intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Biện pháp hạn chế và xử lý nợ khó đòi tại Ngân hàng TMCP Hàng hải chi nhánh Hà nội

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:72

142
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngân hàng là tổ chức tài chính tiền tệ quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là cầu nối giữa người đầu tư và người có nhu cầu sử dụng vốn, giữa các đơn vị kinh tế với nhau, thực hiện các quan hệ thanh toán uỷ thác, là người phân tích và thẩm địmh thông tin của các đơn vị, cá nhân của nền kinh tế với sự chuyên môn hoá cao. Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, trong những năm vừa qua ngành Ngân hàng Việt Nam đã và đang từng bước...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Biện pháp hạn chế và xử lý nợ khó đòi tại Ngân hàng TMCP Hàng hải chi nhánh Hà nội

  1. LUẬN VĂN: Biện pháp hạn chế và xử lý nợ khó đòi tại Ngân hàng TMCP Hàng hải chi nhánh Hà nội
  2. Lời mở đầu Ngân hàng là tổ chức tài chính tiền tệ quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng là cầu nối giữa người đầu tư và người có nhu cầu sử dụng vốn, giữa các đơn vị kinh tế với nhau, thực hiện các quan hệ thanh toán uỷ thác, là người phân tích và thẩm địmh thông tin của các đơn vị, cá nhân của nền kinh tế với sự chuyên môn hoá cao. Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, trong những năm vừa qua ngành Ngân hàng Việt Nam đã và đang từng bước vươn nên và có những đóng góp quan trọng, thiết thực vào sự nghiệp đổi mới chung của đất nước. Ngân hàng là ngành kinh tế đột phá khẩu, thực hiện nghị quyết đại hội VIII của Đảng " Chuyển mạnh chính sách tiền tệ và nhành Ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường, góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, hạn chế lạm phát, tăng trưởng huy động vốn và cho vay đạt hiệu quả.... ". Tuy nhiên trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình, các Ngân hàng thương mại gặp rất nhiều rủi ro ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà có sự tham gia cạnh tranh mạnh mẽ của các tổ chức tín dụng khác. Rủi ro tín dụng là mối đe doạ thường trực, đe doạ sự phát triển, gây đổ vỡ của không ít Ngân hàng, ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Mà biểu hiện của nó là nợ quá hạn, nợ khó đòi. Nguyên nhân gây ra nợ quá hạn, nợ khó đòi rất nhiều bao gồm từ phía Ngân hàng, từ người vay, từ cơ chế chính sách của Nhà nước, những rủi ro bất khả kháng khác. Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã và đang chỉ đạo các Ngân hàng thương mại xử lý nợ tồn đọng, làm lành mạnh hoá nền kinh tế tài chính đất nước. Đây cũng là điều kiện để Chính phủ tiếp nhận vốn vay của IMF, WB để cải cách đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam. Mục đích, nguyên tắc tối cao của xử lý nợ tồn đọng là thu hồi nợ, đồng thời xác định rõ các khoản nợ không có khả năng thu hồi để loại trừ ra khỏi bảng cân đối, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính, xác định rõ kết quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.
  3. Trong những năm vừa qua các Ngân hàng thương mại đã cố gắng xử lý nợ tồn đọng, tuy nhiên kết quả đạt được không đáng kể. Xử lý nợ tồn đọng chỉ bản thân Ngân hàng thương mại thì không thể làm nổi, xử lý nợ tồn đọng không chỉ là trách nhiệm của bản thân Ngân hàng thương mại mà là trách nhiệm của Nhà nước, nhiều bộ ngành liên quan. Điều này đòi hỏi phải có sự đổi mới cơ chế chính sách của nhiều ngành để làm giảm những cản trở quá trình xử lý nợ tồn đọng của các Ngân hàng thương mại. Hiện nay xử lý nợ tồn đọng đang là vấn đề bức súc, cần giải quyết ngay. Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Hàng hải chi nhánh Hà nội em nhận thấy Ngân hàng này không nằm ngoài tình hình chung của các Ngân hàng thương mại là tỷ lệ nợ tồn đọng tương đối lớn. Chính vì thế mà em chọn đề tài: "Biện pháp hạn chế và xử lý nợ khó đòi tại Ngân hàng TMCP Hàng hải chi nhánh Hà nội" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình. Kết cấu của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Nợ khó đòi và nguyên nhân Chương II: Nợ khó đòi và việc xử lý nợ khó đòi tại Ngân hàng TMCP Hàng hải Hà nội. Chương III: Giải pháp kiến nghị hạn chế, xử lý nợ khó đòi. chương i: nợ khó đòi và nguyên nhân 1.1 tín dụng ngân hàng 1.1.1 Khái niệm và bản chất tín dụng ngân hàng Theo quan niệm cổ điển, tín dụng được coi là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay với điều kiện hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả (gốc và lãi) lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi, các hình thức bảo đảm tín dụng, các điều kiện ràng buộc khác... Đối tượng chuyển nhượng bao gồm:
