intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:33

147
lượt xem
37
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việt Nam đã chuyển sang thời kì đổi mới kinh tế được hơn 10 năm. Trong việc góp phần đạt được các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, kìm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển đúng hướng và phù hợp với chính sách...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam
  2. Mở Đầu Việt Nam đã chuyển sang thời kì đổi mới kinh tế được hơn 10 năm. Trong việc góp phần đạt được các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, kìm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự phát triển đúng hướng và phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia còn có nhiều bất cập, hạn chế chưa tỏ ra nhạy bén và linh hoạt. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế ngày càng sôi động thì việc điều hành chính sách tiền tệ từ các công cụ trực tiếp chuyển sang các công cụ gián tiếp, trong đó việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở nên cấp bách. Điều này là phù hợp với quá trình cải cách hệ thống ngân hàng, với việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới. Nghiệp vụ thị trường mở cho tới nay mới được thực hiện ở Việt Nam do các điều kiện khách quan và chủ quan vừa chín muồi. Vì vậy, đề tài “ áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam” là một đề tài hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn để góp phần nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Đây cũng là một đề tài giúp cho các tổ chức tín dụng, các Ngân hàng thương mại, các sinh viên kinh tế... trong việc tiếp cận với nghiệp vụ thị trường mở. Chính vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài “ áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam” với mong muốn đóng góp tiếng nói của mình vào việc sử dụng thị tr ường mở để ngày càng hoàn thiện chính sách tiền tệ quốc gia. Vấn đề này rất mới mẻ, do đó không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế, em mong được sự giúp đỡ chỉ bảo của các thầy cô và các bạn. Đề tài này đưa ra một số cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường mở để vận dụng nghiệp vụ thị trường mở – vào tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc ổn định giá trị đồng tiền, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
  3. Chương 1 Cơ sở lý luận về nghiệp vụ thị trường mở I. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở. 1.Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng bởi Ngân hàng Anh vào những năm 30 của thế kỉ 19. Vào thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Anh được sử dụng nh ư một công cụ chủ yếu để kiểm soát tín dụng lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên công cụ này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi sự chi phối của lãi suất tái chiết khấu. Điều này thúc đẩy Ngân hàng Anh tìm kiếm công cụ co hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn. Cách thức đầu tiên được áp dụng nhằm tăng lãi suất thị trường là: 1/. Bán chứng khoán chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một ngày xác định trong tương lai. 2/. Vay trên thị trường – thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc người môi giới với đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ. 3/. Bán hẳn các chứng khoán chính phủ. 4/. Vay từ các ngân hàng thương mại. 5/. Vay từ người gửi tiền đặc biệt. Bằng các cách này, lượng tiền trung ương giảm đi tương ứng với khối lượng vay hoặc bán chứng khoán, lãi suất trên thị trường vì thế tăng lên. Cũng thời gian này, NHTW Thụy Sĩ cũng sử dụng nghiệp vụ bán các chứng khoán chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả dụng dư thừa. Vào năm 1913, lúc đầu Ngân hàng dự trữ Liên bang Mỹ cũng sử dụng nghiệp cụ thị trường mở như một công cụ bổ sung cho chính sách tái chiết khấu.
