intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ”

Chia sẻ: Hồ Phúc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

213
lượt xem
98
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” Lời Mở đầu Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nên kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghhiệp vào năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ”

  1. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH Đề tài: “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” Sinh viên: So Nong Văn Thực Lớp: Ngân Hàng 42A Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 1
  2. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh Lời Mở đầu Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nên kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghhiệp vào năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng góp phần vào thành quả chung của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc ngang với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn kiện đại hội đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nếu không huy đ ộng được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn trong nước mà “nòng cốt” để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này phải là các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính ”. N gân hàng thương m ại với vai trò là trung gian tài chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên ngân hàng là một loại hình doanh ngiệp đặc biệt kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nên kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ là một chi nhánh thành viên của Ngân hàng Nô ng nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực Nông nghiệp Nông thôn. Cũng giống như các NHTM khác Chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Thấy đươch tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của Chi nhánh, trong quá trình thực và nghiên cứu hoạt động của Chi nhánh em chọn đề tài “Hoàn thiện chính sách huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ” N goài phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm có 3 chương: Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 2
  3. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh Chương 1- Chính sách huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương 2-Thực trạng chính sách huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nôngthôn Chi nhánh Láng Hạ Chương 3. Hoàn thiện chính sách huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ Do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên những vấn đề m à Em nêu ra không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị cán bộ thực tế tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Láng Hạ để đề tài được ho àn thiện hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn, góp phần hoàn thiện chính sách huy động vốn của Chi nhánh. Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo. Tiến sỹ Trần Đăng Khâm và toang thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh Láng Hạ đã hướng dẫn và giúp đ ỡ em hoàn thành đề tài này. Hà nội, tháng 05 năm 2004 Sinh viên : Nông Văn Thực Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 3
  4. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh Chương 1. Chính sách huy động vốn của Ngân hàng thương mại 1.1. Các ho ạt động huy động vốn của Ngân hàng thương m ại 1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, đến lượt m ình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Sản xuất phát triển dẫn đến lưu thông hàng hoá ngày càng được mở rộng, khối lượng lưu thông ngày càng lớn, không chỉ trong mỗi địa phương, trong mỗi quốc gia m à còn được lưu thông giữa các Quốc gia trong khu vực, giữa các khu vực trên toàn thế giới. Tuy nhiên ở mỗi Quốc gia lại sử dụng những đồng tiền khác nhau, với giá trị khác nhau, điều này đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình lưu thông, trao đổi hàng hoá. Trước thực tế đó một số Thương gia đã chuyển sang kinh doanh hàng hoá đặc biệt (từ bỏ kinh doanh hàng hoá thông thường), đó là đổi tiền và kinh doanh tiền tệ. Công việc của các thương gia này đ ã góp phần quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách giữa các đồng tiền khác nhau, giúp quá trình lưu thông hàng hoá thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho các