intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:74

100
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp nhà nước tại sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
  2. LỜI MỞ ĐẦU Nước ta đang trong thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất của một nền sản xuất lớn, hiện đại nên nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế là rất cao. Trong khi đó, tuy thị trường chứng khoán ở nước ta đã ra đời nhưng việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chưa nhiều, do đó, nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế chủ yếu vẫn do hệ thống ngân hàng thương mại, trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh cấp. Đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị thế của mình trong hệ thống các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng. Đối với các ngân hàng, hoạt động này đóng góp không nhỏ vào tổng lợi nhuận của ngân hàng. Đối với các Doanh nghiệp nhà nước, nó đáp ứng vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước để họ thực hiện vai trò to lớn của mình: là lực lượng mở đường, hỗ trợ và định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế- xã hội; góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và đặc biệt sẽ là lực lượng quan trọng để Nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Hoạt động trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn một số mặt hạn chế, do đó chưa phát huy được hết khả năng to lớn của mình. Với ý nghĩa này, việc tìm hiểu về tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động này là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy, em xin lựa chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Em xin trình bày bố cục luận văn thành 3 chương:
  3. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Chương 2: Thực trạng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (SGD NHĐT&PTVN). Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
  4. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN 1.1.1. KHÁI NIỆM TÍN DỤNG Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế thì thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:  Xét trên giác độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.  Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.  Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.  .... Như vậy có nhiều cách hiểu về “ tín dụng”, tuy nhiên theo quan điểm của em thì tín dụng có thể được hiểu là: sự vay mượn hoặc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng. Căn cứ vào hai tiêu thức là chủ thể và đối tượng tín dụng thì quan hệ tín dụng gồm có các loại hình: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế. Trong mỗi loại hình này, tín dụng lại được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu, em chỉ xin đề cập đến “tín dụng” gắn liền với chủ thể nhất định là ngân hàng. Theo đó, tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ (cho vay) của ngân hàng cho khách hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
  5. khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Tín dụng ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau. Trong đó, phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian thì tín dụng được phân thành:  Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.  Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm (theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam), tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn, mở rộng sản xuất kinh doanh hay để xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.  Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm, nhiều trường hợp đặc biệt có thể lên đến 40 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Ở các nước khác nhau, những ngân hàng khác nhau có thể có những cách quy định khác nhau về thời gian trung và dài hạn.
  6. 1.1.2. PHÂN LOẠI TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng nó lại rất quan trọng vì nó là cơ sở khoa học để thiết lập quy trình tín dụng một cách thích hợp đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng. Cũng như tín dụng nói chung, ta có thể phân chia tín dụng trung và dài hạn theo những tiêu thức khác nhau: - Căn cứ vào loại khách hàng:  Cấp tín dụng cho doanh nghiệp: Ngân hàng cấp tín dụng cho những tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Quy mô của hầu hết các khoản vay này là lớn, lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường.  Cấp tín dụng cho cá nhân: các cá nhân có thể sử dụng vốn vay từ ngân hàng nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng nhưng chủ yếu là để tiêu dùng. Quy mô khoản tín dụng thường nhỏ hơn so với khoản cấp cho các doanh nghiệp, lãi suất thường “cứng nhắc” và cao.  Cấp tín dụng cho các đơn vị khác: các đơn vị như các tổ chức xã hội cũng cần vốn với nhiều mục đích khác nhau, để giải quyết sự thiếu hụt vốn họ cũng có thể vay từ ngân hàng. - Căn cứ vào tính chất đảm bảo:  Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp: Để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng của mình phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp. Và trên nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có đảm bảo.  Tín dụng không đảm bảo bằng tài sản (Gồm: tín chấp và bảo lãnh bằng uy tín). Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, trung thực trong kinh doanh, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình
  7. hình tài chính vững mạnh, quản trị có hiệu quả, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. - Căn cứ vào mục đích sử dụng:  Cho vay kinh doanh: các cá nhân, tổ chức vay vốn từ ngân hàng để mở rộng sản xuất; đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mới...nhằm tăng lợi nhuận, nâng cao doanh số...chứ không phải để thỏa mãn các nhu cầu (ăn, mặc...) của cá nhân.  Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là một nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình, xe cộ, du lịch, giáo dục, y tế...Việc cho vay tiêu dùng giúp các ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi cho ngân hàng đồng thời tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng. Với người tiêu dùng, nhờ vay tiêu dùng mà họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt quan trọng hơn là nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế. - Căn cứ vào phương thức quản lý:  Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Tức là trong loại tín dụng này có mối quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng trong toàn bộ quá trình từ khi nộp hồ sơ vay vốn, phân tích thẩm định, ra quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ... đến khi thanh lý hợp đồng vay.  Tín dụng gián tiếp: khác với tín dụng trực tiếp là có sự tham gia của các tổ chức trung gian trong toàn bộ tiến trình cho vay. Các tổ chức trung gian có thể là: Tổ,
  8. đội, hội, nhóm (Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân...); hay những người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Hình thức này có rất nhiều ưu điểm: giảm thời gian, chi phí đi lại trong việc làm thủ tục vay của người vay vốn, đồng thời thông qua các hội, tổ, nhóm thì người vay sẽ được phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm quản lý vốn, giúp người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đạt kết quả, tránh rủi ro trong quá trình kinh doanh... Đối với ngân hàng, ngân hàng sẽ chủ động chuẩn bị vốn để cho vay, sắp xếp lịch giải ngân hợp lý, tránh ùn tắc hay quá tải vào cao điểm vụ sản phẩm. Tuy nhiên, hình thức cho vay này bộc lộ khuyết điểm là các trung gian có thể lợi dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình. - Căn cứ vào mức độ rủi ro: Xem xét về mặt rủi ro hay tính an toàn, tín dụng có thể ở các “cung bậc” khác nhau: khoản có mức độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Xếp loại tín dụng theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao, nhiều ngân hàng có thể chia tới rất nhiều thang bậc rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đồng thời để đánh giá chất lượng tín dụng.  Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.  Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính...  Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn...  Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì... - Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:  Tín dụng có thời hạn: là loại tín dụng có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. Trong loại này lại được phân chia tiếp, bao gồm:
  9.  Tín dụng chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại chỉ thanh toán một lần theo thời hạn đã thỏa thuận.  Tín dụng có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại này thường được áp dụng rộng rãi trong cho vay bất động sản nhà ở thương mại, cho vay tiêu dùng...  Tín dụng không có thời hạn cụ thể: đối với loại này thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc để người vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý (có thể được thỏa thuận trong hợp đồng). - Căn cứ vào các tiêu thức khác:  Theo ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...).  Theo số lượng ngân hàng tham gia cấp tín dụng (Do một ngân hàng thực hiện; đồng tài trợ). - Bàn thêm về một số loại tín dụng trung và dài hạn khác:  Tín dụng tuần hoàn: là một hình thức cho vay, trong đó ngân hàng cam kết chính thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định. Cần chú ý rằng, cam kết này có thể kéo dài từ 1 đến 3 hoặc 5 năm, chính vì vậy đây cũng là một loại tín dụng trung và dài hạn. Khi có nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp để huy động vốn như: phát hành các chứng khoán, vay ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác...tuy nhiên, việc phát hành những chứng khoán mua, bán trên thị trường không phải là biện pháp hàng đầu để các doanh nghiệp tài trợ cho các hoạt động của họ vì rất mất thời gian để tiến hành công việc này trong khi cơ hội thì lại “đến” và “đi” rất nhanh. Chính vì vậy, nguồn vốn được tài trợ từ ngân hàng là vô cùng quan trọng. Họ có thể vay ngân hàng dưới hình thức tín dụng tuần hoàn để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài sản lưu động, sử dụng khi ngân hàng chưa xác định được phần tài sản lưu động thường xuyên của doanh nghiệp.  Tín dụng thuê mua: là hình thức vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua.