  4. Tuy nhiên, trong và sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này được sử dụng như công cụ để tài trợ cho các chi phí chiến tranh Và các hoạt động điều chỉnh kinh tế sau chiến tranh. Cùng với các hoạt động này, lượng chứng khoán chính phủ nằm trong tay các NHTW tăng lên. Đến năm 1920, nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này cũng chỉ được sử dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách lãi suất tái chiết khấu và làm cho lãi suất tái chiết khấu trở nên hiệu quả. Nhưng sau đó, hiệu quả và tầm quan trọng của nghiệp vụ thị trường mở ngày càng tăng lên, nos được sử dụng như công cụ chính sách tiền tệ độc lập ở ba nước ban đầu này và sau đó trở thành xu hướng hầu hết ở các NHTW các nước khác. Điều này xuất phát từ: hạn chế của chính sách tái chiết khấu; sụ mở rộng và hoàn thiện của thị trường tài chính; sự tăng lên c ủa lượng chứng khoán chính phủ và các chứng khoán có tính thanh khoản cao. Cho đến nay, nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng như một công cụ chính sách tiền tệ hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của các nước. 2.Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở: Theo nghĩa gốc thì cụm từ “nghiệp vụ thị trường mở” chỉ các hoạt động giao dịch chứng khoán của các NHTW trên thị trường mở. Thông qua hành vi mua bán chứng khoán này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống ngân hàng và gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về lý thuyết, các chứng khoán là đối tượng giao dịch của NHTW, có thể là chứng khoán chính phủ(chủ yếu), các chứng khoán được phát hành bởi doanh nghiệp và ngân hàng gồm cả chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Các chủ thể trong giao dịch nghiệp vụ thị tr ường mở có thể là ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính khác. Về mặt thực tế, nghiệp vụ thị trường mở là chỉ hành vi giao dịch của NHTW trên thị trường mở. Xét về hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng khoán ngắn và dài hạn. Tuy nhiên khác với các khái niệm có phạm vi và công cụ giao
  5. dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán nợ ngắn hạn và những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Như vậy, ở Nhật, thị trường mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại, ở Mỹ hoặc Đức cho phép giao dịch cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở. Xét theo thời hạn của chứng khoán nợ thì thị trường mở ở những nước này bao gồm cả một phần của thị trường chứng khoán. Theo cách này, khái niệm “nghiệp vụ thị trường mở” có ý nghĩa kinh tế khi nó gắn với cụm từ “nghiệp vụ thị tr ường mở”. Có nghĩa là, các giới hạn khác về giới hạn và các chủ thể giao dịch của NHTW trong nghiệp vụ thị tr ường mở sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước. II. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở: 1.Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng (Tác động vào cơ số tiền tệ) Hành vi mua, bán các chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các ngân hàng thương mại(NHTM) thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW và tiền gửi của khách hàng tại NHTM. Bằng việc bán các chứng khoán, NHTW có thể làm giảm bớt đi một khối lượng tiền dự trữ tương ứng (nếu các nhân tố khác không đổi) dù người mua là NHTM hay khách hàng c ủa nó, số tiền thanh toán cho lượng chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của ngân hàng tại NHTW. Trong trường hợp người mua là khách hàng của NHTM thì số tiền mua chứng khoán sẽ làm giảm số dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM. Sự giảm xuống của dự trữ sẽ làm giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng và vì thế giảm khối lượng tiền cung ứng. Hành vi mua chứng khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại. NHTW bán tín phiếu kho bạc -- dự trữ ngân hàng -- dự trữ để mở rộng cho vay -- khối lượng tín dụng -- MS 2. Tác động qua lãi suất.
  6. Hoạt động mua bán trên thị trường của NHTW có ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường: Thứ nhất, khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng n ó tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất sẽ truyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định tại một mức lãi suất được thị trường xác định. Thứ hai, việc mua bán chứn g khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của nó cũng thay đổi. Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch thì sụ thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại tới lãi suất thị trường, tổng cầu AD và sản lượng. Cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán tín phiếu kho bạc. Cung TPKB  ------- Giá TPKB  ------- Lãi suất thị trường    NHTW Đầu  Bán TPKB tư   Dự trữ  -- Cung vốn NHTW  -- LS ngắn hạn-- LS thị trường 
