intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:195

94
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ trí thức (ĐNTT) khoa học Mác-Lênin trong các nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác-Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

  1. LỜI CAM ĐOAN  T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t¸c gi¶. C¸c sè liÖu, trÝch dÉn trong luËn ¸n lµ trung thùc, cã xuÊt xø râ rµng vµ kh«ng trïng lÆp víi nh÷ng c«ng tr×nh ®· c«ng bè.   TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trần Việt Hưng
  2. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ  ĐẦU 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN  ĐỀ TÀI 11 Chương  MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ  1 TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC ­ LÊNIN TRONG CÁC  NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 29 1.1. Quan niệm, đặc điểm, vai trò của đội ngũ trí thức khoa  học  Mác ­ Lênin trong  các  nhà trường Quân đội nhân  dân Việt Nam 29 1.2. Quan niệm  và những vấn đề  có tính quy luật xây dựng  đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  Quân đội nhân dân Việt Nam 50 Chương  THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC  2 KHOA   HỌC   MÁC   ­   LÊNIN   TRONG   CÁC   NHÀ  TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ  MỘT SỐ KINH NGHIỆM 70 2.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin  trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam 70 2.2. Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đội ngũ  trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân  đội nhân dân Việt Nam 99 Chương  YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ  BẢN XÂY DỰNG ĐỘI  3 NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC ­ LÊNIN TRONG  CÁC   NHÀ   TRƯỜNG   QUÂN   ĐỘI   NHÂN   DÂN   VIỆT  NAM HIỆN NAY 109 3.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu xây dựng đội ngũ trí   109 thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân 
  3. đội nhân dân Việt Nam hiện nay 3.2. Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt  Nam hiện nay 123 KẾT LUẬN 163 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐàCÔNG BỐ  CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 166 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167 PHỤ LỤC 177 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viêt đây đu ́ ̀ ̉ Chư viêt tăt ̃ ́ ́ 1 ́ ̣ Chinh tri Quôc gia ́ CTQG 2 ̉ Chu nghia xa hôi ̃ ̃ ̣ CNXH 3 ̣ Công nghiêp hoa, hiên đai hoa ́ ̣ ̣ ́ CNH, HĐH 4 ̉ ̉ Đang uy Quân s ự Trung ương ĐUQSTƯ 5 ̣ ̃ ́ ưć Đôi ngu tri th ĐNTT 6 ́ ̣ Giao duc va đao tao ̀ ̀ ̣ GD&ĐT 7 ̣ Khoa hoc va công nghê ̀ ̣ KH&CN 8 ̣ Quân đôi nhân dân Viêt Nam ̣ QĐNDVN 9 Quân uỷ Trung ương QUTƯ
  4. 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà   trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được tác giả ấp ủ trong suốt  quá trình học tập, công tác và tham gia giảng dạy. Đây là một công trình khoa  học độc lập, không có sự trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã được công bố. Tác  giả nhận thấy rằng, vấn đề xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các  nhà trường quân đội hiện nay là một nội dung quan trọng, bổ ích, có thể bổ  sung cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của tác giả.  Vì vậy,  tác giả đã xin ý kiến chuyên gia, trao đổi với các thầy hướng dẫn và quyết định  chọn làm vấn đề  nghiên cứu trong luận án của mình. Đề  tài mà tác giả trình   bày có kết cấu gồm phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3 chương, 6  tiết; kết luận; các bài báo và công trình khoa học của tác giả  đã công bố;  danh mục tài liệu tham khảo và phụ  lục . Với dung lượng 3 chương (6 tiết),   công trình nghiên cứu bảo đảm triển khai được những vấn đề lý luận và thực  tiễn   về  xây   dựng   ĐNTT   khoa   học   Mác   ­   Lênin   trong   các   nhà   trường  QĐNDVN; từ  đó nêu lên những yếu tố  tác động, xác định yêu cầu và đề  xuất những giải pháp cơ  bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong  các nhà trường QĐNDVN hiện nay. Những vấn đề được luận giải trong đề  tài, một mặt, là sự kế thừa có chọn lọc một số quan điểm của các học giả  trong các công trình nghiên cứu trước  đó; mặt khác, chính là sự  nỗ  lực   nghiên cứu của tác giả dưới sự định hướng của các thầy hướng dẫn.   2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Trong mọi thời đại, tri thức luôn là khởi nguồn của sự tiến bộ xã hội,   ĐNTT là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng  với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, ĐNTT trở 