  10. Khách hàng thường đến vay ngân hàng với mục đích là mua tài sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể đáp ứng được các điều kiện để vay. Để giúp khách hàng có thể thực hiện được mục đích, đồng thời không để bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, các ngân hàng đã tiến hành mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng và cho khách hàng thuê lại. Tài sản này không nằm trong tài sản của doanh nghiệp mà nằm trong tài sản của ngân hàng, chính vì vậy ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được. Điều này góp phần làm giảm thiệt hại cho ngân hàng. Thông thường, để thực hiện nghiệp vụ này, các ngân hàng thường thiết lập các công ty còn để chuyên quản. Công ty con này có nhiệm vụ nghiên cứu cùng với bên vay để lựa chọn các máy móc, trang thiết bị thích hợp để thực hiện hợp đồng thuê mua. 1.1.3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Tín dụng trung và dài hạn cũng là hoạt động tín dụng nên nó cũng có vai trò như hoạt động tín dụng nói chung. Vai trò đó được thể hiện ở các điểm sau:  Góp phần làm ổn định nền kinh tế (quá trình sản xuất kinh doanh của các cá thể, cá nhân thường xuyên hơn), tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế: hoạt động sản xuất kinh doanh không phải lúc nào cũng suôn sẻ, các tổ chức, cá nhân luôn phải đương đầu với những khó khăn để tồn tại cũng như để đi lên. Một trong những khó khăn mà đa số họ gặp phải trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay là sự thiếu hụt vốn trong kinh doanh. Bên cạnh việc đi vay mượn ở người thân, bạn bè...còn gọi là vay nóng thì việc các tổ chức, cá nhân đi vay ở các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu về vốn là rất thường xuyên.  Tích tụ và tập trung vốn (góp phần làm giảm số tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ). Mỗi người, với một khoản tiền nhỏ thì rất khó có thể đầu tư, kinh doanh hay mua những vật có giá trị lớn. Nhưng nếu nhiều người góp lại thì nó sẽ trở thành một khoản tiền lớn. Tuy nhiên việc tập trung các lượng vốn nhỏ này lại rất khó khăn đối với chỉ một người hay một nhóm người mà họ không được mọi người trong xã hội biết đến.
  11. Trong khi đó lại có rất nhiều người cần một lượng tiền lớn, nhiều công trình, dự án cần vốn lớn để đầu tư…Để kết nối những trường hợp trên lại, chúng ta phải nhờ đến các tổ chức tín dụng mà đặc biệt là các ngân hàng. Cũng thông qua hoạt động này của ngân hàng, số tiền nhàn rỗi trong dân cư sẽ giảm xuống vì họ có một nơi để “đầu tư” kiếm lời thay vì cất giữ ở nhà, do đó lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm, khắc phục lạm phát tiền tệ.  Là công cụ điều tiết vĩ mô thông qua việc phân bổ lại các nguồn lực, qua đó góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, nền kinh tế nước ta so với các nước trên thế giới mới chỉ được xếp là “nước đang phát triển”. Sự tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật…của nước ta là rất lớn. Để tiến lên hội nhập với thế giới, không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nặng về nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Muốn vậy, Nhà nước cần phải phân bổ các nguồn lực cho hợp lý giữa các ngành này. Một trong những cách để làm điều đó là thông qua hoạt động tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Với cách này, khi Nhà nước muốn mở ra hay phát triển một ngành, lĩnh vực, Nhà nước sẽ có những khuyến khích trong chính sách tín dụng như có những ưu đãi về lãi suất, thời hạn, tài sản đảm bảo trong việc vay vốn…để các cá nhân, doanh nghiệp chú ý đến và thực hiện đầu tư.  Thực hiện chức năng phản ánh, tổng hợp và kiểm soát các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế. Thật vậy, thông qua hoạt động này của ngân hàng, ta có thể biết được nền kinh tế đang cần vốn như thế nào. Mà ta biết rằng, một nền kinh tế phát triển luôn có nhu cầu lớn về vốn cho sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy nó sẽ phản ánh một phần về hoạt động kinh doanh của một đất nước. Đồng thời, với chức năng này, đồng tiền được sử dụng để xây dựng các thước đo, chỉ tiêu và xác định xem các hoạt động sản xuất kinh doanh có hợp pháp, hợp lệ hay
  12. không, có hiệu quả hay không. Do đó nó có vai trò quan trọng trong việc tổng hợp, kiểm soát các hoạt động kinh tế, thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế. 1.1.4.CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN 1.1.4.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng Trong thời gian qua, hoạt động của các ngân hàng đã đạt được nhiều thành công, đóng góp một phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng vẫn còn có nhiều khó khăn đe dọa đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng nói riêng và của toàn xã hội nói chung; vẫn còn nhiều mối quan tâm, lo ngại cần các ngành, các cấp giải quyết. Một trong những mối quan tâm lo ngại đó chính là chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Cho đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các ngân hàng. Chính vì vậy, việc xây dựng một hệ thống như vậy là cần thiết không chỉ đối với đội ngũ thanh tra trong quá trình thực hiện thanh tra, kiểm soát các ngân hàng thương mại mà còn là cơ sở để các ngân hàng thương mại tự đánh giá độ an toàn và chất lượng của đồng vốn mà họ cung cấp cho các khách hàng. Vậy chất lượng tín dụng là gì? Có thể hiểu: chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng ( bao gồm cả người gửi và người vay), phù hợp sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Với khái niệm này, chất lượng tín dụng được thể hiện ở cách khía cạnh sau:  Đối với ngân hàng thương mại: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng của ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi.  Đối với khách hàng:  Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng phải có thái độ đón tiếp, hướng dẫn và phục vụ khách hàng một cách hòa nhã, ân cần.  Thủ tục đơn giản.