  7. III. Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở 1. Các nghiệp vụ thị trường mở. Trong nghiệp cụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu không có sự tham gia của NHTW thì khối l ượng tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi. Một NHTM này bán chứng khoán cho NHTM khác, xét trong toàn cục chỉ là sự dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ thừa từ NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi. Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị tr ường mở năng động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị tgrường mở thụ động nhằm bù lại những vận động của các nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW thường được thực hiện theo hai cách chủ yếu: Các giao dịch không hoàn lại và các giao dịch có hoàn lại. a. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua đứt): Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán chứng khoáncủa NHTW theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ của các ngân hàng là dài hạn. b. Các giao dịch có hoàn lại (hay giao dịch có kỳ hạn): Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại đ ược sử dụng khi NHTW thực hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai. Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp cụ thị tr ường mở vì những lý do sau: Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đêns dự trữ của các ngân hàng; Chi phí giao dịch cho một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với các hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp trong trường
  8. hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục; Làm giảm thời gian thông báo, do đó giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW. Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng đ ược NHTW sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở như: phát hành chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán đổi các chứng khoán đến hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ. 2. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở: Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu. Có hai loại đấu thầu: đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. a. Đấu thầu khối lượng. NHTW niêm yết trước mức lãi suất. Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ việc đăng kí số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất cho trước. Việc phân phối thầu đối với một phiên thầu có lãi suất cố định được tiến hành như sau: trước hết toàn bộ số đăng kí đặt thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn số lượng được phân phối thì toàn bộ các đơn đặt thầu đều được phân phối. b. Đấu thầu lãi suất. Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng kí số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do chính mình chọn. Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân phối trước cho đến khi số lượng phân phối được sử dụng hết. Trong đấu thầu lãi suất, NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá( phương thức Hà lan) hoặc nhiều giá( phương thức Mỹ). 3. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở. a. Tín phiếu kho bạc:
  9. Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước, vì: - Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao. - Được phát hành định kì với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bộ Tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của Chính phủ. Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của Chính phủ và sự hạn chế tốc độ taưng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ. b. Ch ứng chỉ tiền gửi: Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các chế định tài chíng phi ngân hàng, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng; chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là đảm bảo sự lưu thông của nó và do đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho nghiệp vụ thị trường mở. c . Thương phiếu: Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung vốn ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán. Việc mua bán thương
  10. phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của khach hàng tại NHTM. d . Trái phiếu chính phủ: Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính. e. Trái phiếu chính quyền địa phương: Tương tự như trái phiếu chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu. f. Các hợp đồng mua lại: Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được dùng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán được nợ. Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá. Điều này phụ thuộc vào: Một là: Do cạnh tranh trên thị trường tài chính n gày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: thời hạn, mức độ rủi ro, mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở. 4. Những người tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở.