nhà buôn, các thương gia. Mặt khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngày càng lớn của các thương gia, những người này kiêm luôn việc giữ hộ và thanh toán hộ tiền, và trong trường hợp cần thiết họ còn tiến hàng cho các nhà buôn vay tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán (với chi phí thoả thuận- hay còn gọi là lãi suất). N gày nay, hệ thống ngân hàng (bao gồm ngân hàng Nhà nước và hệ thống các Ngân hàng Thương mại) phát triển hiện đại hơn, có nhiều loại hình dịch vụ hơn rất nhiều so với thủa sơ khai, tuy nhiên thì một số nghiệp vụ của nó thì vẫn không thay đổi về bản chất, mà nó chỉ thuận tiện hơn, Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 4
  5. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh tiện lợi hơn hình thức phục vụ đa dạng hơn. Ho ạt động của hệ thống ngân hàng ngay từ khi ra đời đã giữ vai trò quan trọng là huyết mạch và còn thước đo sự hưng thịnh, suy thoái, hay trì trệ của một nền kinh tế. Tóm lại, có thể thấy rằng sự ra đời của hệ thống ngân hàng là kết quả của sự phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực lưu thông hàng hoá nói riêng. Sự ra đời đó có thể ví như một trong những phát kiến vĩ đại của nhân loại loài người. Khái niệm Ngân hàng thương mại Mặc dù trải qua lịch sử phát triển lâu dài nhưng cho đến nay, việc đưa ra một khái niệm cụ thể về Ngân hàng thương mại thì vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi của các nhà Kinh tế, bởi tại mỗi một thời điểm khác nhau thì khái niệm lại có những thay đổi, đây lại cũng là một đặc thù của lĩnh vực ngân hàng tài chính. Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng”. Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và th ực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong n ền kinh tế”. Theo luật các tổ chức tín dụng của N ước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X (kỳ họp tứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12 tháng 12 năm1997) thông qua thì “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, và các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Q ua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phương diện khác nhau, tại mỗi quốc gia khác nhau lại có những quan niệm, nhin nhận khác nhau, tuy nhiên tất cả điều đó đều cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái niệm ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương mại nói riêng đồng thời Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 5
  6. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh qua đó giúp chúng ta có hiểu rõ hơn về các hoạt độngvà những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. 1.1.1.2. Các lo ại hình Ngân hàng thương mại Bất kì một nền kinh tế nào cũng cần phải có các tổ chức đứng ra làm trung gian trong việc điều tiết các nguồn tiền để đáp ứng các nhu cầu liên quan đến tài chính tiền tệ. Ngày nay không chỉ có các ngân hàng thương mại đảm nhận việc đó, m à còn có các tổ chức trung gian tài chính khác, với khả năng tài chính mạnh mẽ cũng tiến hành tham gia cung cấp vốn và các dịch vụ khác liên quan tới lĩnh vực tài chính tiền tệ. a - Ngân hàng thương mại chia theo hình thức sở hữu Ngân hàng thương mại Quốc doanh, là loại hình ngân hàng mà sở hữu thuộc về Nhà nước, do Nhà Nước cấp ngân sách thành lậpvà trực tiếp quản lý, điều hành. Nhà nước sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm liên quan tới nợ và các nghĩa vụ về tài sản khác liên quan đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Thông thường nhà nước (Trung ương, hoặc Tỉnh) sẽ hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá cho nên ít khi các ngân hàng này bị phá sản. Tuy nhiên trong một số trường hợp do hoạt động theo sự chỉ đạo từ Nhà Nước cho nên sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần, đây là loại hình ngân hàng được thành lập trên cơ sở góp vốn của các cổ đông, sự góp vốn có thể bằng hoặc không bằng nhau giữa các Cổ đông tuỳ theo thoả thuận và khả năng của các cổ đông. Theo quy định thì các cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về nghĩa vụ nợ và trách nhiệm tài sản khác tuỳ theo mức tỷ lệ cổ phần mà mình sở hữu. Do vốn hình thành theo hình thức tập trung cho nên các ngân hàng thương mại cổ phần có khả năng mở rộng quy mô và tăng nguồn vốn nhanh, do vậy đây thường là các ngân hàng lớn. Phạm vi hoạt động rất rộng, hình thức hoạt động đa năng, có nhiều Chi nhánh hoặc công ty con. N hưng nó thường chịu mức rủi ro cao từ cơ chế quản lý phân quyền. (Giữa Tổng giám đốc và các giám đốc; giữa công ty mẹ và công ty con...). Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 6