  4. - Hình thái hiện vật - hàng hoá, đó chính là việc kéo dài thời hạn thanh toán trong quan hệ mua bán. - Hình thái giá trị thực chất là việc " ứng trước" hay "đầu tư" trực tiếp bằng tiền(cho vay bằng tiền). Những điều kiện mà hai bên thường thoả thuận: - Khối lượng hàng hoá hay tiền tệ được chuyển nhượng. - Thời hạn sử dụng của người vay. - Thu nhập mà người cho vay được hưởng. - Những điều kiện ràng buộc nghĩa vụ hoàn trả của người đi vay. Những điều kiện này mà một trong hai bên không chấp nhận thì không thể hình thành quan hệ tín dụng. Như vậy tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản: - Sự chuyển nhượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng. - Sau một thời gian thu hồi; về mặt lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu, thu hồi đúng thời hạn cả gốc và lãi. - Việc chuyển nhượng trên cơ sở tin tưởng của người chuyển nhượng và người sử dụng. Ngoài ra, trong quan hệ tín dụng còn có những đặc trưng khác như khả năng rủi ro, tính bảo đảm quy luật cung cầu, cạnh tranh giá trị và quy luật lưu thông tiền tệ. Trong suốt sự phát triển lâu dài của tín dụng thì hình thức tín dụng Ngân hàng tỏ ra có ưu thế hơn là các hình thức tín dụng trước đó(tín dụng thương mại, tín dụng cho vay nặng lãi). Hình thức tín dụng Ngân hàng tỏ ra ưu thế bởi vì: - Nguồn vốn cho vay rất lớn vì đó là toàn bộ nguồn vốn huy động trong nền kinh tế. - Đây là hình thức tín dụng rất linh hoạt và hình thức vay mượn là tiền. - Hình thức tín dụng Ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và nó luôn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời.
  5. Ngân hàng thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tín dụng của nền kinh tế, nó hoạt động như một chiếc cầu nối liền khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội. Là trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng biện pháp kinh tế linh động và áp dụng các phương thức kỹ thuật hiện đại, tiên tiến Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ, tiết kiệm, dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi đúng lúc, phù hợp với nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành vốn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. 1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng. Đối với ngân hàng thương mại: Có thể thấy rằng trong bất kỳ ngân hàng nào, bất kỳ thời kỳ nào thì tín dụng ngân hàng cũng là hoạt động cơ bản và chiến tỷ trọng lớn nhất trong khoản mục tài sản nợ của ngân hàng và mang lại nguồn thu nhập lớn nhất trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. ở các nước Âu - Mỹ, tín dụng ngân hàng chiếm 60% - 70% tổng tài sản nợ của ngân hàng thương mại và mang lại 60% - 65% tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại. Còn ở nước ta, tín dụng ngân hàng chiếm 70% - 85% tổng tài sản nợ của ngân hàng thương mại và mang lại 70% - 80% tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại. Hoạt động tín dụng tạo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên ngân hàng, gắn chặt mối quan hệ giữa ngân hàng với các hoạt động trong nền kinh tế.Do vậy, tín dụng ngân hàng là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Đối với nền kinh tế: Tín dụng ngân hàng thúc đầy nền kinh tế phát triển. Tín dụng ngân hàng cung cấp vốn cho nền kinh tế nhờ đó các doanh nghiệp, các hộ sản suất mở rộng hoạt động sản suất kinh doanh, duy trì sự hoạt động sản xuất liên tục, thúc đẩy sản xuất
  6. kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Qua đó, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, đem lại thu nhập và nâng cao đời sống của nhân dân. Mặt khác, khi cấp bất kỳ khoản tín dụng nào thì các ngân hàng đều phải lựa chọn, thẩm định một cách chặt chẽ theo những phương pháp quy trình nhất định. Nhờ đó mà loại bỏ được những dự án sản xuất kimh doanh không hiệu quả, những gian lận kinh tế và lựa chọn được những dự án sản suất kinh doanh khả thi đem lại hiệu quả kinh tế. Chính vì vậy, tín dụng ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, góp phần tạo nên sự phát triển ổn định lâu dài của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh trong kinh doanh ngày càng gay gắt và khốc liệt, đã có những doanh nghiệp bị loại hoặc sắp bị loại khỏi vòng quay của nền kinh tế, chính lúc này vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện và bộc lộ rõ nét nhất; tín dụng ngân hàng là người góp sức để vực nên một số doanh nghiệp có khả năng kinh doanh nhưng còn thiếu vốn. Nhờ có hoạt động tín dụng ngân hàng mà sự cạnh tranh trong nền kinh tế ngày càng mạnh mẽ, thúc đẩy lỗ lực của từng thành phần trong nền kinh tế đi lên. Tín dụng ngân hàng là công cụ ghóp khần tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các đơn vị kinh tế. Một đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận chuyển trên cơ sở hoàn trả có lợi tức. Vì thế mà tín dụng phần nào phản ánh được kết quả sản xuất kinh của đơn vị. Hoạt động tín dụng ngân hàng đã và đang thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Việc tăng nhanh vòng quay tiền trong một chu kỳ kinh tế rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tín dụng ngân hàng cung cấp vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt kịp thời, giúp các hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, tăng nhanh vòng quay luân chuyển vốn, luân chuyển sản xuất hàng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Để "công nghiệp hoá hiện đại hoá" đất nước theo đúng mục tiêu của Đảng và nhà nước đặt ra, ngân hàng cần huy động thêm nhiều nguồn vốn cả trong và ngoài nước. Thông qua hoạt động tín dụng, nhà nước ta cần mở rộng hơn nữa quan hệ vay mượn nước ngoài, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ để qua đó thu hút thêm nguồn vốn đầu tư. Như vậy tín dụng ngân hàng là hoạt động quan trọng và không thể thiếu đối với nền kinh tế.