  11. Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau. a. Các ngân hàng thương mại: Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời thông qua thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì: NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn tiền gửi và dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay. b. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng: Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, các hội tiết kiệm... Các tổ chức này coi thị trường mở như là một nơi kiếm thu nhập qua việc sử dịng vố nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá ngắn hạn hoặc dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng các chứng khoán lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất. Đó là động cơ của họ để tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở. c. Các doanh nghiệp sản xuất – k inh doang lớn: Các doanh nghiệp có nhu cầu bán các chứng khoán để đổi ra tiền mặt hay để kiếm lời trong thời gian ngắn nhất, khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại chứng khoán ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... để kiếm lời. d. Các hộ gia đình: Hộ gia đình tham gia thị trường mở: như họ phải chuyển các chứng khoán ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất; họ mua các chứng
  12. khoán phòng ngừa những rủi ro bất ngờ; đầu tư vào các giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi về lãi suất dự đoán e. Các nhà giao d ịch chuyên nghiệp: Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các giấy tờ có giá giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất, kinh doanh, các nhà đầu tư tư nhân, các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giá mua bán. ở hầu hết các nước có thị trường mở phát triển thì 70% giao thông qua vai trò người giao dịch. Những người giao dịch thường là những công ty chứng khoán chuyên nghiệp. f. Ngân hàng trung ương: NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. NHTW sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng, kiểm soát và điều tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó. g. Kho bạc nhà nước: Kho bạc nhà nước cung ứng hàng hóa cho thị trường mở như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong các hoạt động của thị trường mở. IV. Sử dụng nghiệp vụ thị tr ường mở cùng với các công cụ của chính sách tiền tệ: Để chính sách tiền tệ có hiệu quả cao thì NHTW phải phối hợp các công cụ tiền tệ một cách hợp lý. Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ của chính sách tiền tệ ra đời
  13. muộn hơn các công cụ khác. Tuy nhiên, nghiệp vụ thị trường mở lại là một công cụ hết sức linh hoạt và hiệu quả. Công cụ tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở đều nhằm mục đích tái cấp vốn khả dụng cho các NHTM. Không những thế, nghiệp vụ thị trường mở còn có thể rút vốn khả dụng của NHTM ra khỏi thị trường tiền tệ bằng việc nâng cao các lãi suất của các giấy tờ có giá. Điều này giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng của các ngân hàng và lãi suất trên thị trường. Khi thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu, các NHTM đều biết trước lãi suất tái chiết khấu, còn lãi suất trên thị trường mở luôn biến động, nên NHTM khó dự đoán được. Chính sự linh hoạt của nghiệp vụ thị trường mở đã khắc phục được những hạn chế của công cụ tái chiết khấu. N ghiệp vụ thị trường mở là công cụ hỗ trợ cho công cụ tái chiết khấu vì công cụ tái chiết khấu chỉ có hiệu lực khi các NHTM phụ thuộc NHTW về vốn khả dụng. Đối với công cụ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở được tién hành đồng thời, nó cho phép NHTW chủ động điều tiết dự trữ của hệ thống ngân hàng. Dự trữ bắt buộc được sử dụng để làm tăng hoặc giảm nhu cầu về vốn khả dụng của NHTM dẫn tới việc mua, bán các giấy tờ có giá cho NHTW. Để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTW sử dụng nhiều công cụ đa dạng trong đó có công cụ nghiệp vụ thị tr ường mở. Nghiệp vụ thị tr ường mở được sử dụng linh hoạt trong bất cứ chính sách tiền tệ nào. Nó tạo ra sự cạnh tranh giữa các chủ thể trong nền kinh tế – xã hội, nó có khả năng tác động trực tiếp vào cơ số tiền và khả năng thanh toán vừa phù hợp với khả năng thanh toán vừa phù hợp với thị trường cả về xu hướng tăng hoặc giảm tiền tệ. Chính vì vậy mà công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam bắt đầu từ ngày 12/07/2000.