  7. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh Ngân hàng Thương mại Liên doanh, là loại hình ngân hàng thành lập trên cơ sở sự hợp tác hoặc góp vốn của bên hoặc các bên của ngân hàng nước này với bên hoặc các bên của ngân hàng quốc gia (có thể một hoặc nhiều Quốc gia cùng góp vốn) khác, để tận dụng ưu thế của nhau. Tuỳ theo thoả thuận và hiệp định ký kết giữa các bên. Ngân hàng sở hữu tư nhân, là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của mình. Loại ngân hàng này thường có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương. Các ngân hàng này thường gắn liền với hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân địa phương. Chủ ngân hàng thường rất am hiểu khách hàng, vì vậy hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên vì quy mô và phạm vi nhỏ nên nó thường không đa dạng trong hoạt động, nên dễ dàng gặp tổn thất khi mà đ ịa phương đó gặp rủi ro. b. Ngân hàng thương mại theo tính chất hoạt động N gân hàng chuyên doanh và đa năng, ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên doanh là ngân hàng chỉ cung cấp một số dịch vụ hạn chế tuỳ thuộc vào thế mạnh, cũng như điều kiện mà ngân hàng có thể hoạt động.. Tính chuyên môn hoá cao cho phép các ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại hình ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn, khi mà ngành hoặc lĩnh vực mà mình hoạt động bị xa sút. Ngân hàng chuyên doanh thường là ngân hàng có quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình đ ộ cán bộ do tập trung chuyên sâu nên không đa dạng; hoặc là ngân hàng sở hữu của công ty. Thứ hai, ngân h àng hoạt động theo hướng đa năng là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại, nhất là ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này thường là ngân hàng lớn (hoặc chủ sử hữu công ty lớn). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng trong việc tăng thu nhập và hạn chế rủi ro. Ngân hàng bán buôn và ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn là ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng khác, các công ty tài chính, cho nhà nước, cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Ngân hàng bán Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 7
  8. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh buôn thường là ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn. Ngân hàng bán lẻ thường là các ngân hàng cung cấp dịch vụ trực tiếp cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân, với các khoản tín dụng nhỏ lẻ. Ngày nay xu hướng của các ngân hàng thương mại ít ngân hàng chỉ bán lẻ hay chỉ bán buôn. Các ngân hàng nhỏ thường bán lẻ, còn ngân hàng lớn vừa bán buôn, vừa bán lẻ. Tóm lại, có thể thấy các Ngân hàng Thương mại ngoài hoạt động chính là nhận tiền gửi, phân phối lại nguồn vốn phục vụ nhu cầu của nền kinh tế. Thì nó còn có chức năng quan trọng là chức năng tạo tiền và cung cấp các dịch vụ nhất liên quan tới lĩnh vực tiền tệ mà các trung gian tài chính khác không thể thực hiện đ ược. Đồng thời nó cũng trực tiếp thực hiện sách tiền tệ quốc gia, theo quy định của Ngân hàng nhà nước. c. Các trung gian tài chính Mặc dù không phải là ngân hàng thương mại nhưng các trung gian tài chính này với tiềm lực tài chính lớn mạnh trong tay, họ cung cấp nhiều loại hình dịch vụ, và hoạt động tương tự ngân hàng thương mại. Một số trung gian tài chính chủ yếu hiện nay gồm; Công ty Tài chính, Có thể là các công ty quốc doanh, công ty cổ phần, với hoạt động chủ yếu cho vay để mua bán hàng hoá, dịch vụ bằng nguồn vốn của mình. Nhận tiền gửi, phát hàng trái phiếu, tín phiếu, hoặc vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Công ty Cho thuê Tài chính (Cho thuê tài sản), là công ty cung cấp tín dụng trung và dài hạn, thông qua các hợp động cho thuê tài sản với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hợp đồng thuê, khách hàng được mua lại với giá ưu đãi (theo hợp đồng thuê mua), hoặc cũng có thể tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã tho ả thuận và điều kiện gia hạn (nếu cần thiết). Công ty Bảo hiểm, với tiềm lực về tài chính trong tay, ngày nay các công ty Bảo Hiểm cũng hoạt động như m ột trung gian tài chính (một tổ chức tín dụng) đứng ra huy động tiền của những người mua bảo hiểm (tiền đóng phí của khách hàng) trên mọi lĩnh vực khác nhau, với lời hứa sẽ bù Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 8