  7. 1.1.3 Nguyên tắc cấp tín dụng ngân hàng. Với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi kinh doanh đều có rủi ro tồn tại trong đó. Đối với ngân hàng thương mại cũng không ngoại lệ, nhất là trong hoạt động kinh doanh tín dụng. Đây là hoạt động rất quan trọng của ngân hàng thương mại, đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng thương mại nhưng tồn tại nhiều rủi ro. Do vậy đối với bất kỳ một khoản vay nào đều được Ngân hàng kiểm tra, xem xét, tuân thủ đúng nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ tín dụng. Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp dồng tín dụng với Ngân hàng. Đây là một trong các yếu tố mang tính quan trọng vì nó quyết định đến tính chất của khoản vay và phần lợi nhuận Ngân hàng thu về. Và là điều khoản quan trọng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng. - Người vay phải hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Việc trả tiền vay đúng thời hạn là yếu tố thể hiện khoản vay chất lượng tốt. Để đánh giá khả năng trả nợ của người vay Ngân hàng đánh giá theo các chỉ tiêu sau: + Thông qua ngiên cứu hồ sơ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước đây. + Thông qua nghiên cứu đề án sản xuất kinh doanh của người vay trình ngân hàng. + Xem xét các kế hoạch trả nợ gốc và lãi khoản vay cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay sau khi ngân hàng giải ngân để đặt ra các điều khoản hoàn trả phù hợp hơn. + các chỉ tiêu khác..... - Hình thức bảo đảm phù hợp. Thông qua các hình thức bảo đảm Ngân hàng hạn chế được các rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Hình thức bảo đảm có thể bằng tài sản thế chấp hay uy tín của người vay, trong một số trường hợp có thể Ngân hàng
  8. không cần có hình thức bảo đảm mà thay vào đó Ngân hàng đặt ra các điều khoản ràng buộc tăng cường các việc kiểm soát của Ngân hàng đối với người vay vốn. 1.1.4 Rủi ro tín dụng ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng nên nó cũng như các doanh nghiệp khác đều có thể gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Rủi ro ngân hàng có thể là những biến cố không mong đợi xảy ra gây mất mát, thiệt hại về tài sản cho Ngân hàng. Đặc biệt do hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thường phải đối mặt với rủi ro, nhiều nhất là rủi ro tín dụng. Đó là tình trạng người đi vay hoàn trả không đúng hạn hay không có khả năng hoàn trả một phần hay toàn bộ khoản vay Ngân hàng bao gồm cả gốc lẫn lãi. Ngoài những rủi ro như các ngành kinh tế, Ngân hàng còn chịu rủi ro khi các đơn vị kinh tế vay vốn Ngân hàng gặp rủi ro do làm ăn thua lỗ, không trả được vốn vay cho Ngân hàng. Tất cả các khoản vay, đầu tư chứng khoán, tín dụng tương tự đều có khả năng gây rủi ro cho Ngân hàng. Ngay cả các hoạt động ngoài bảng quyết toán như các giao dịch hối đoái, bảo lãnh tín dụng, hợp đồng trao đổi lãi suất..... cũng không nằm ngoài tác động gây rủi ro cho hoạt động Ngân hàng. Tất cả các khoản tín dụng này, nếu đến kỳ hạn mà khách hàng không trả được nợ đều gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng, hình thành các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Các khoản nợ quá hạn ( Nếu trong thời hạn nhất định mà khách hàng không thể trả được nợ dẫn tới các khoản nợ khó đòi) sẽ buộc ngân hàng phải đưa ra các biện pháp hữu hiệu để thu hồi các khỏn vốn này. Rủi ro tín dụng thường có 2 loại: - Rủi ro sai hẹn là do khách hàng không trả đúng hạn. - Rủi ro mất vốn là do khách hàng không trả được tiền vay
  9. Cho dù với bất cứ loại rủi ro nào thì các Ngân hàng cũng luôn tìm mọi cách để hạn chế rủi ro xảy ra và một khi xảy ra sẽ có thể xử lý được nó. Một trong các biện pháp chính là bảo đảm an toàn tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 1.2 nợ khó đòi và nguyên nhân 1.2.1 Nợ khó đòi Nợ khó đòi là khoản nợ mà khách hàng không có khả năng chi trả cho Ngân hàng sau một thời gian kết thúc hợp đồng tín dụng. Theo luật Ngân hàng hiện nay, nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấu là khoản nợ đã quá hạn 360 ngày và dư nợ tiền vay tuy chưa quá hạn vay nhưng đã xác định là bị mất (người vay chết, mất tích, doanh nghiệp phá sản, bị giải thể, bị khách hàng lừa đảo....). Ngoài ra, một bộ phận của khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng phải trả nợ thay cho khách hàng trong các khoản bảo lãnh mở thế chấp nhập hàng trả chậm cũng coi là nợ khó đòi. Đối với những khoản nợ mà Ngân hàng phát hiện người vay không tuân thủ các hợp đồng tín dụng, có ý lừa đảo chiếm dụng vốn Ngân hàng trong thời gian sử dụng vốn thì cũng coi như nợ khó đòi. Những dấu hiệu nhận biết một khoản vay có vấn đề có thể dẫn tới nợ khó đòi: - Kỳ hạn của khoản vay bị thay đổi liên tục. - Tỷ lệ đòn bẩy (nợ) trên vốn cổ phần tăng. - Thất lạc các tài liệu - Tài sản thế chấp không đủ tiêu chuẩn. - Không có báo cáo hay dự đoán về dòng tiền, trì hoãn trong việc cung cấp các thông tin cho Ngân hàng. - Độ lệch giữa doanh thu dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay. - Khách hàng hoạt dộng thua lỗ trong một hoặc nhiều năm, đặc biệt thể hiện trên các chỉ số ROA, ROE, EBIT. - Những thay đổi bất thường, ngoài dự kiến và không được giải thích trong số dư tiền gửi của khách hàng.