  5. 6 thành một nguồn lực đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi   quốc gia. Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ  Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc, đánh giá cao vị trí, vai trò, đặc biệt là phát  huy vai trò ĐNTT trong sự  nghiệp cách mạng. Chủ  tịch Hồ  Chí Minh cho   rằng: Trong cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân trí thức cũng cần, trong  cách mạng xã hội chủ nghĩa trí thức càng cần. Đảng và Nhà nước ta đã có  nhiều chủ  trương, chính sách nhằm tôn vinh, xây dựng và phát huy vai trò   của ĐNTT, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, gắn với  phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu   toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh vị trí, vai  trò quan trọng của ĐNTT trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay,  đồng thời đề ra yêu cầu cần phải: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có  chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [49, tr. 241]. Đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội là  một bộ  phận của ĐNTT quân đội và ĐNTT Việt Nam; là lực lượng nòng   cốt giảng dạy các môn lý luận chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, trang bị  thế  giới   quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản cho học viên trong các nhà trường  quân đội, góp phần quan trọng đào tạo ra các thế hệ cán bộ, sĩ quan có bản   lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành  mạnh, có năng lực lãnh đạo, chỉ  huy và chuyên môn nghiệp vụ  theo chức  trách, nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng,  bảo vệ Tổ quốc. Cùng với giảng dạy, ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường  quân đội còn là một lực lượng nòng cốt nghiên cứu, phát triển và tuyên truyền  lý luận chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm  của Đảng; tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các   luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, 
  6. 7 quan điểm của Đảng; góp phần xây dựng và củng cố vững chắc trận địa tư  tưởng của Đảng trong quân đội. Trong những năm qua, được sự  quan tâm, lãnh đạo của Đảng, QUTƯ,   trực tiếp là cấp uỷ các nhà trường quân đội, ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong  các nhà trường quân đội đã có sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện, về cơ bản đáp  ứng yêu cầu nhiệm vụ.  Tuy nhiên,  ĐNTT  khoa học  Mác ­ Lênin trong các  nhà trường quân đội còn thiếu về  số  lượng; trình độ  chuyên môn chưa  đồng đều, một bộ phận chưa cao; còn thiếu những chuyên gia đầu ngành ở  các lĩnh vực quan trọng; độ tuổi trung bình vẫn còn cao; trình độ ngoại ngữ  và tin học còn hạn chế, việc tiếp cận và sử dụng các phương tiện dạy học   hiện đại còn khó khăn... Điều này dẫn đến chất lượng giảng dạy hạn chế;  công tác nghiên cứu khoa học ở một số cơ quan, học viện, nhà trường chưa  theo kịp sự  phát triển của quân đội và đất nước, nhất là sự  hạn chế  về  năng lực tư duy lý luận, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, khả năng  vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn quốc phòng, quân  sự đặt ra. Hiện nay cũng như những năm tới, cùng với cả nước, các nhà trường  quân đội đang đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, trong đó có  giảng dạy các môn lý luận Mác ­ Lênin nhằm nâng cao chất lượng đào tạo  đội ngũ cán bộ, sĩ quan đáp  ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng,   chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ  sở, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đất nước sau gần 30 năm đổi mới tuy đã giành được nhiều thành tựu  to lớn và có ý nghĩa lịch sử, nhưng còn không ít khó khăn, thách thức. Nhiều  vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu làm sáng tỏ.  Trong khi các thế  lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến   hoà bình”, coi tư  tưởng, lý luận là mặt trận hàng đầu để  chống phá cách  mạng nước ta. Chúng ra sức xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và luật 