  9. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh đắp thiệt hại cho những người tham gia khi họ gặp rủi ro, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, và loại hình bảo hiểm mà khách hàng tham gia. Như vậy công ty Bảo hiểm sẽ có lượng tiền tạm thời nhàn rỗi rất lớn có thể tiến hành ho ạt động như một trung gian tài chính. So với các ngân hàng thương mại thì các trung gian tài chính ngoài những nghiệp vụ mà nó hoạt động giống như một ngân hàng thương mại, thì nó có điểm khác biệt ở chỗ, nó không có chức năng tạo tiền cho nền kinh tế, không nhận tiền gửi không kỳ hạn, không cung cấp dịch vụ thanh toán và nhìn chung nó ít chịu sự ảnh hưởng hay phải thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước, hay của Chính phủ. Đó chính là sự khác biệt cơ bản của các tài chính trung gian tài chính so với các ngân hàng thương mại. 1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại Cùng với chiều dài lịch sử hình thành ngân hàng thương m ại ngày nay khác xa so với ngân hàng thương mại thủa sơ khai, do nhu cầu kinh doanh và sự cạnh tranh quyết liệt mà hệ thống ngân hàng thương mại đã mở rộng rất nhiều loại hình d ịch vụ tiện ích cung cấp cho khách hàng, mặc dù mộ số nghiệp vụ truyền thống vẫn không thể tách rời so với hoạt động của ngân hàng, sau đây chúng ta cùng tìm hiểu một số loại hình dịch vụ m à ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. 1.1.2.1. Hoạt động cơ b ản của ngân hàng thương mại Mua bán trao đổi ngoại tệ Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng là dịch vụ đ ược thực hiện là trao đổi ngoại tệ, theo đó ngân hàng sẽ đứng ra mua một loại tiền tệ này đổi lấy một loại tiền tệ khác, để hưởng phí dịch vụ và hưởn chênh lệch giá. Điều này rất quan trọng đối với khách du lịch quốc tế khi di du lịch tại nước sở tại, đồng thời hiện nay các ngân hàng thương mại còn thực hiện việc huy động vốn, cho vay bằng ngoại tệ và quan trọng hơn nữa là việc thanh toán cho lĩnh vực Xuất, nhập khẩu hàng hoá cùng các ho ạt động khác liên quan đến hoạt động thương mại Quốc tế. Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 9
  10. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh Nhận tiền gửi N hư phần trên đã trình bày, để có vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh thì các ngân hàng thương m ại phải tiến hành huy đ ộng từ các thành phần trong nền kinh tế. Ngân hàng sẽ tiếp nhận tất cả các nguồn tiền gửi của dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp với mức lãi suất phù hợp được công bố. Hiện nay khi khách hàng tới gửi tiền thì Ngân hàng sẻ mở một tài kho ản giúp khách hàng thuận tiện trong giao dịch và kiểm tra. Cho vay Cho vay là hoạt động đem lại thu nhập chủ yếu đối với các Nước đang phát triển (còn ở các Nước phát triển thì thu nhập chủ yếu lại là thu từ phí hoạt động dịch vụ), hiện nay có một số loại hình cho vay như sau: - Cho vay Thương mại và chiết khấu thương phiếu N ghiệp vụ này suất hiện ngay từ thời kỳ đầu thành lập ngân hàng, các ngân hàng sẽ chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nghiệp địa phương, những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của các khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu sang cho vay trực tiếp đối với khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và mua sắm trang thiết bị sản xuất. - Cho vay tiêu dùng Trong lịch sử hình thành và phát triển thì hầu hết các ngân hàng thương m ại không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ song lại có độ rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế kỷ XX, các ngân hàng b ắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. V à rồi sự cạnh tranh gay gắt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành và tiềm năng. Nhiều ngân hàng thương mại lớn trên thế giới đ ã thành lập hẳn Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 10