  10. - Sự gia tăng của tài sản tồn kho, các khoản chịu chưa thu tiền, tài khoản ở ngân hàng luôn rút quá số dư. - Các dấu hiệu khác. Từ việc nhận biết các đấu hiệu trên, Ngân hàng cần thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn nhằm hạn chế tối đa khả năng rủi ro có thể xảy ra. Khi phát hiện các khoản vay có vấn đề có thể phát sinh nợ khó đòi, Ngân hàng sẽ giao việc thu hồi nợ cho những chuyên gia thu hồi nợ. Những người này sẽ điều tra tìm ra nguyên nhân và tìm các giện pháp xử lý thích hợp nhằm thu hồi vốn đến mức tối đa có thể. 1.2.2 Phân loại nợ khó đòi. Nợ khó đòi là điều kiện không lành mạnh của quá trình hoạt động tín dụng của các NHTM, báo hiệu sự rủi ro đối với khách hàng và Ngân hàng. Nợ khó đòi có nhiều hình thức khác nhau, căn cứ vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân chúng thành các loại sau: Căn cứ vào khả năng thu hồi: - Nợ khó đòi có khả năng thu hồi 100%(rất ít). - Nợ khó đòi thu hồi được một phần. - Nợ khó đòi mất trắng hoàn toàn. Căn cứ vào mức độ đảm bảo: - Nợ khó đòi được bảo đảm một phần: giá trị TSTC, cầm cố còn một phần giá trị. - Nợ khó đòi không được đảm bảo: không có tài sản đảm bảo, người vay chết, mất tích, doanh nghiệp phá sản, giải thể... Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng để từ đó đề ra các biện pháp xử lý phù hợp. 1.2.3 Nguyên ngân gây nên nợ khó đòi.
  11. Nguyên nhân gây nợ khó đòi trong kinh doanh tín dụng rất nhiều, rất đa dạng, song nhìn chung chúng có thể được xếp vào các nguyên nhân chính sau: Vốn tín dụng ngân hàng bao cấp cho doanh ngiệp Nhiều doanh ngiệp hoạt động bằng vốn vay NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động. Chúng ta biết rằng vốn tín dụng NHTM, bản thân nó mang tính chất ứng trước cho doanh nghiệp hạt động liên tục và chỉ mang tính bổ xung, nhưng tính ứng trước càng trực tiếp, số tiền ứng trước càng lớn thì rủi ro vốn vay càng nhiều. Có thể nói, hầu như các chi phí sản xuất hoặc dự trữ hàng hoá , dịch vụ của doanh nghiệp không tiêu thụ được, NHTM cho vay vốn sẽ không thu hồi được nợ. Vốn ngân hàng bị đọng, thế rồi giãn nợ, khoanh nợ, miễn giảm lãi suất...Ngân sách giảm, NHTM phải trích dự phòng rủi ro, vừa giảm cho thu nhập cho cán bộ ngân hàng, vừa giảm thuế thu nhập cho ngân sách Nhà nước.Tính bao cấp thể hiện rất rõ ở chỗ này. NHTM sử dụng vốn huy động không hợp Nhiều NHTM nhất là NHTM quốc doanh dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn cả các doanh nghiệp quốc doanh lẫn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhiều NHTM còn cho vay trung và dài hạn bằng ngoại tệ huy động ngắn hạn. Doanh nghiệp sử dụng khoản vay này để nhập thiết bị máy móc lạc hậu hoặc giá quá cao. Dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp không có khả năng trả nợ ngân hàng, tất nhiên phải xỷ lý tình thế, nên thời hạn nợ càng bị kéo dài hơn, trong khi đó có một phần nợ là vốn huy động ngắn hạn. Do đó gây tiềm ẩn rủi ro thanh khoản cho NHTM. NHTM cho vay nhận TSTC là bất động sản Hầu hết các NHTM khi cho vay đều nhận TSTC là bất động sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ( nhà xưởng, công trình,..). Tuy nhiên khi phát sinh nợ quá hạn buộc phải xử lý TSTC thì việc phát mại xử lý gặp khó khăn nhiều khi không thể giải quyết được do: + Thủ tục pháp lý rất phức tạp tốn nhiều thời gian.