  13.  Phục vụ nhanh nhất cho khách hàng trong phạm vi thờigian quy định.  Đảm bảo cung ứng đúng và đủ lượng tiền theo hợp đồng tín dụng đã ký.  Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng.  Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa; giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người đi vay cũng như người cho vay, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng. Với việc phân tích trên đây ta thấy rằng:  Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể lại vừa trừu tượng vì nó vừa có thể được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định lượng như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn…lại vừa được biểu hiện bằng những chỉ tiêu định tính như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế…Đồng thời, chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan như khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự tuân thủ quy trình nghiệp vụ..và các nhân tố khách quan như sự thay đổi của môi trường bên ngoài, sự cố ý của khách hàng…  Chất lượng tín dụng phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, nó là một chỉ tiêu tổng hợp.  Chất lượng tín dụng được biểu hiện thông qua các yếu tố: thủ tục đơn giản, mức độ an toàn của vốn tín dụng…và một điều quan trọng mà chúng ta đều phải thừa nhận về chất lượng tín dụng là: nó không tự nhiên mà có, nó là kết quả của sự kết hợp “ăn ý” giữa nhiều người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. 1.1.4.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
  14. Như đã đề cập ở trên, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa mang tính định lượng lại vừa mang tính định tính. Với những chỉ tiêu định tính, việc xác định là hết sức khó khăn, nó chỉ mang tính tương đối. Với nhóm chỉ tiêu định lượng, có dễ dàng hơn nhưng vẫn có nhiều tranh cãi, theo quan điểm của em thì hệ thống phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn gồm các chỉ tiêu:  Chỉ tiêu định lượng  Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ gia hạn trung và dài hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn trung - dài hạn và tổng dư nợ trung – dài hạn của Ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Nợ gia hạn về bản chất cũng là nợ quá hạn nhưng đã được tăng thêm thời hạn vay. Tỷ lệ này làm rõ trong dư nợ ngoài phần nợ thực sự quá hạn thì đã có bao nhiêu phần trăm quá hạn. Vì tín dụng là việc sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng nên trong hoạt động tín dụng, tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay) là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả một đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn, tức là tính an toàn thấp. Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro xảy ra cho ngân hàng là điều đương nhiên và do đó việc tồn tại nợ quá hạn và nợ gia hạn là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu một ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn thì nó sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì có thể bị mất vốn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và làm giảm thu nhập của ngân hàng, nặng hơn nữa thì ngân hàng có thể đi đến bờ vực phá sản. Còn nợ gia hạn là một biện pháp giúp khách hàng vượt qua những khó khăn tạm thời nhưng nếu quá nhiều khoản được gia hạn nợ thì chứng tỏ danh mục cho vay của ngân hàng thương mại thực sự đang có vấn đề. Ngân hàng nào có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ
  15. gia hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh ở thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai.  Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn Khoản mục tín dụng thường chiếm khoảng 70% tổng tài sản, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của tín dụng trung và dài hạn. Với quy mô đó, hoạt động tín dụng trung và dài hạn mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng; có ảnh hưởng cũng lớn đến rất nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh của ngân hàng, dự trữ, đầu tư, vay… chính vì lý do đó mà có thể nói rằng chỉ tiêu này cũng rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa vào chỉ tiêu này ta còn có thể tính thêm được một vài chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng tín dụng như: Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ sinh lời trung và dài hạn = Tổng dư nợ trung và dài hạn Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ lợi nhuận trung và dài hạn = Tổng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng  Chỉ tiêu quay vòng vốn: Thu nợ trung-dài hạn Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn = Dư nợ tín dụng trung-dài hạn BQ Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trung và dài hạn (thường là một năm). Đây là một chỉ tiêu quan trọng thường được các ngân hàng tính toán để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chỉ tiêu này càng tăng càng phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao.