  11. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho vay tiêu dùng đã trở thành loại hình tín d ụng có mức tăng trưởng mạnh nhất. Mặc dù trong thời gian gần đây tốc độ có chậm lại do cạnh tranh tín dụng ngày càng lớn trong khi nền kinh tế đã phát triển với tốc độ chậm lại. Tuy nhiên người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một nguồn thu quan trọng. - Cho vay tài trợ và đồng tài trợ dự án Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ và đồng tài trợ cho những chi phí xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao và các dự án có quy mô vốn lớn, thời gian hoạt động lâu dài. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một hoặc nhiều công ty đầu tư, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với việc tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Ngoài ra các ngân hàng còn tiến hành tài trợ cho các chương trình văn hoá xã hội, các chương trình thể thao, các chương trình phúc lợi xã hội... Bảo quản vật có giá Đ ây là nghiệp vụ có từ thời trung cổ khi m à ngân hàng đang còn ở dạng sơ khai, các ngân hàng bảo quản vật có giá của khách hàng trong các kho của mình. Một điều hấp dẫn là, các loại giấy tờ có giá này như giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền- đây chính là hình thức đầu tiên của loại hình thanh toán Séc và Thẻ sau này. Ngày nay nghiệp vụ bảo quản vật có giá thường do “phòng bảo quản” của ngân hàng thực hiện. Cung cấp các tài khoản g iao dịch và thực hiện thanh toán K hi các doanh nghiệp gửi tiền và ngân hàng, họ nhận thấy các ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả thay cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng, đã mở đầu cho hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không phải đến ngân hàng rút tiền sau đó thực hiện thao tác thanh toán, mà chỉ cần viết lệnh yêu cầu ngân Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 11
  12. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh hàng thanh toán thay cho mình. Hoặc cũng có thể khách hàng mang giấy (Séc, Uỷ nhiệm chi- UNC, do khách hàng khác ký phát) đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Việc cung cấp dịch vụ thanh toán này đã góp phần quan trọng trong việc tiết kiệm thời gian giao dịch cho cả ngân hàng lẫn khách hàng, giảm thiểu chi phí, đặc biệt là ngân hàng sẽ mở rộng màng lưới của mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, một cách nhanh chóng và thuận tiện. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân gửi tiền vào ngân hàng và sử dụng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Do đó, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit), giúp cho người gửi tiền viết Séc, uỷ nhiệm chi (UNC) để thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Việc đưa ra lo ại hình dịch vụ này được xem như là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng. Quản lý ngân quỹ V ới chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp và nhiều cá nhân khác trong nền kinh tế, các ngân hàng sẽ mở các tài khoản và giữ tiền cho họ. Do đó mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng chặt chẽ. Mặt khác ngân hàng rất có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ cho nên họ đã cung cấp dịch vụ quản lý và đồng ý quản lý việc thu chi cho khách hàng nhất là doanh nghiệp và tiến hành sử dụng phần thặng dư tiền mặt tạm thời theo mục đích của ngân hàng cho đến khi khách hàng có nhu cầu rút tiền hoặc thanh toán. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ Đ ây là một trong nhiều loại hình nghiệp vụ mà ngân hàng áp dụng, bởi lẽ hoạt động của ngành ngân hàng liên quan trực tiếp tới bức tranh toàn cảnh về hoạt động của nền kinh tế. Do đó ngay từ khi thành lập các ngân hàng đ ã phải chịu sự quản lý và điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp của Chính phủ. Thông thương các ngân hàng phải cam kết mua một lượng trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng nguồn tiền mà nó huy động được. Các ngân hàng cam kết cho Chính phủ vay tiền, hoặc tiến hành tài Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 12