  7. 8 pháp của Nhà nước. Một trong những mũi nhọn chống phá của các thế lực  thù địch là xuyên tạc bản chất và truyền thống cách mạng hòng “Phi chính  trị hoá”, vô hiệu hoá quân đội ta. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và  nghiên cứu khoa học trong các nhà trường quân đội hiện nay cần phải đặc  biệt coi trọng xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin vững mạnh, thực sự là  một trong những lực lượng nòng cốt xây dựng quân đội vững mạnh về  chính trị, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Nhân  dân giao phó. Đó cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề  tài:  Xây dựng   đội ngũ trí thức khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường Quân đội nhân   dân Việt Nam hiện nay  làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ  nghĩa xã hội khoa học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu  Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng   ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN, xác định yêu  cầu và đề  xuất những giải pháp cơ  bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà trường QĐNDVN vững mạnh cả  về  số  lượng, chất   lượng, cơ cấu, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. * Nhiệm vụ nghiên cứu ­ Làm rõ một số vấn đề lý luận về ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin, xây  dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN. ­ Khảo cứu thực tiễn  xây dựng ĐNTT  khoa học  Mác ­ Lênin trong  các nhà trường quân đội, làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và  rút ra những kinh nghiệm.  ­ Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­   Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay.  4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu  * Đối tượng nghiên cứu
  8. 9 Hoạt   động  xây  dựng   ĐNTT  khoa  học  Mác   ­  Lênin  trong  các   nhà  trường QĐNDVN.  * Phạm vi nghiên cứu Hoạt động xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin cả về số lượng, cơ  cấu và chất lượng trong các nhà trường QĐNDVN bao gồm: Các giảng viên,  nghiên cứu viên, cán bộ quản lý thuộc các chuyên ngành triết học Mác ­ Lênin,  kinh tế chính trị học Mác ­ Lênin, CNXH khoa học đang công tác trong các học   viện, nhà trường quân đội đào tạo bậc đại học và sau đại học  ở  khu vực   miền Bắc. Khảo cứu thực tiễn từ  khi triển khai thực hiện Nghị  quyết số  94­ NQ/ĐUQSTW ngày 29/4/1998 của ĐUQSTƯ (nay là QUTƯ) về “Xây dựng  đội ngũ cán bộ  quân đội trong tình hình mới” đến nay; đề  xuất yêu cầu,   giải pháp từ nay đến 2020. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Luận án được  xây dựng dựa trên cơ  sở  lý luận  chủ  nghĩa Mác ­  Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  trí thức và xây dựng   ĐNTT; quan điểm  của Đảng và Nhà nước Việt Nam về  xây dựng ĐNTT trong thời kỳ  đẩy  mạnh CNH, HĐH đất nước. * Cơ sở thực tiễn Cơ  sở  thực tiễn của luận án là thực trạng xây dựng ĐNTT khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; kết quả  nghiên cứu, khảo sát   thực tiễn của tác giả và của các công trình khoa học có liên quan. * Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện dựa trên cơ  sở  phương pháp luận của chủ  nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận với   khảo cứu thực tiễn, vận dụng tổng hợp các phương pháp lịch sử  ­ lôgíc, hệ 
  9. 10 thống ­ cấu trúc, phân tích ­ tổng hợp, điều tra khảo sát và phương pháp   chuyên gia. 6. Những đóng góp mới của luận án ­ Phân tích làm sáng tỏ quan niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà trường QĐNDVN; quan niệm và những vấn đề có tính quy  luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường QĐNDVN. ­ Khái quát những kinh nghiệm thực tiễn xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­  Lênin trong các nhà trường QĐNDVN những năm qua; đề xuất những yêu cầu,  giải pháp cơ bản xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội vững mạnh, đáp ứng tốt nhiệm vụ trong những năm tới. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án * Ý nghĩa lý luận Kết quả  nghiên cứu của luận án góp phần  làm sáng tỏ  thêm quan  niệm, đặc điểm của ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường   quân đội; đặc biệt là làm sáng tỏ  quan niệm và những vấn đề  có tính quy   luật xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội  hiện nay.  * Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học  phục vụ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng ĐNTT khoa học  Mác ­ Lênin trong các nhà trường quân đội hiện nay. Luận án có thể  được sử  dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ  công  tác GD&ĐT, nghiên cứu khoa học ở các nhà trường quân đội. 8. Kết cấu của luận án Kết cấu của luận án gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên   cứu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công   bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  10. 11 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI   XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC MÁC – LÊNIN TRONG  CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề  tài Tại  các nước  tư  bản, quá trình phát triển khu vực kinh tế  tri thức  (knowledge Economy)  ở  vào những năm 50, đặc biệt từ  thập niên 90 với sự  phát triển của cuộc cách mạng tin học và các xu hướng toàn cầu hoá, đã làm  biến đổi tính chất lao động trí óc của tầng lớp trí thức theo hướng gắn trực tiếp  với việc sản xuất và biến đổi thông tin. Năm 1973, nhà xã hội học học người   Mỹ  Daniel Bell trong tác phẩm: “The Coming of Post ­ Industrial Society: A   Venture in Social Forecasting” [24] (Sự xuất hiện của xã hội hậu công nghiệp:  Hướng dẫn một dự đoán xã hội) lần đầu tiên đưa ra khái niệm “xã hội hậu   công nghiệp” và lao động “áo cổ  trắng”. Ông nhấn mạnh trong xã hội công  nghiệp, vai trò cơ bản thuộc về tư bản và lao động “áo cổ xanh”, còn trong “xã   hội hậu công nghiệp” vai trò cơ  bản thuộc về  trí thức và lao động “áo cổ  trắng”. Khái niệm lao động “áo cổ  trắng” đến nay được biết nhiều thông qua  thuật ngữ  “lao động tri thức” (knowledge Worker) và “kỹ  thuật viên tri thức”   (knowledge Technogist). Nhà xã hội học nổi tiếng người Mỹ  gốc Áo, Peter   F.Drucker trong cuốn “The Landmarks of Tomorrow” [101] (Cột mốc của ngày  mai) xuất bản năm 1959 quan niệm “lao động tri thức” là những người có lượng   kiến thức và sự hiểu biết đáng kể về mặt lý thuyết như các bác sĩ, các luật gia,   các giáo viên, kế toán viên, các kỹ sư và nhất là các kỹ thuật viên tri thức như: kỹ  thuật viên máy tính, người thiết kế phần mềm, nhân viên phân tích phòng thí   nghiệm, kỹ  thuật viên công nghiệp chế  tạo... Nói khác đi, khái niệm trí thức  
  11. 12 được diễn đạt thành những “lao động tri thức” và “kỹ thuật viên tri thức”. Đây  cũng là lần đầu tiên ông nêu khái niệm “lao động tri thức”, “người công nhân tri   thức” vì ông cho rằng thế giới đang dần dịch chuyển từ nền kinh tế hàng hoá  sang nền kinh tế tri thức. Bây giờ những khái niệm này đã trở thành chuyện bình  thường nhưng vào thời đó nền công nghiệp Mỹ đang chịu ảnh hưởng của tư  tưởng sản xuất dây chuyền của Frederick Taylor, công nhân được xem như  “những con rôbốt chỉ biết siết ốc”. Những quan niệm trên đây phản ánh xu hướng xích lại gần nhau giữa   giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức trong quá trình phát triển mạnh mẽ của   khu vực kinh tế tri thức, nhất là tại các nước tư bản phát triển. Xu hướng xích  lại gần nhau này tuy thế, không thể  dẫn đến chỗ  sáp nhập toàn bộ  trí thức  vào giai cấp công nhân, và cũng không thể chuyển giai cấp công nhân thành trí  thức. Bởi lẽ, bản chất lao động, vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức và giai cấp  công nhân trước sau vẫn có những đặc điểm riêng. Do đó, cần thiết phải  nghiên cứu tầng lớp trí thức nói chung và ĐNTT các môn lý luận Mác ­ Lênin  nói riêng theo lập trường Mácxít, thì mới có những kiến giải xác thực về khoa  học và thực tiễn. Tác phẩm  “Về  trí thức Nga” của nhiều tác giả  (Nga) (2009) [110] là  công trình tập hợp 12 bài viết của nhiều trí thức trước Cách mạng tháng  Mười (1917) của nước Nga thuộc Liên Xô cũ và thời kỳ “hậu Xô  viết”. Thời  gian công bố các bài viết ấy trải dài gần một trăm năm, từ những bài trong  tập Những cột mốc (Vekhi) công bố năm 1909 cho tới những bài viết thời   nay. Các tác giả đã tiếp cận dưới các góc độ khác nhau: Tầng lớp trí thức là   gì? Trí thức và nhận thức pháp quyền, trí thức và chủ nghĩa xã hội, bàn về  phương hướng và nhiệm vụ  của giới trí thức Nga, những người trí thức  Nga sau năm 1917 là những người như  thế nào?   Ở  nước Nga hiện nay có  tồn tại một giới trí thức hay không? v.v... Nội dung các bài viết là những 