  12. + Hồ sơ giấy tờ TSTC là quyền sử dụng đất không rõ ràng; nhiều mảnh đất không phân biệt rõ ràng giữa người sở hữu, chủ quản với người quản lý sử dụng, rất nhiều mảnh đất có giấy tờ xác minh không rõ ràng (có trường hợp mảnh đất đã đem thế chấp vay vốn Ngân hàng với giấy tờ pháp lý đầy đủ, song người vay vẫn bán được mảnh đất đó, khi Ngân hàng tiến hành điều tra thì chủ mới vẫn có giấy tờ về quyền sử dụng đất hoàn toàn hợp lệ. ) + Giá trị đánh giá tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất quá cao; sự sụt giảm giá đất . Điều này dẫn tới việc khi khách hàng không có khả năng trả nợ Ngân hàng buộc Ngân hàng phải phát mãi TSTC thì không thể thu hồi đủ vốn, hoặc không bán Ngân hàng không có khả năng kinh doanh. Nếu nhận lại tài sản thế chấp là bất động sản, NHTM không có nguồn vốn để hạch toán mua tài sản thì nợ quá hạn tăng vì không thể hạnh toán kế toán nội bảng được + Trong một số trường hợp NHTM cho vay với TSTC là giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất. Trong trường hợp người vay không trả nợ Ngân hàng thì Ngân hàng không thể thu hồi được vốn bằng việc quản lý mảnh đất đó, hoặc đến một thời gian sau đó chia lại rưộng đất thì có thể Ngân hàng mất trắng quyền quản lý mảnh đất đó. Cho vay có giá trị vật tư tương đương. Các NHTM cho vay còn lấy giá trị vật tư, tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản đảm bảo tiền vay. Đây là một trong những nguyên nhân tạo nên nợ khó đòi cho NHTM, vì giá cả luôn luôn có xu hướng biến động giảm, do cạnh tranh về mẫu mã và tính năng của hàng hoá luôn được nâng cao... Cho vay, nhận TSTC mà pháp luật cấm Điều này ít khi xảy ra nhưng không phải là không có. Nguyên nhân chính là do năng lực của cán bộ tín dụng ngân hàng kém. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp nhà nước đem tài sản của Nhà nước ra cầm cố thế chấp vay vốn Ngân hàng (như các mảnh đất thuộc sở hữu nhà nước) thì Ngân hàng không có quyền quản lý sử dụng mảnh đất đó khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Luật pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: "Tài sản của Đảng cộng sản Việt Nam là tài sản bất khả xâm phạm".
  13. 1.2.4 Tác hại của nợ khó đòi. Đối với NHTM Một khi ở NHTM có các khoản nợ khó đòi chiếm tỷ lệ cao sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Từ những khoản vay mà không đòi lại được sẽ dẫn tới tình trạng mất vốn, giảm lợi nhuận, huy động tiền gửi sẽ tụt giảm nhanh. Khi có nợ khó đòi xảy ra sẽ làm Ngân hàng không thu hồi được vốn, vòng quay vốn tín dụng chậm, tốc độ chu chuyển vốn giảm sẽ dẫn tới giảm hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh. Nợ khó đòi còn làm Ngân hàng phải tăng chi phí, mất nhiều thời gian công sức để xử lý, giải quyết và quan trọng hơn là giảm khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Những khoản nợ khó đòi không thể thu hồi được ngân hàng phải trích vốn chủ sở hữu ra để bù lỗ, vì thế làm giảm vốn chủ sở hữu của Ngân hàng. Nợ khó đòi phát sinh làm giảm tỷ trọng vốn chủ sở hữu của Ngân hàng trong tổng nguồn vốn, Ngân hàng không đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho hoạt động kinh doanh do phải trích dự phòng rủi ro. Điều này dẫn tới tình trạng Ngân hàng kinh doanh trong vòng nguy hiểm. Trong nhiều trường hợp nợ khó đòi là nguyên nhân chính dẫn tới sự phá sản của không ít NHTM. Rủi ro tín dụng mà cụ thể là do nợ khó đòi gây nên là rủi ro chính dẫn tới sự phá sản ngân hàng. Đối với nền kinh tế Nền kinh tế gồm nhiều các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ buôn bán... Khi vốn tín dụng đến tay họ nếu sử dụng không tốt sẽ làm giảm lợi nhuận gây nợ quá hạn, trong nhiều trường hợp gây nên nợ khó đòi. Một khi xảy ra tình trạng này sẽ làm cho nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế nói riêng có các tác động xấu: Làm giảm hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, ngăn cản NHTM thực hiện chức năng trung gian và cung cấp vốn cho nền kinh tế, gây tình trạng rối loạn lưu thông tiền tệ. Một ngân hàng có tỷ trọng nợ khó đòi lớn có thể dẫn tới sự sụp đổ của Ngân hàng đó. Sự sụp đổ của một NHTM trong hệ thống các NHTM tác động đe doạ sự tồn tại của các NHTM khác nhiều khi có thể kéo theo sự sụp đổ dây truyền của nhiều NHTM trong cùng hệ thống. Sự sụp đổ này sẽ làm rối loạn lưu thông tiền tệ,