  13. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh trợ các dự án, chương trình của Chính phủ trong những trường hợp cần thiết. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn N hằm để bán các thiết bị, máy móc nhất là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đ ã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. K hi kết thúc hợp đồng thuê, khách hàng có thể tiến hành ra hạn hợp đồng thuê tiếp, hoặc mua lại (nếu hợp đồng đó là hợp đồng thuê mua). Với tiềm lực tài chính lớn mạnh của mình các ngân hàng thương mại cũng tiến hành king doanh quyền lựa chọn thuê thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê hoặc thuê mua, trong đó ngân hàng tiến hành mua thiết bị máy móc cho khách hàng thuê, với các cam kết m à các bên thoả thuận, nhưng thông thường khách hàng phải cam kết trả 2/3 giá trị tài sản thuê. Như vậy, về thực chất đây là một hình thức cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, nó thường đ ược xếp vào tín dụng trung và dài hạn. Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn Do hoạt động của ngân hàng chủ yếu trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, nên ngân hàng thường tập trung các danh mục đầu tư cũng như đội ngũ chuyên gia. Khi các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp có yêu cầu thì ngân hàng tiến hành tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, chia tách doanh nghiệp, về mua bán chứng khoán. Đồng thời ngân hàng cũng tiến hành quản lý tài sản hộ khách hàng, và trong nhiều trường hợp ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ uỷ thác cho khách hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác phát hành, uỷ thác cho vay hộ. Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán So yêu cầu của sự cạnh tranh trong nền kinh tế, các ngân hàng thương mại ngày càng quan tâm tói việc cung cấp càng nhiều dịch vụ cho khách hàng càng tốt. Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều cung cấp dịch vụ mua bán chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không nhờ tới các nhà kinh Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 13
  14. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh doanh chứng khoán. Nhiều ngân hàng hiện nay đã thành lập hẳn ra các ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Trong nhiều năm trở lại đây, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng (chủ yếu là bảo hiểm tiền gửi, hoặc bảo hiểm tín dụng), điều này đảm bảo khả năng hoàn trả của khách hàng cho ngân hàng khi mà không may khách hàng gặp rủi ro ảnh hưởng tới tình mạng sức khoẻ, hay rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cung cấp dịch vụ đại lí Do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, một số ngân hàng chưa có điều kiện mở Chi nhánh, hay văn phòng đại diện tại vùng, hoặc quốc gia khác có quan hệ. Các ngân hàng thương m ại lớn tiến hành cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lí cho các ngân hàng khác như, đại lý thanh toán hộ, đại lý phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đ ầu mối cho đồng tài trợ dự án... N goài ra một số ngân hàng thương mại còn cung cấp các dịch vụ khác như, dịch vụ hưu trí, d ịch vụ quỹ hỗ trợ và trợ cấp,... Điều này cho thấy xu hướng hoạt động đa năng của các ngân hàng thương m ại ngày càng đa dạng, nhiều dịch vụ mới đ ược đưa vào hoạt động kinh doanh. Sao cho có thể thu hút ngày càng nhiều khách hàng tới với ngân hàng càng tốt. 1.1.2.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Đối với ngân hàng thương mại, thì hoạt động huy động vốn luôn được quan tâm hàng đầu, bởi vì nếu huy động được nhiều vốn thì ngân hàng mới có khả năng mở rộng được hoạt động, cũng như quy mô của ngân hàng. Ngày nay, trước sức ép của cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những chính sách thu hút nguồn tiền ngày một linh hoạt, để từ đó đáp ứng cho hoạt động của ngân hàng. Các phương thức huy động vốn mà hệ thống ngân hàng thương mại thường áp dụng là; Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 14
  15. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh a. Theo đối tượng huy động Huy động từ dân cư Trên cơ cở hoạt động của mình ngân hàng thương m ại tiến hành huy động các nguồn tiền nhà rỗi trong dân cư, thông qua các hình thức tiết kiệm, gửi thanh toán, ủy thác cho ngân hàng đ ầu tư. Tuy nhiên thì nguồn tiền gửi trong dân cư bao giờ cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể (nếu không nói là chủ yếu) của ngân hàng thương m ại, Nguồn này vừa có tính ổn định cao, thời hạn chủ yếu là trung và dài hạn, các khoản chi phí cho giao dịch đối với nguồn này thường thấp về số tương đ ối, khách hàng mang tính ổn định cao, ít biến động, rất thuận lợi cho việc hoạch định chính