong tinh dầu của lá, thân, rễ có các thành phần chính: Monoterpen hydrocarbon chiếm 20,7% -57,8%; hydrocarbon sesquiterpen chiếm 23,2% -69,9%. Ngoài ra monoterpen chứa oxy cũng có mặt trong tinh dầu của thân (chiếm 12,8%) và của rễ (chiếm 13,3%). Các thành phần chính của tinh dầu lá là: germacren D (29,2%), β-pinen (11,6%), α-amorphen (11,2%), bicyclogermacren (8,2%), bicycloelemen (6,6%) và α-humulen (6,3%). Dầu của thân gồm các thành phần chính: các β-pinen (23,7%), 1,8-cineol (11,0%), α-pinen (9,6%) và germacren D (7,7%). Các thành phần β-pinen (31,9%), α-pinen (13,7%), 1,8-cineol (9,4%) và camphen (7,5%) cũng đã được tìm thấy trong tinh dầu của rễ. 3.2.3.2. Thành phần tinh dầu Giả sa nhân - Hornstedtia sanhan M. Newnam Lá, thân và rễ của loài Giả sa nhân được thu ở khu vực thác Khe Kèm, VQG Pù Mát, Nghệ An. Hàm lượng tinh dầu là 0,32%, 0,25% và 0,35% trọng lượng khô tương ứng với lá, thân và rễ. Tinh dầu có màu vàng nhạt, nhẹ hơn nước. Trong tinh dầu chủ yếu là các hợp chất monoterpen hydrocarbon chiếm 44,1% -83,6%. Ngoài ra, các hợp chất sesquiterpen hydrocarbon cũng chiếm đến 24,3% trong tinh dầu của lá và phenylpropanoids chiếm đến 43,8% trong tinh dầu của rễ. Thành phần chính là α-pinen (25,9% trong tinh dầu lá, 36,3% trong tinh dầu thân và 14,1% trong tinh dầu rễ); thành phần có tỷ lệ lớn tiếp theo là limonen (22,1% trong tinh dầu lá, 24,6% trong tinh dầu thân và 16,2% trong tinh dầu rễ) và β-pinen (9,7% trong tinh dầu lá, 11,8% trong tinh dầu thân và 7,2% trong tinh dầu rễ). Ngoài ra, α-humulen cũng chiếm đến 15,9% và β-caryophyllen chiếm đến 6,3% tinh dầu của lá. Trong khi đó tinh dầu của rễ lại chứa số lượng lớn nhất methyl chavicol (43,7%). 3.2.3.3. Thành phần tinh dầu Sa nhân giác - Siliquamomum tonkinense Baill. Mẫu lá và rễ của loài Sa nhân giác được thu từ khu vực Thác Khe Kèm, VQG Pù Mát. Hàm lượng tinh dầu ở thân là 0,12% và ở rễ là 0,16% trọng lượng tươi, tinh dầu có màu vàng nhạt, nhẹ hơn nước. Trong tinh dầu chủ yếu là các hợp chất monoterpen chiếm 74,8% và 80,3% tương ứng với lá và rễ. Các thành phần khác chiếm tỷ lệ không đáng kể. Đã xác
  20. 18 định được 29 hợp chất trong tinh dầu của lá, chiếm 93,8%, các thành phần có tỷ lệ lớn trong tinh dầu từ lá loài này là: β-pinen (29,3%), α-pinen (15,7%), sabinen (14,6%), limonen (4,2%), γ-terpinen (3,2%), β-caryophyllen và bicyclogermacren (đều chiếm 2,5%). Các thành phần còn lại đều có hàm lượng từ 0,3% đến 1,4%. Ở rễ đã xác định được 40 hợp chất chiếm 96,3% tổng lượng tinh dầu. 1,8-cineol (19,1%), γ-terpinen (14,9%), o-cymen (14,0), α-pinen (12,5%), β-pinen (8,8%) là các hợp chất chính. β-selinen (2,9%), α-terpinen (2,8%); α-selinen (1,7%), α-thujen (1,6%) là các thành phần nhỏ hơn. 3.3. Đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng và quản lý LSNG Để đánh giá cụ thể hơn về hiện trạng khai thác, sử dụng và quản lý LSNG ở khu vực VQG Pù Mát, 360 hộ gia đình ở 12 bản được lựa chọn, 16 người buôn bán thu mua LSNG và 20 cán bộ quản lý rừng, cán bộ chính quyền địa phương đã được phỏng vấn, thống kê số liệu từ các đợt điều tra, phỏng vấn có các kết quả sau đây. 3.3.1. Điều kiện tự nhiên và sinh kế của các bản nghiên cứu Các bản được lựa chọn để tiến hành đánh giá đó là: Bản Cao Vều 1, 3 & 4 (xã Phúc Sơn); Bản Lục Sơn, bản Tân Hợp và bản Mọi (xã Lục Dạ); Bản Bu, bản Nà và bản Diềm (xã Châu Khê); Bản Tân Hương, bản Tùng Hương và bản Liên Hương (xã Tam Quang). Đây là các bản có vị trí nằm khá sâu trong vùng đệm của VQG Pù Mát, diện tích đất canh tác hạn chế, thiếu việc làm và thu nhập thấp, cuộc sống phụ thuộc vào khai thác tài nguyên rừng. 3.3.2. Hiện trạng khai thác và sử dụng LSNG 3.3.2.1. Sử dụng LSNG của người dân địa phương Theo kết quả thống kê từ 360 phiếu phỏng vấn các hộ dân của 12 bản, 100% các hộ đều sử dụng LSNG cho các sinh hoạt hàng ngày; 96,5% số hộ tham gia khai thác LSNG để phục vụ nhu cầu sử dụng trong gia đình và để bán. 3.3.2.2. Đóng góp của LSNG trong đời sống cộng đồng Kết quả cho thấy, LSNG đã đóng góp trung bình 36,7% tổng thu nhập bình quân hàng năm của các hộ được phỏng vấn. Tuy nhiên, có sự khác nhau ở các bản khác nhau, tỷ lệ này thấp nhất ở bản Lục Sơn (22,7%) và cao nhất ở bản Bu (53,6%), những bản càng nghèo thì tỷ lệ này càng cao. 3.3.2.3. Khai thác LSNG trong VQG Pù Mát Theo kết quả phỏng vấn thì hầu hết các hộ đều có thu hái LSNG để sử dụng (96,5%) và để bán (82,5%), những hộ không tham gia khai thác LSNG không nhiều, là các hộ mà các lao động đều có việc làm khác ổn định hơn; hoặc không
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2