  14. dẫn tới đình trệ sản xuất kinh doanh, gây khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Sự tác động này không chỉ ảnh hưởng tới phạm vi quốc gia mà nó còn ảnh hưởng tới nền kinh tế các quốc gia có liên quan, ảnh hưởng tới nền tài chính thế giới. 1.3 Một số phương pháp xử lý nợ khó đòi 1.3. ý nghĩa của việc xử lý nợ khó đòi. Đối với ngân hàng : Xử lý nợ khó đòi sẽ giúp các NHTM khơi thông được nguồn vốn, tạo điều kiện cho nguồn vốn bị ứ đọng phát huy được tác dụng của nó, mang lại lợi ích cho Ngân hàng. Việc xử lý nợ khó đòi sẽ giúp các Ngân hàng thu hồi được một phần lượng vốn đã mất do khách hàng không trả được nợ và giảm được chi phí cho nguồn vốn cho vay không thu lãi nhưng vẫn trả lãi cho phần tiền gửi của dân chúng, các nguồn vốn này có thể đầu tư vào các dự án khác mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Hơn nữa xử lý nợ khó đòi hay nói cách khác là xử lý các tài sản thế chấp giúp các Ngân hàng thương mại giảm được chi phí do việc bảo quản, bảo dưỡng tài sản thế chấp khi các tài sản này phải ngừng hoạt động để đưa vào thu nợ. Việc xử lý được các khoản nợ khó đòi là một biện pháp tạo đà đẩy nhanh tiến trình lành mạnh hóa hoạt động tài chính của các tổ chức tín dụng. Đối với những khoản nợ khó đòi không có khả năng thu hồi, thì Ngân hàng loại ra khỏi bảng tổng cân đối tài sản và trích dự phòng rủi ro ra để bù đắp, qua đó làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi và là điều kiện cần thiết giúp Ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh một cách bình thường. Đối với khách hàng Tâm lý khách hàng vay vốn Ngân hàng đều muốn kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận để trả nợ Ngân hàng. Không ai muốn rủi ro để phải trở thành con nợ vay vốn Ngân hàng không có khả năng trả nợ. Ngân hàng xử lý được nợ khó đòi sẽ giúp khách hàng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của mình, qua đó giảm nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng. Và điều quan tọng hơn giúp các khách hàng tránh phải ra hầu toà do không trả nợ được Ngân hàng. Như vậy khách hàng vẫn giữ được uy tín, đặc biệt là các khách hàng lớn. Trong kinh doanh uy tín là điều tối quan trọng và là tài sản vô hình phải mất nhiều thời gian công sức mới tạo nên được. 1.3.2 Tài sản đảm bảo, vai trò của tài sản đảm bảo.
  15. Tài sản đảm bảo là tài sản được người đi vay dùng để bảo đảm cho khoản vay của mình tại Ngân hàng bằng cách trao cho Ngân hàng giấy tờ sở hữu tài sản hoặc trao tài sản cho Ngân hàng và xác nhận quyền phát mại tài sản khi khách hàng không trả được nợ. Muốn dùng tài sản để thế chấp Ngân hàng vay vốn thì trước hết phải có quyền sở hữu tài sản đó. Quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể là cá nhân, thể nhân hoặc các chủ thể khác. Tuy nhiên không phải bất kỳ tài sản nào cũng có thể đem thế chấp Ngân hàng làm tài sản đảm bảo, nó tuỳ thuộc vào quy định của pháp luật và khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh nhất, dễ dàng nhất, ít chịu tác động của ngoại cảnh, ít bị giảm giá trị theo thời gian.... Đối với Ngân hàng việc nắm giữ tài sản đảm bảo nhằm đáp ứng được các mục tiêu: Nếu người vay không có khả năng trả thì Ngân hàng có quyền thu giữ tài sản để bán tài sản thu hồi nợ và tạo tâm lý an tâm cho khoản tiền mình cho vay. Bởi vì với người vay do bị nắm giữ tài sản nên họ cảm thấy cần phải làm việc tích cực hơn để thanh toán khoản nợ của mình tránh khả năng bị mất tài sản có giá trị. Mục tiêu của việc Ngân hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là nhằm xác định rõ những tài sản mà Ngân hàng có thể phong toả và bán, đồng thời thông báo cho các tổ chức khác biết Ngân hàng có quyền hợp pháp trong việc phát mại tài sản nếu khách hàng không có khả năng hoàn trả khoản vay. Ngân hàng là chủ nợ ưu tiên đối với giá trị thu được từ việc phát mại tài sản thế chấp. Đây là nguồn thu hồi vốn thứ hai của Ngân hàng. Tuy nhiên không được quá xem trọng tài sản thế chấp khi xét duyệt cấp tín dụng mà điều quan trọng là phải thẩm định chắc chắn tính khả thi của dự án kinh doanh khách hàng trình Ngân hàng. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp dự án kinh doanh của khách hàng rất khả thi và gần như chắc chắn đem lại lợi nhuận nhưng khách hàng lại không có hình thức bảo đảm nào và bị Ngân hàng từ chối. Điều đó không chỉ mất cơ hội kinh doanh của khách hàng mà còn cả của Ngân hàng nữa. 1.3.2 Các hình thức bảo đảm tín dụng Ngân hàng.