sách hoạt động của ngân hàng nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng. - Huy động từ các doanh nghiệp Các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, thông thường thì các tổ chức này, không thường xuyên gửi tiền và ngân hàng với mục đích tiết kiệm m à chủ yếu là dùng vào việc thanh toán. Trên cơ sở nắm bắt được chu kì sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chu kì hoạt động của các tổ chức, mà ngân hàng đề nghị, hoặc khuyến khích doanh nghiệp, các tổ chức gửi tiết kiệm theo một số quy định cụ thể mà hai bên thoả thuận, cũng như quy định hiện hành của pháp luật. Một số doanh nghiệp Nhà Nước (doanh nghiệp quốc doanh) không được phép gửi tiết kiệm thì họ lại gửi dưới hình thức biến tướng của tiền gửi tiết kiệm là uỷ thác đầu tư. - Huy động từ các tổ chức tín dụng Đối với các ngân hàng thương m ại khác, chỉ áp trong trường hợp ngân hàng thương mại tạm thời thiếu hụt trong thanh toán cho khách hàng, ho ặc trong trường hợp ngân hàng thiếu hụt dự trữ theo quy định của Ngân hàng Nhà Nước hoặc để đáp ứng những tình huống bất khả kháng. Tỷ trọng của nguồn này thường thấp, tính ổn định không cao và không thường xuyên. Các ngân hàng thương mại rất hạn chế sử dụng tới nguồn này. b. Theo mục đích gửi tiền Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 15
  16. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh Tiền gửi tiết kiệm Hoạt động này đem lại cho ngân hàng nguồn vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn hoạt động. Thông qua tình hình thực tế của ngân hàng, các chỉ số phát triển của nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn hiện tại và dự báo trong tương lai, mà các ngân hàng thương mại có chính sách huy động vốn hợp lí, thường là công cụ lãi suất nhằm gây sự quan tâm của khách hàng, từ đó thu hút khách hàng tới gửi tiền vào ngân hàng với những mục tiêu khác nhau, tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách gửi tiền và danh mục mà ngân hàng cung cấp. Tiền gửi thanh toán N guồn tiền này chủ yếu phục vụ nhu cầu thanh toán thường xuyên hay tiêu dùng hàng ngày của khách hàng của ngân hàng, nó có tính ổn định không cao, tuy nhiên các ngân hàng thương mại có thể dùng một phần của nguồn nay để tiến hàng sử dụng theo mục đích của mình trên cơ sở tính toán hợp lý quy luật biến động của loại tiền gửi này Tiền gửi Uỷ thác đầu tư N hiều khách hàng (cả các cá nhân và tổ chức) của ngân hàng có lượng tiền lớn trong tay, một là họ không có thời gian để đầu tư, hoặc là họ thiếu thông tin nhưng cũng không muốn gửi tiết kiệm vì lãi suất thấp. Họ uỷ thác cho ngân hàng đầu tư theo thoả thuận. Ho ặc cũng có những doanh nghiệp không được phép gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng cho nên họ biến tường dưới hình thức uỷ thác đầu tư. Các nguồn vốn vay khác như phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, các lhoản nhàn rỗi tàm thời chưa sử dụng... 1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.2.1.1. Khái niệm chính sách huy động vốn Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 16
  17. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh N gân hàng thương mại hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ vào lượng tiền mà nó huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được nguồn vốn lớn đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những chính sách huy động hợp lý, nhằm từ đó thu hút được lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng thương mại. Chính sách huy động vốn của ngân hàng có thể hiểu đó là những công cụ, cách thức và phương pháp, và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá nhân, các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng. Trên cơ sở hai b ên đ ều có lợi. Như vậy có thể dễ dàng nhận thấy chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cũng là một phần trong chính sách Marketing mà các ngân hàng đang sử dụng, tuy nhiên thì nó luôn được quan tâm và chịu sự giám sát chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo ngân hàng. 1.2.1.2. Các yếu tố cấu thành chính sách huy động vốn Mỗi ngân hàng đều có chính sách huy động vốn riêng của mình tu ỳ thuộc và nhu cầu và mục đích hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên thì không phải lúc nào và bao giờ ngân hàng cũng có thể thực hiện được theo đúng như yêu cầu của m ình