  12. 13 đánh giá phê phán giới trí thức Nga của chính những người thuộc giới này  với tâm thế đau xót tự kiểm điểm (ngoại trừ hai bài viết thời hiện đại của   Gary Neill và Tumanov). Công trình này thể hiện được chính kiến của các  trí thức rất đa dạng, có khi đối lập nhau nhưng đều ghi nhận tinh thần học  thuật nghiêm túc và với ý thức xã hội đáng trân trọng. Trong khung cảnh  lịch sử  và hoàn cảnh xã hội của nước Nga lúc bấy giờ, người trí thức đã  viết nên  những trăn trở, dồn nén và phản  ứng (cả  tích cực và tiêu cực).  Trong các bài viết, các tác giả  Nga có nhiều cách hiểu khác nhau về  danh  xưng trí thức. Mặc dù vậy,  ở  họ  vẫn có sự  thống nhất khi cho rằng:  Trí   thức Nga  được hiểu là một tầng lớp xã hội theo nghĩa một nhóm người  tương đối đông về  số  lượng và có sự  liên kết nội tại tương đối mật thiết  và thống nhất. Đặc điểm phân biệt họ  với các tầng lớp xã hội khác là họ  có học thức nhất định, luôn tự  ý thức về  sứ  mệnh của mình đối với toàn  thể cộng đồng (có thể rộng hẹp khác nhau như: giai cấp vô sản, nhân dân   Nga hay toàn nhân loại) và có thái độ dấn thân để thực hiện sứ mệnh đem  lại tương lai tươi sáng cho cộng đồng.  Tác   giả   Jennifer   Lewingion   (2011)   với   bài   viết  “Biết   trọng   dụng   người tài, Canađa vượt lên trước “bầy sói”” [75]. Qua bài viết này tác giả  nhấn mạnh: vào giữa những năm 1990, giới chức giáo dục đại học ở Canađa  đã cảnh báo hậu quả của việc chính phủ cắt giảm quỹ giành cho nghiên cứu   khoa học và “nguy cơ” chảy máu nhân tài. Tuy nhiên, Canađa đã trải qua một   thời kỳ  phục hưng mạnh mẽ  trong nghiên cứu và giáo dục đại học. Các   trường đại học nghiên cứu ở Canađa đã khẳng định được vị trí đứng đầu và  trở thành những chiếc nam châm thu hút nhân tài quốc tế. Các chính phủ cấp  thành phố  và liên bang đã đổ  một khoản tiền lớn chưa từng thấy cho con   người và trang thiết bị nhằm thúc đẩy đổi mới, phát minh và tạo ra một giới  chuyên gia đông đảo. Cuộc cách mạng về  chiến lược mới đã ra đời năm  1997, khi chính phủ liên bang thành lập “Quỹ Đổi mới Canađa”, hoạt động 
  13. 14 như  một cơ quan độc lập nhằm tài trợ  cơ  sở  hạ  tầng cho nghiên cứu khoa  học. Các biện pháp khác được áp dụng sau đó, như lập ra các khoản trợ cấp   đặc biệt cho các học giả mới nổi hoặc xuất chúng ở Canađa và nước ngoài;  tạo dựng các hiệp hội nghiên cứu có sinh lời giữa các nghiên cứu sinh hậu   tiến sĩ  ở  Canađa và nước ngoài. Với chiến lược phát triển đúng đắn, hiện   nay Canađa đã thu hút được các chuyên gia hàng đầu thế giới đến làm việc   tại quốc gia này, trở thành quốc gia “đi từ chỗ không được xếp hạng để trở  thành một nước được tham gia vào cuộc đua”. Vào những năm 90 của thế kỷ XX, ở Trung Quốc trong khuôn khổ lý  luận về CNXH phát triển, đã có quan niệm coi tầng lớp trí thức là một bộ  phận của giai cấp công nhân. Cơ  sở  xuất phát của quan niệm này là thành  phần xuất thân của trí thức chủ yếu từ hai giai cấp cơ bản trong xã hội, là  công nhân và nông dân.  Trong bài diễn văn của Tổng Bí thư  Đảng Cộng  sản Trung Quốc đọc tại Lễ  kỷ  niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng   sản Trung Quốc (01­7­2001) đã khẳng định: “Tầng lớp trí thức với tư cách  là một bộ  phận của giai cấp công nhân, đã tăng cường mạnh mẽ  tố  chất   văn hoá, khoa học, kỹ  thuật cho giai cấp công nhân” [118, tr. 69].  Trung  Quốc  cũng  là một quốc gia rất xem trọng việc   xây dựng,  đào tạo, bồi  dưỡng ĐNTT. Trên thực tế có nhiều công trình khoa học  của nhiều tác giả  nghiên cứu về ĐNTT ở quốc gia này. Tiêu biểu phải kể đến:  Hai   tác  giả  Thẩm   Vinh  Hoa  và  Ngô  Quốc  Diệu  (đồng  chủ  biên)  (2008)  với  cuốn sách “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế  lớn trăm   năm chấn hưng đất nước” [65]. Các tác giả đã trình bày nhiều nội dung nổi  bật trong tư  tưởng của Đặng Tiểu Bình, người được coi là “Tổng công  trình sư của công cuộc cải cách, mở  cửa và xây dựng hiện đại hoá xã hội  chủ  nghĩa của Trung Quốc”, về những vấn đề  rất cơ  bản như: đường lối  tổ  chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; nhân tài là then chốt của phát  triển; tư  tưởng chiến lược về  bồi dưỡng và giáo dục nhân tài; về  tuyển  