  16. Bảo đảm tín dụng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nhìn chung có thể chia thành hai loại: Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật. Boả đảm đối nhân: Với hình thức này Ngân hàng có thể cho khách hàng vay dựa trên những khả năng của khách hàng không cần đưa bất kỳ tài sản nào bảo đảm cho khoản vay mà thay vào đó là bảo đảm bằng uy tín của khách hàng hoặc uy tín hay cam kết trả nợ thay khách hàng của người thứ ba. * Bảo đảm bằng uy tín - hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức Ngân hàng cho khách hàng vay dựa vào uy tín của người vay mà không cần trao cho Ngân hàng bất kỳ tài sản nào làm tin. Để thực hiện được hình thức này Ngân hàng cần xem xét khách hàng trên các khía cạnh sau: Tình hình tài chính của khách hàng, khả năng thanh toán các khoản nợ, năng lực kinh doanh, năng lực quản lý, lợi nhuận, sự kinh doanh phát triển và ổn định... Mặt khác còn được thể hiện về tín nhiệm trong việc thanh toán các khoản nợ trước đây, luôn có số dư tiền gửi lớn tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể kiểm soát được tình hình tài chính của khách hàng một cách liên tục. Để vay được những tiền Ngân hàng dưới hình thức này thông thường người vay phải thực hiện rất nhiều những điều kiện ràng buộc từ phía Ngân hàng để tránh việc kinh doanh mạo hiểm của khách hàng có thể dẫn tới rủi ro. Hình thức bảo đảm này thúc đẩy mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa Ngân hàng và khách hàng, giảm bớt được chi phí cũng như quy trình tín dụng khi thực hiện khoản vay. Tuy nhiên khả năng xảy ra rủi ro đối với Ngân hàng lớn. * Bảo lãnh Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là việc người thứ ba (pháp nhân hoặc thể nhân gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện trả thay cho bên vay vốn (bên được bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không trả toàn bộ hay một phần nợ cho bên nhận bảo lãnh (gốc, lãi và lãi phạt) khi hết thời hạn hợp đồng tín dụng. Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh bằng tài sản ( cầm cố, thế chấp) hay bằng uy tín của mình.
  17. Hình thức bảo lãnh trong hoạt động Ngân hàng ở nước ta chủ yếu do các Ngân hàng thương mại đảm bảo cho khách hàng tham gia các dự án xin vay ở các Ngân hàng khác hoặc bảo lãnh cho một Ngân hàng khác. Bảo đảm đối vật Bảo đảm đối vật là hình thức bảo đảm tín dụng mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởmg một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường họp con nợ không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ một phần hay toàn bộ khoản nợ vay. Ngân hàng thực hiện việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản dưới hai hình thức: cầm cố và thế chấp. * Cầm cố Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn (bên cầm cố) có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay ( bên nhận tài sản cầm cố) để thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồn nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn). Nếu tài sản mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn gửi tài sản cầm cố và giao bản gốc giấy tờ quyền tài sản thế chấp để vay vốn. * Thế chấp Thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn dùng tài sản của mình là bất động sản hoặc một số động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và lãi phạt quá hạn ) đối với bên cho vay. Tài sản dùng để thế chấp là bất động sản hoặc một số động sản nhất định được quy định rõ với thời hạn bất kỳ (tàu biển, máy bay...). Đối với thế chấp Ngân hàng bao giờ cũng nắm giữ giấy tờ sở hữu gốc, mà không nắm giữ tài sản. Tài sản thế chấp vẫn thuộc quyền nắm giữ và sử dụng của người vay. ở hình thức này chi phí lưu trữ bảo quản tài sản không có và Ngân hàng rễ ràng có thể thực hiện được hình thức này. 1.3.3 Quan điểm sử lý nợ khó đòi.