  16.  Cơ cấu vốn đầu tư: Mục đích của các ngân hàng là an toàn và sinh lời (bên cạnh các mục tiêu thực hiện chính sách của nhà nước) vì vậy trong hoạt động tín dụng nói riêng và các hoạt động khác nói chung của ngân hàng luôn có sự cân nhắc giữa an toàn và sinh lời. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có thể đem lại lợi nhuận cao nhưng nếu cho vay quá nhiều mà không quan tâm đến khả năng thanh toán của ngân hàng thì rủi ro cũng sẽ rất cao, tức là tính an toàn thấp. Hơn nữa, nếu ngân hàng cho vay quá nhiều trong một ngành, lĩnh vực nào đó mà không đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư thì như người ta thường nói, ngân hàng đã “đặt quá nhiều trứng trong một rổ”, không phân tán được rủi ro. Do đó, các ngân hàng phải quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa bảo đảm an toàn vốn lại vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất.  Giá trị tài sản đảm bảo và tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay: Để vay được tiền từ ngân hàng, các cá nhân, doanh nghiệp sẽ phải áp dụng các biện pháp để bảo đảm tiền vay, các biện pháp đó có thể là: tín chấp, bảo lãnh, có tài sản cầm cố, thế chấp. Trong trường hợp hoạt động kinh doanh của người vay thua lỗ, không thể lấy từ lợi nhuận để trả ngân hàng:  Nếu là bảo lãnh, tín chấp: người vay phải bán tài sản để trả nợ ngân hàng.  Nếu là vay có tài sản đảm bảo: ngân hàng sẽ là người bán tài sản đó đi để xiết nợ. Nếu số tiền bán được lớn hơn số tiền vay thì sau khi trừ đi khoản nợ, ngân hàng sẽ phải trả lại người vay, nếu số tiền bán được lại nhỏ hơn số tiền vay thì ngân hàng sẽ phải chịu lỗ. Ta gọi chung khoản tiền thực mà ngân hàng thu được từ việc bán tài sản của khách hàng là A, tổng doanh số thu nợ là B. Khi đó xác định được chỉ tiêu: Tỷ lệ thanh toán nợ do việc bán tài sản của người vay =A/B  Chỉ tiêu định tính:  Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng (qua uy tín, kết quả hoạt động, các dịch vụ đi kèm như tư vấn…): Một ngân hàng sẽ không thể hoạt động được nếu
  17. không có khách hàng. Khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào uy tín về chất lượng phục vụ, về quan hệ với các tổ chức tài chính khác...của ngân hàng. Khách hàng sẽ không muốn giao dịch với những ngân hàng không có uy tín vì rủi ro có thể xảy ra đối với họ làm gián đoạn quá trình kinh doanh, hoặc làm mất đi cơ hội kinh doanh của họ. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể tăng khả năng thu hút khách hàng thông qua các hoạt động đi kèm với hoạt động tín dụng như: dịch vụ tư vấn, thẻ tín dụng...  Tuân thủ các quy định do ngân hàng nhà nước đề ra trong lĩnh vực tín dụng trung và dài hạn: Nhận thức được vai trò và chức năng của các ngân hàng trong nền kinh tế, Nhà nước luôn có những chính sách quy định về hoạt động của họ, mà một trong những quy định hết sức quan trọng đó là những quy định về hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Tuân thủ các quy định này của Nhà nước chính là sự tuân thủ pháp luật, góp phần ổn định nền tiền tệ quốc gia, giúp cho nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và bền vững - tăng chất lượng tín dụng của ngân hàng.  Góp phần vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước (đáp ứng vốn cho những ngành, lĩnh vực mũi nhọn nhờ đó đã giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động…): Hoạt động tín dụng mở rộng sẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế: các dự án đầu tư có hiệu quả cao sẽ không bị thiếu vốn, tức là nó có thể đi vào hoạt động, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nhiều người lao động, giải quyết một vấn đề vô cùng “bức xúc” của mỗi quốc gia, và xét về mặt đóng góp cho xã hội-đó là chất lượng tín dụng. Để đánh giá các chỉ tiêu trên một cách chính xác thì rất là khó vì nó là những chỉ tiêu định tính, không tính toán được như những chỉ tiêu định lượng. Tuy nhiên, trong khi so sánh với nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng cùng hoạt trong một môi trường kinh tế, môi trường pháp lý...và cùng chịu sự chỉ đạo của các chính sách thì ta cũng sẽ có thể dễ dàng đánh giá được các chỉ tiêu này. Và thông qua đó, ta cũng có thể một phần thấy được chất lượng tín dụng của các ngân hàng. 1.2. TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN
  18. 1.2.1. TỔNG QUAN VỀ DNNN 1.2.1.1. Khái niệm DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc nhà nước có cổ phần hoặc vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần nhà nước, công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. 1.2.1.2. Đặc điểm  Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao.  Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối.  Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật.  Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do doanh nghiệp quản lý. 1.2.1.3. Phân loại doanh nghiệp nhà nước  Công ty nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước. Trong đó, Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư, góp vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành viên có mối liên hệ gắn bó
  19. với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên nghành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực hiện lợi ích của các đơn vị và toàn tổng công ty.  Tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức liên kết và tập hợp các công ty thành viên hạch toàn độc lập và có tư cách pháp nhân, hoạt động trong một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường tích tụ, tập chung vốn và chuyên môn hoá kinh doanh của các đơn vị.  Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập là hình thức liên kết thông qua đầu tư, góp vốn của công ty nhà nước quy mô lớn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.  Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là tổng công ty được thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên chuyển đổi từ các công ty nhà nước độc lập và các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên do mình thành lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ công ty nhà nước độc lập.  Công ty cổ phần nhà nước là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước hoặc các tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.  Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên: là công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.  Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
  20.  Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó. 1.2.1.4. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường  DNNN là lực lượng quan trọng để nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế: Nhà nước nào cũng vậy, muốn điều tiết được nền kinh tế thì phải có một tiềm lực kinh tế mạnh. Kinh tế nhà nước mà trong đó tiêu biểu là Doanh nghiệp nhà nước sẽ là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra tiềm lực kinh tế mạnh để Nhà nước thực hiện yêu cầu đó. DNNN có ở những khâu trọng yếu của nền kinh tế, cung ứng phần lớn những tư liệu sản xuất chủ yếu và tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai trò nòng cốt trong việc củng cố, phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống kinh tế nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế. DNNN là một lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến trong nền kinh tế. Trong các cuộc kháng chiến cứu nước, DNNN đã khẳng định vị trí đó của mình và trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, khi những biến động của nền kinh tế thế giới cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta thì vai trò đó càng thể hiện rõ hơn: DNNN cùng với nhiều loại hình doanh nghiệp khác đã góp phần quan trọng trong việc bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát…  DNNN có vị trí then chốt trong kinh tế nhà nước; là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.  Trong nền kinh tế, việc mở ra một loại hình kinh doanh mới sẽ luôn gặp phải những khó khăn, trở ngại. Song, nếu không có người mở đường đi vào lĩnh vực đó, thì nền kinh tế sẽ mất đi những cơ hội kinh doanh, mất đi tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế và do đó sẽ tụt hậu so với các nước khác. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội, cần thiết phải có các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2