  14. Chương 2 Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam I. Thực trạng của việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua: 1. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Sau khi pháp lệnh ngân hàng nhà nước được ban hành năm 1990, NHNN đã thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, hạn mức tín dụng, trần lãi suất cho vay và tỉ giá ngoại tệ. Trừ công cụ tái cấp vốn, các công cụ còn lại đều tác động trực tiếp đến mục tiêu trung gian là tổng phương tiện thanh toán M2 a. Các công cụ dự trữ bắt buộc: Cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc đã thay đ ổi đáng kể từ n ăm 1995 nhăm tăng hiệu quả của dự trữ bắt buộc với tư cách là công c ụ điều tiết số dự trữ vượt mức của các tín dụng. Theo quyết định số 260 và 261/QĐ - NH1 n gày 19/9/1995 cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thay đổi cơ bản như sau: - Tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc được thống nhất vào một tài khoản. - Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% áp dụng thống nhất cho các loại tiền gửi dưới 1 năm( tỷ lệ này thay đổi thường xuyên từ năm 1999), với cơcấu 70% phải gửi tại NHTW và 30% là tiền mặt, ngân phiếu thanh toán còn giá trị lưu hành tòn quỹ tại tổ chức tín dụng. - Kỳ tính dự trữ bắt buộc là 15 ngày 1 kỳ, về sau đổi thành một tháng theo quyết định 51/1999 QĐ - NHNN 1 tháng /1999. Mức tiền dự trữ bắt buộc hàng kỳ được
  15. tính trên cơ sở tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc quy định đối với toàn bộ số dư tiền gửi bình quân phải dự trữ bắt buộc trong kỳ trước của tổ chức tín dụng. - Các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bứt buộc phải gửi tại NHNN – tức là dự trữ bắt buộc theo ngày. Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm: phát huy được hiệu quả của nó khi các tổ chức tín dụng phai quan tâm hơn đến tình trạng vốn khả dụng để đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc. Việc điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc liên tục trong năm 1999 chứng tỏ tính tích cực trong việc sử dụng công cụ này nhằm mở rộng khả năng cho vay và giảm chi phí vốn cho các tổ chức tín dụng, hay nói cách khác là làm tăng khả năng kiểm soát của NHNN với M1 Tuy nhiên công cụ dự trữ bắt buộc cũng có những hạn chế: - Do quy định dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng đối với các loại tiền gửi dưới 12 tháng nên khả năng kiểm soát lượng tiền M2 còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt không khuyến khích cho các NHTM sử dụng tối đa nguồn vốn dẫn đến tình trạng dự trữ vượt nhiều, hạn chế các hoạt động cho vay. - Dự trữ bắt buộc được quản lý theo phương pháp bình quân ngày trong tháng, trong điều kiện số dư tiền gửi biến động mạnh và có xu hướng ngày càng tăng trong thời gian qua thì phương pháp quản lý này dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa lượng tiền gửi thực tế và tiền gửi của thời kì xác định làm giảm hiệu lực điều tiêt dự trữ của hệ thống ngân hàng. - Ngoài ra các tổ chức tíndụng không tôn trọng nghiêm ngặt yêu cầu dự trữ bắt buộc do trình độ quản lý của tổ chức tín dụng và việc xử phạt không nghiêm của NHNN đối với các trường hợp vi phạm. b. Công cụ tái cấp vốn: Theo quyết định 285/QĐ - NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đ ốc NHNN, công cụ tái cấp vốn được thực hiện qua các hình thức: cho vay theo mục tiêu chỉ định của chính phủ, cho vay thế chấpchứng từ, ngày 24/12/1997 Thống đốc NHNN đã có quyết
  16. định số 431 – 1997/QĐ - NH14 bổ sung hình thức cho vay có thể thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN để đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM, thời hạn cho vay tối đa là 6 tháng. Đối tượng tái cấp vốn là các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, nhưng trên thực tế chủ yếu các khoản tái cấp vốn được tập trung ở NHTM quốc doanh, rất ít các NHTM cổ phần được tái cấp vốn. Cho đến n ăm 1997, lãi suất tái cấp vốn theo tỷ lệ phần trăm lãi suất cho vay trên dự án cho vay của các tổ chức tín dụng bằng từ 60% đ ến 100% lãi suất cho vay trên khế ước. Trong thực tế, mức lãi suất tái cấp vốn giảm liên tục từ 1,1% trong tháng cuối năm 1998 xuống 0,5% trong tháng cuối năm 1999. Bên cạnh việc cho vay tái cấp vốn theo quyết định số 285/QĐ - NH14, NHNN còn thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, thực chất đây là hình thức tái cấp vốn ngắn hạn của NHNN đối với các NHTM để bù đắp thiếu hụt tạm thời. Thời hạn cho vay thanh toán bù trừ tối đa không quá 10 ngày. Lãi suất cho vay thanh toán bù trừ hiện nay của NHNN đối với các NHTM là 0,06%/ngày đ ối với thời hạn từ 1 ngày đến 5 ngày và 0.09%/ngày đối với thời hạn từ 6 ngày đến 10 ngày. So với mức lãi suất tái cấp vốn hiện hành, mức lãi suất cho vay thanh