  18. Việc xử lý nợ khó đòi là vấn đề khó khăn phức tạp đòi hỏi phải thận trọng, lựa chọn phương pháp xử lý thích hợp trong từng trường hợp nhất định để xử lý. Để đảm bảo tính khả thi cao của các giải pháp đòi hỏi phải quán triệt các quan điểm. * Các giải pháp phải có tính dân chủ và xã hội hoá cao. Dưới sự chỉ đạo của chính phủ các giải pháp phải thống nhất từ luật pháp, cơ chế, chính sách, đến tổ chức thực hiện. Điều đó đòi hỏi phải có sự hợp tác đầy đủ của các cơ quan Nhà nước, các bộ ngành liên quan, sự thống nhất, nhất trí quyết tâm của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, các nhóm khách hàng cũng như của nhân dân. Phá bỏ quan điểm cục bộ, thiếu trách nhiệm, các giải pháp phải có sự củng cố, tăng cường lòng tin của dân chúng. * Các giải pháp xác định được phạm vi mục tiêu lâu dài để áp dụng và động viên thu hút sự tham gia xử lý ở phạm vi rộng. * Các giải pháp phải mang tính đa dạng, có khả năng kết nối liên hoàn, tôn trọng quyền lựa chọn của các bên và xử lý được nhiều tình huống. * Các giải pháp phải hướng tới việc tăng cường hiệu lực pháp lý Nhà nước đặc biệt là NHNN, quy định các điều kiện bảo đảm tính an toàn các nghiệp vụ và ổn định toàn hệ thống, khung giám sát và luật lệ cần được củng cố lại, giảm dần công cụ quản lý trực tiếp thay vào đó các công cụ quản lý gián tiếp. 1.3.4 Phương pháp xử lý nợ khó đòi. Việc áp dụng phương thức nào xử lý nợ khó đòi phụ thuộc vào từng trường hợp, từng khoản nợ cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Tuy nhiên các Ngân hàng đều phân chia nợ khó đòi thành các dạng khác nhau theo các căn cứ khác nhau. Từ đó đưa ra các phương thức xử lý khác nhau. Căn cứ vào khả năng có thể đòi được nợ thì ngân hàng chia nợ khó đòi thành: - Nợ khó đòi còn tài sản đảm bảo và có khả năng thu hồi được nợ hoàn toàn hay một phần. - Nợ khó đòi không còn tài sản đảm bảo, con nợ vay vốn vẫn còn tồn tại đang hoạt động, vẫn nhận nợ, tuy nhiên trong thời gian hiện tại không có khả năng trả đủ hay một phần nhất định cho Ngân hàng.
  19. - Nợ khó đòi không còn tài sản đảm bảo, không có đối tượng để thu nợ (con nợ chết, mất tích, giải thể, phá sản....). Trong trường hợp này khoản cho vay đã bị mất trắng, Ngân hàng không có nguồn nào nữa để thu nợ. Vì thế Ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất. Việc trích dự phòng rủi ro để bù đắp làm cho Ngân hàng giảm lợi nhuận nhiều khi còn bị thua lỗ. Nếu dư nợ tín dụng bị rủi ro lớn thì có thể làm giảm rất lớn tới vốn chủ sở hữu của Ngân hàng. Do đó mà Ngân hàng buộc phải giảm tổng tài sản để đảm bảo an toàn kinh doanh cần thiết. Trong nhiều trường hợp nợ khó đòi không thể thu hồi dẫn tới sự phá sản của Ngân hàng. Đối với nợ khó đòi thuộc nhóm thứ hai tức là vẫn còn đối tượng để trả nợ nhưng khách hàng vay vốn đang gặp khó khăn về tài chính cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh và các khó khăn khác. Trong trường hợp này đa phần tài sản thế chấp đều bị giảm giá trị. Việc phát mại tài sản thu được khoản nợ nhỏ. Ngân hàng cần điều tra tìm hiểu nguyên nhân, những nhân tố ảnh hưởng tới việc khó khăn của doanh nghiệp để từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp. Cán bộ Ngân hàng phải coi mình như là người của doanh nghiệp, cùng doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn. Đối với nợ khó đòi còn tài sản đảm bảo, việc xử lý nợi khó đòi thực chất là xử lý tài sản thế chấp . Trong trường hợp đã đến thời hạn thực nghĩa vụ mà bên thế chấp không thực hiện đúng nghĩa vụ. Thì bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản đem thế chấp. Ngân hàng có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp. Với những tài sản có giá trị nhỏ, Ngân hàng có thể trực tiếp quản lý tài sản đó. Khi đó việc xử lý tài sản thế chấp là do Ngân hàng, Ngân hàng trực tiếp đứng ra phát mại tài sản, Ngân hàng được phép ưu tiên thanh toán số tiền từ việc phát mại tài sản thế chấp, sau khi trừ đi chi phí bảo quản, bán đấu giá. Với những tài sản lớn, có giá trị cao theo quy định của pháp luật thì sẽ do cơ quan trung gian đứng ra quản lý. Khi xử lý tài sản thế chấp, Ngân hàng phải gửi đơn kiện nên cơ quan có thẩm quyền để đòi xử lý bồi thường. Ngoài ra, Ngân hàng có thể áp dụng các hình thức khác như: để bên thế chấp tự đứng ra bán tài sản, hai bên cùng bán tài sản, uỷ quyền cho tổ chức tín dụng khác bán tài sản....
  20. Trong trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn (Bên vay vốn mặc dù chưa đến thời hạn kết thúc hợp đồng tín dụng nhưng đã đang bị giải thể phá sản buộc phải xử lý tài sản thế chấp.), thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn nhưng cũng coi như đến hạn. Thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự đăng ký tài sản thế chấp. Đối với quyền sử dụng đất đã thế chấp Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp quyền sử dụng đất mà bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì quyền sử dụng đất được xử lý. Trong trường hợp đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng đã thế chấp Ngân hàng thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nược có thẩm quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi. Trong trường hợp đất đã thế chấp với tổ chức kinh tế, cá nhân thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2