  14. 15 chọn nhân tài ưu tú; về sử dụng và bố trí nhân tài; về cải cách chế độ nhân   sự   trong   việc   sử   dụng   nhân   tài;  về   tạo   môi   trường   cho   nhân   tài   phát  triển...Qua cuốn sách này, các tác giả đã khái quát một cách tổng thể về tư  tưởng của Đặng Tiểu Bình cũng như  sự  vận dụng các tư  tưởng đó trong  chiến lược xây dựng nhân tài  ở  Trung Quốc. Có thể  nói rằng, cuốn sách  này có giá trị  tham khảo sâu sắc đối với việc thực hiện chính sách cán bộ  nói chung và chính sách đối với trí thức, nhân tài nói riêng ở Việt Nam trong   giai đoạn hiện nay. Tác giả Lưu Bảo Quốc (2006) với bài viết “Từ phần tử trí thức của   giai cấp đến giai cấp của phần tử trí thức” [105]. Nội dung của công trình  này cho rằng: “phần tử  trí thức” là nhưng ng ̃ ươi co ly t ̀ ́ ́ ưởng, co hoc th ́ ̣ ưc, ́   ̃ ̣ ́ ̣ đong gop cho xa hôi, giao duc ng ́ ́ ươi khac ̀ ́ ; là sản phẩm của sự phân hoá giai  cấp trong xã hội loài người. Trong các chế độ xã hội, trí thức chỉ có thể tồn  tại dựa vào giai cấp nhất định với tư cách là phần tử trí thức của giai cấp   đó. Tuy nhiên, khi kinh tế  tri thức xuất hiện, phần tử trí thức đã thể  hiện  được vị trí, vai trò của mình và trở thành giai cấp độc lập. Đồng thời, trong  xã hội kinh tế  tri thức thì tất  cả  các giai cấp đều đang tiến từ  phần tử trí  thức hoá, trở  thành giai cấp của phần tử  trí thức. Đây cũng sẽ  là giai cấp  sau cùng của xã hội loài người để đi đến xã hội không còn giai cấp. Tác giả Lăng Tường (2002) với bài viết “Tổng quan về 5 trường đại   học tổng hợp trong toàn quân” [134] đã đề cập trực tiếp đến các nhà trường  của quân đội Trung Quốc, phân tích việc kiện toàn hệ  thống nhà trường  quân sự, đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ  khoa học quân sự. Theo tác giả, hệ  thống các trường quân sự  của Trung  Quốc được kiện toàn, đổi mới từ  những năm 1980 với mục tiêu đào tạo  ĐNTT chất lượng cao đáp  ứng yêu cầu chiến tranh hiện đại. Các trường  quân sự của Trung Quốc rất chú trọng đào tạo đội ngũ giảng viên và cán bộ 
  15. 16 quản lý giáo dục. Đội ngũ giảng viên các trường quân sự, nhất là giảng viên   có học hàm, học vị  cao được quan tâm phát triển toàn diện và chiếm tỉ  lệ  ngày càng cao trong tổng số  trí  thức  quân đội Trung Quốc. Chẳng hạn,  trường Đại học Khoa học kĩ thuật quốc phòng có 1049 Giáo sư và Phó Giáo   sư; Đại học Công trình Vật lý có 543 Giáo sư và Phó Giáo sư, 276 người có  học vị Sau đại học; Đại học Công trình Thông tin có trên 500 Giáo sư và Phó  Giáo sư… Liên quan trực tiếp đến ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các trường   quân đội về cơ bản chỉ được đề cập đến ở Liên Xô trước đây. Chẳng hạn,  cuốn sách, “Phương pháp giảng dạy các môn khoa học xã hội” của X.G. Lu­ cô­nhin và V.V. Xê­rê­bri­an­ni­cốp (chủ  biên) (1981) [89]. Cuốn sách tổng  kết những kinh nghiệm giảng dạy khoa học xã hội ­ trong đó có khoa học   Mác ­ Lênin ở các trường quân sự Liên Xô, vận dụng những phương pháp và   hình thức tiên tiến trong giảng dạy khoa học xã hội, nhằm phổ  biến kinh  nghiệm giảng dạy cho tất cả  giảng viên, đặc biệt là đối với những giảng  viên mới bước vào môi trường sư  phạm. Tuy nhiên, đối với các chủ  thể   ở  nhà trường quân sự  phải vạch ra phương hướng phấn đấu cho họ  kết hợp   với kiểm tra thường xuyên quá trình thực hiện nhằm nâng cao kiến thức lý  luận và nghiệp vụ  sư phạm làm cơ  sở  để  củng cố  niềm tin, thế  giới quan   cộng sản chủ nghĩa và tâm lý vững chắc cho đội ngũ giảng viên mới ở các  trường quân sự. Ngoài quan niệm và các công trình nghiên cứu đã nêu, còn một số  quan niệm khác đánh giá về vai trò và tầm quan trọng của trí thức như: ­ Lý thuyết Nhân tài 3C (3C Talent Formula) của Giáo sư Dave Ulrich  Đại học Michigan (Hoa Kỳ) [25], một chuyên gia hàng đầu về  nhân lực và  nhân tài ­ đề cập đến quan niệm về nhân tài với phương trình 3C (Talent =  
  16. 17 Competence,  Commitment, Contribution / Nhân  tài = Năng lực,  Cam kết,  Cống hiến); nhân tài phải có cái đầu (năng lực sáng tạo), bàn tay và đôi chân   (làm việc hết mình) và trái tim (sự viên mãn, thăng hoa, cống hiến), có khả  năng làm tốt những công việc của ngày hôm nay và đặc biệt là của tương lai.  Ông cũng đưa ra những giải pháp phát hiện những trí thức là “người giỏi” và   bồi dưỡng, vun đắp họ thành “nhân tài”, mang lại giá trị cao cho tổ chức, xã   hội.  ­ Chính sách “tam tài” của Trung Quốc (“Bồi dưỡng nhân tài, thu hút  nhân tài và trọng dụng nhân tài”; “Lấy sự  nghiệp để  thu hút nhân tài, lấy   tình đồng bào để  quy tụ  nhân tài, lấy chính sách để  phát triển nhân tài”)  [126], trong đó tập trung thực hiện các chủ  trương, giải pháp: Ra sức  ủng   hộ  sự  sáng tạo của đội ngũ trí thức, thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển,  đưa thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất; Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,  động viên trí thức đóng góp vào sản xuất; Điều động nhân tài hợp lý, cạnh  tranh bình đẳng, tạo cơ  chế  cho những người  ưu tú có dịp thể  hiện tài  năng; Mở  rộng kênh thông tin để  tiếp thu ý kiến đóng góp của đội ngũ trí   thức, thúc đẩy dân chủ hoá, khoa học hoá; Tăng cường công tác chính trị tư  tưởng cho đội ngũ trí thức, làm cho họ  kết hợp hài hoà giữa nhu cầu cá  nhân và việc phục vụ Nhà nước; Hoàn thiện môi trường xã hội để trí thức  phát huy được hết tài năng. 2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài Chủ đề về trí thức cũng được nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc  độ  và phạm vi khác nhau. Trong những năm qua, đặc biệt từ khi đất nước   bước  vào  công cuộc  đổi  mới   đến nay, vấn  đề  trí  thức  được  quan tâm  nghiên cứu tương đối hệ thống, qua một số chương trình khoa học cấp nhà 
  17. 18 nước, công trình nghiên cứu độc lập, luận văn, luận án và một số  bài viết  đáng lưu ý như: * Những công trình khoa học nghiên cứu mang tính tổng quan về trí   thức và xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam Tác phẩm “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất   nước”  của nguyên Tổng bí thư  Đỗ  Mười  (1995)  [98]. Đây là công trình  được xuất bản trên cơ  sở  tập hợp các bài viết của tác giả  về  trí thức.   Trong công trình này, tác giả khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và  Nhà nước trong đánh giá về  vai trò của trí thức Việt Nam đối với công  cuộc phát triển đất nước trên tất cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội; đề  cập trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với việc xây dựng và phát huy  vai trò của trí thức nhằm đáp  ứng yêu cầu của sự  nghiệp đổi mới. Bên  cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần phải khắc phục   nhằm phát huy một cách tốt nhất tiềm năng, trí tuệ của ĐNTT. Tác giả  Phạm Tất Dong (chủ  biên)  (2001) với công trình khoa học  “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá,   hiện đại hoá” [28]. Công trình đã nghiên cứu một cách toàn diện về trí thức   Việt Nam. Trong đó, tác giả  khẳng định vị  trí, vai trò của trí thức; đi sâu   phân tích đường lối CNH, HĐH của Đảng và coi đó là một trong những   nhiệm vụ  quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời xác định những  yêu cầu đặt ra trước trí thức ­ với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản của xã  hội. Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn (1998) với công trình “Một số vấn đề về   trí thức Việt Nam” [132]. Trong công trình này, một mặt tác giả  trình bày  những vấn đề lý luận về bản chất xã hội, vai trò của trí thức đối với tiến   bộ  xã hội; mặt khác, tác giả  đã cung cấp cho người đọc thấy được bức  
  18. 19 tranh chung nhất của trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, chỉ ra   đặc điểm cũng như  xu hướng phát triển của trí thức Việt Nam. Theo tác  giả, xu hướng phát triển của ĐNTT có thể  diễn ra theo hai giai đoạn: giai  đoạn một, đa dạng hoá, định hình hoá các nhóm xã hội trí thức như  một   tầng lớp xã hội đặc thù và độc lập tương đối; giai đoạn hai, trên cơ  sở đa   dạng hoá và thống nhất các tính chất chung của lao động trí óc sáng tạo,  các nhóm xã hội trí thức tiếp tục phát triển như  một tầng lớp xã hội đặc   thù và độc lập tương đối, thúc đẩy mạnh hơn quá trình trí thức hoá xã hội.   Trên cơ sở  phân tích những yếu tố  khách quan, chủ  quan việc lựa chọn con   đường xã hội chủ nghĩa của ĐNTT trong xu thế phát triển của thời đại và đất  nước, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp quan trọng nhằm đổi mới công  tác quản lý và thực hiện chính sách xã hội đối với ĐNTT trong giai đoạn hiện   nay. Tác giả Nguyễn Đắc Hưng (2005) với công trình “Trí thức Việt Nam   trước yêu cầu phát triển đất nước” [70]. Công trình đề cập đến nhiều vấn đề  quan trọng, chẳng hạn, trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về  trí thức, tác giả đã phân tích những yêu cầu đặt ra đối với trí thức Việt Nam   trong thời kỳ  đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Qua đó, tác giả  đã khái quát  thực trạng bức tranh chung của trí thức Việt Nam: từ  cơ  cấu, trình độ  đến  việc phân bố trí thức theo các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế…; đề xuất  một số giải pháp phát triển trí thức trong điều kiện mới. Đề tài cấp Nhà nước “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn   2011 ­ 2020” do tác giả Đàm Đức Vượng làm chủ nhiệm (2010) [142]. Đây  là công trình nghiên cứu mang tính tổng thể  về  đội ngũ trí thức Việt Nam  trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở trình bày những vấn đề lý luận chung   về  trí thức, đề  tài đi sâu phân tích thực trạng của trí thức và sử  dụng trí 