toán bù trừ nêu trên là mức tương đối cao, khiến cho các NHTM phải bù đắp nhanh số vốn thiếu hụt trong thanh toán. Công cụ tái cấp vốn đã bước đầu hình thành cơ chế cho vay các NHTM trên cơ sở bù đắp thiếu hụt thanh toán, đáp ứng nhu cầu thiếu vốn cho của các NHTM nền kinh tế. Nó tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN, qua đó NHNN có thể kiểm soát được lạm phát. Việc cho vay thanh toán bù trừ đã hỗ trợ việc phát triển hệ thống thanh toán giữa các tổ chức tín dụng. Nhưng, công cụ tái cấp vốn còn chưa được thực hiện phổ biến mà chỉ sử dụng cho 4 NHTM quốc doanh. Trong đó, hơn 70% hoạt động tái cấp vốn là dành cho mục tiêu chỉ định của Chính phủ mà không xuất phát từ nhu cầu bổ sung vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, điều này đã phần nào gây hạn chế tính năng động của công cụ tái cấp vốn. Hiệu jực tác động của công cụ tái cấp vốn
  17. thấp, không có tác dụng kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ của các tổ chức tín dụng và cũng không có khả năng chi phối lãi suất của thị trường tiền tệ. c. Hạn mức tín dụng: Việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong thời gian qua đã góp phần kiểm soát mức độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán của NHNN, góp phần hạn chế lạm phát ở mức thấp và nâng cao chất lượng tín dụng. Trong đ iều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, NHNN chưa thể sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp nh ư thị trường mở, để kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán thì việc sử dụng công cụ này nhằm hạn chế hệ số nhân tiền tệ, nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết. Tuy nhiên công cụ này cũng có những hạn chế: Hạn mức tín dụng mới chỉ được phân bổ đối với một số NHTM làm hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Công cụ này chưa được điều chỉnh một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường, Phần nào làm ảnh hưởng đến việc đấp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, đến kinh doanh của các NHTM. Chính vì những hạn chế này, đến quý 2 năm 1998, NHNN đã không sử dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên mà chỉ sử dụng khi hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng. d. Công cụ lãi suất: Công cụ lãi suất được sử dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua về cơ bản đã thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, với cơ chế trần lãi suất cho vay vẫn còn những nhược điểm không còn phù hợp với diễn biến thị trường và làm giảm hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Trước hết, chính sách lãi suất hiện nay không còn làm cho lãi suất thực sự trở thành công cụ để NHNN kiểm soát khối lượng tiền tệ. Với cơ chế này, lãi suất chưa thực sự gắn liền với cung cầu vốn trên thị tr ường, cũng không phản ánh mức độ rủi ro của món vay và trong một chừng mực nhất định hạn chế khả năng kinh doanh của các NHTM, sự phát triển của hệ thống NHTM và cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ Thứ hai, mặt bằng lãi suất đã ở mức quá thấp gây khó khăn cho các NHTM trong việc huy động vốn, đặc biệt là vốn dài hạn.
  18. Vào năm 1999, lãi suất danh nghĩa thấp nh ưng lãi suất thực cao, do vậy xác định mức trần lãi suất cao hay thấp đều không đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên. Nếu lãi suất trần quy định đảm bảo lãi suất thực không cao thì có lợi cho doanh nghiệp, nhưng các NHTM s ẽ rất khó khăn trong hoạt động. Nếu đưa mức lãi suất đảm bảo cho các NHTM hoạt động bớt khó khăn thì mức lãi suất thực cao, điều đó s ẽ gây khó khăn cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp và việc mở rộng đầu tư tín dụng vốn đã khó khăn lại càng khó khăn. 2. Đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Việc sử dụng các công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ trong thập kỷ qua đã đem lại những thành công đáng kể khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động của các mục tiêu vĩ mô: tỷ lệ lạm phát ở mức độ một con số và tốc độ tăng trưỏng kinh tế đạt bình quân 8,6% /năm trong cùng thời kì. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện cụ thể về kinh tế, quản lý, khả năng và nhu cầu về vốn. Thế nhưng, nếu quan niệm: mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong thời gian qua, mục tiêu này vẫn chưa được thực hiện một cách hoàn hảo: tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán gây nên sự phân phối lại trong nền kinh tế. Trong năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục nhưng chỉ số giá cả CPI có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và cả trong năm 1999. Điều này chứng tỏ sự hạn chế trong hiệu quả tác động của các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp, thể hiện ở sự thiếu chủ động, linh hoạt và khả năng truyền dẫn tác động chậm chạp. Các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện dư thừa. Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các NHTM bắt đầu từ năm 1994 và kéo dài đén nay làm cho các NHTM phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn, đồng thời làm giảm hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ, đặc biệt là hiệu lực của công cụ tái cấp vốn. Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Điều này được thể hiện trong các năm 1998,1999 khi trần lãi suất cho vay_
  19. công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ_ giảm liên tục nhưng khối lượng tín dụng không tăng tương ứng, đồng thời giá cả và sản lượng giảm xuống liên tục. Các quyết định giảm trần lãi suất cho cay thường là bị động nhằm mục đích điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường và do đó chúng có tác dungj khẳng định xu hướng của thị trường hơn là hướng dẫn và dự báo xu hướng đó. Hiệu quả của chính sách tiền tệ thấp còn bởi vì nó chỉ sử dụng được kênh dẫn truyền duy nhất là qua NHTM_kênh tín dụng. Các kênh tác động khác qua lãi suất và thị trường tài chính chưa phát huy được là do thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chưa phát triển. Vì vậy tác động chủ yếu của chính sách tiền tệ vừa qua chủ yếu là thông qua tác động về khối lượng. Để khắc phục hạn chế này, bên cạnh việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các công cụ hiện có, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở thành nhu cầu cấp thiết. Công cụ này cho phép NHNN có thể điều tiết nhanh, linh hoạt và chủ động khối lượng tiền trung ương, từ đó tác động đến các khối tiền cung ứng khác. Vì vậy, hình thành thị trường mở trở thành mục tiêu của nhiều NHTW cũng như NHTW Việt Nam trong việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ. 3. Tác dụng của thị trường mở. a. Đối với chính phủ. Thị trường mở giúp Chính phủ thực thi chính sách tài chính quốc gia có hiệu quả. Các quyết định của Chính phủ về quản lý nợ và cân đối tiền có ảnh hưởng quan trọng tới nghiệp vụ thị trường mở. Kho bạc nhà nước thường đưa ra quyết định quản lý nợ còn NHTW lại liên quan đến dự trữ nhân hàng. Giữa hai bộ này thường có quan hệ với nhau tuỳ theo đặc điểm và hoạt động tài chính của mỗi nước khi NSNN bội chi, Bộ tài chính có thể phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp phần bội chi. Để duy trì sự rõ ràng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, các khoản nợ này thường được kho bạc bán ra dưới hình thức đấu giá tự do giups cho thị trường cạnh tranh có hiệu quả. Thông thường NHTW không có quyền xử lý tiền gửi của Chính phủ, nhưng ở hầu hết các nước, các
  20. quy định về quản lý nợ được dựa vào số liệu đầu vào chính thức và không chính thức của NHTW. Vì vậy, nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam sẽ giúp cho mối quan hệ giữa NHNN và Bộ tài chính được thống nhất, có hiệu quả, giúp thực hiện các chính sách kinh tế có hiệu quả. b. Đối với các tổ chức tín dụng. Nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản có của các ngân hàng khi tạo nên thị trường thứ cấp cho các tài sản tài chính mà nó nắm giữ. Điều này sẽ làm tăng dự trữ tiền mặt và tăng khả năng sinh lời của ngân hàng, góp phần cải thiện tình hình tài chính cho các ngân hàng. Mặt khác, yêu cầu về chủng loại và chất lượng các giấy tờ có giá đ ược giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư vào các giấy tờ có giá của các ngân hàng, từ đó mà cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, giảm bớt dự trữ không sinh lời và cải tạo bảng tổng kết tài sản. Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc áp dụng nghiệp vụ thị tr ường mở có ý nghĩa vô cùng quan trọng và công cụ trên thị trường mở cũng là vấn đề rất đáng quan tâm. II. Tính chất hàng hoá của công cụ ngắn hạn hiện nay ở Việt Nam. 1. Sự phát triển các loại giấy tờ có giá ngắn hạn ở Việt Nam: Cho đến nay các công cụ ngắn hạn ở Việt Nam còn rất đơn giản, đang còn ở giai đoạn đầu và chưa thể hiện tính chất đầy đủ vốn có của nó. Nổi trội hơn là các loại tín phiếu, trái phiếu kho bạc mà Kho bạc Nhà nước đã phát hành trong những năm qua. a. Tín phiếu kho bạc: Tín phiếu kho bạc là giấy vay nợ nhắn hạn của Kho bạc Nhà nước nhằm bù đăps bội chi Ngân sách Nhà nước. Thời gian của tín phiếu kho bạc thường là dưới 1 năm. Trong giai đoạn 1991 đến 1998, việc huy động vốn trong nước chủ yếu là dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ có thể được phát hành thông qua hình thức trực tiếp cho công chúng thông qua đấu thầu hay qua đại lý.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2