  19. 20 thức trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Đặc biệt, để  phân tích thực trạng  của trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, công trình đưa ra nhiều số  liệu khách quan góp phần minh chứng cho các lập luận được trình bày  trong đề  tài và đưa ra các phương hướng, giải pháp xây dựng ĐNTT Việt   Nam giai đoạn 2011 ­ 2020. Trong đó, ngoài các giải pháp mang tính tổng  thể, đề tài phân tích nhiều giải pháp có ý nghĩa để xây dựng và phát huy vai   trò của trí thức trên từng lĩnh vực hoạt động. Qua đó, góp phần cung cấp   các luận cứ  khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chính  sách đối với ĐNTT Việt Nam trong những năm tới. Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích yêu cầu của sự  nghiệp  đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, của hội nhập quốc tế  đối với việc xây   dựng, phát triển ĐNTT Việt Nam, các nhóm trí thức thuộc các lĩnh vực  khác nhau; dự báo tình hình trong nước và thế giới trong những năm tới tác  động đến việc xây dựng ĐNTT Việt Nam, từ đó nêu lên một số giải pháp,   biện pháp cụ  thể  nhằm xây dựng ĐNTT Việt Nam cũng như  các nhóm trí  thức đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. *  Những công trình khoa học nghiên cứu về  xây dựng, phát huy   vai trò của đội ngũ trí thức trong các ngành, lĩnh vực và các lực lượng   trí thức khác nhau trong quá trình cách mạng Tác giả  Ngô Thị  Phượng  (2007) với công trình  “Đội ngũ trí thức   khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự  nghiệp đổi mới”   [103].  Công trình nghiên cứu sâu về trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Tác giả  cung cấp cho người đọc bức tranh chung về  trí thức khoa học xã hội và  nhân văn Việt Nam; phân tích, đặc điểm, xu hướng phát triển của trí thức  khoa học xã hội và nhân văn; xác định những vấn đề  đặt ra đối với lực   lượng này ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt, tác giả  đi sâu phân tích những thành tựu, hạn chế cũng như nguyên nhân trong thực 
  20. 21 hiện vai trò của ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam; đồng thời,  trình bày nhiều quan điểm và phân tích các giải pháp phát huy vai trò của   ĐNTT khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự  nghiệp đổi mới   hiện nay. Trong các giải pháp, việc nâng cao nhận thức và tạo môi trường   để phát huy khả năng sáng tạo có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy  vai trò của lực lượng này. Nghiên cứu cơ bản, chuyên sâu về trí thức nữ Việt Nam, tác giả Đỗ  Thị Thạch (1999) có công trình “Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi   mới hiện nay ­ tiềm năng và phương hướng xây dựng” [111]. Trong công  trình, tác giả  khẳng định: với tư  cách là một bộ  phận quan trọng của trí  thức, trí thức nữ Việt Nam có tiềm năng và đóng góp hết sức to lớn trên tất   cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội; trên cơ  sở  đó, tác giả  đề  xuất nhiều   phương hướng có giá trị  nhằm phát huy vai trò tiềm năng của trí thức nữ  Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Bàn về  xây dựng ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin trong các trường đại  học, nhưng không thuộc lực lượng vũ trang Quân đội nhân dân Việt Nam   và Công an nhân dân Việt Nam, có công trình “Xây dựng đội ngũ trí thức   khoa học Mác ­ Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay ” của tác  giả  Phạm Văn Thanh (2001) [114]. Công trình này của tác giả  chủ  yếu là  nghiên cứu về ĐNTT khoa học Mác ­ Lênin đang trực tiếp giảng dạy trong   các trường đại học (trừ  các trường đại học thuộc lực lượng vũ trang)  ở  nước ta hiện nay. Song cũng có đề cập ở một mức độ hợp lý đến những trí  thức khoa học Mác ­ Lênin làm việc  ở  các lĩnh vực khác trong các trường  đại học. Qua công trình này, tác giả cung cấp cho người đọc một bức tranh   chung nhất về  trí thức khoa học Mác ­ Lênin  trong các trường đại học  ở  nước ta hiện nay. Theo đó, với tư  cách là một bộ  phận quan trọng của  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2