đã đặt ra, bởi lẽ hoạt động ngân hàng có liên quan trực tiếp tới hoạt động nền kinh tế, nó là thước đo “sức khoẻ” của nền kinh tế, mọi sự biến động của tình hình kinh tế xã hội đều ít nhiều tác động đến ho ạt động ngân hàng. Chính vì lý do đó mà có nhiều yếu tố tác động hay cấu thành nên chính sách huy động vốn của ngân hàng. - Tình hình thực tế của kinh tế- xã hội Đ ây là một yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ tới công tác huy động vốn của ngân hàng, vì tình kinh tế xã hội có ổn định, sự phát triển có bền vững thì các thành phần kinh tế mới thực sự yên tâm khi đầu tư ho ặc gửi tiền vào ngân hàng. Chính vì vậy để hoạt động huy động vốn của ngân hàng thực sự có hiệu quả trong mọi trường hợp thì không thực sự đơn giản với các ngân hàng thương mại và cũng không phải ngân hàng nào cũng có thể đạt được. - Chính sách và quy định của Ngân hàng Nhà Nước Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 17
  18. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh H ệ thống ngân hàng thương mại chịu sự quản lý điều hành trực tiếp từ Ngân hàng Nhà Nước (một số quốc gia có thể do Bộ tài chính làm thay công tác của Ngân hàng Nhà Nước). Như vậy các ngân hàng thương mại đều phải tuân thủ nghiên túc các quy định mà Ngân hàng Nhà Nước đưa ra. Trên cơ sở thực tế của tình hình kinh tế x ã hội, các chính sách vĩ mô của Chính phủ mà Ngân hàng Nhà Nước sẽ có những điều tiết hoạt động, buộc các ngân hàng này phải tuân thủ. Trong các chính sách điều tiết đó thì việc huy động vốn luôn được quan tâm và có sự giám sát chặt chẽ từ Ngân hàng N hà Nước và Chính phủ. - Và cuối cung là chính sách huy động vốn mà ngân hàng thương mại áp d ụng Đ ây là nhân tố quan trọng quyết định tới lượng vốn mà ngân hàng thương mại huy động. Căn cứ vào nhu cầu cụ thể của ngân hàng thương mại và các chính sách quy định của Ngân hàng Nhà Nước, Chính phủ mà ngân hàng thương mại sẽ đưa ra phương thức huy động hợp lý, nhằm thu hút tối đa lượng vốn mà ngân hàng có thể thực hiện. 1.2.2. Nội dung của chính sách huy động vốn 1.2.2.1. Các phương thức huy động vốn a. Tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ tiền, tài sản và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại. Ngày nay hầu hết các ngân hàng thương mại đang dẩy mạnh huy động vốn thông qua các chính sách cụ thể, rõ ràng và hiệu quả. - Đối với tiền gửi thanh toán Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 18
  19. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh V ớ mục đích giao d ịch, trên cơ sở phạm vi số dư có trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả khi khách hàng có yêu cầu hoặc có sự uỷ quyền. Các khoản thu nhập của khách hàng đều có thể dễ dàng được ngân hàng nhập vào tài khoản. Hiện nay do yêu cầu của cạnh tranh, các ngân hàng đều quan tâm tới việc rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng cho nên thủ tục mở tại khoản rất đơn giản, gọn nhẹ và thuận tiện. Để thu hút khách hàng một số ngân hàng còn kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với cho vay (hay còn gọi là cho vay thấu chi), một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản tiền gửi thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi tương ứng này nhằm cạnh tranh với các Tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại khác. - Tiền gửi có kỳ hạn của các Doanh nghiệp, Tổ chức xã hội, Tổ chức xã hội nghề nghiệp N hiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và tổ chức x ã hội sẽ được chi trả trong một khoảng thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho thanh toán song mức lãi suất thường rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu và khuyến khích người gửi tiền, tạo điều kiện khơi tăng nguồn vốn cho mình, các ngân hàng đưa ra các hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Thông thường khoản tiền gửi này không thuận tiện trong thanh toán như tiền gửi thanh toán như ở trên, khi cần tiền khách hàng phải đến ngân hàng đ ể thực hiện rút tiền ra. Tuy nhiên để thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng thường có mức lãi suất ưu đãi tương ứng với độ dài kỳ hạn gửi mà khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Đây là một trong những yếu tố thu hút được nhiều nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và các tổ chức nói trên. - Tiền gửi tiết kiệm của dân cư, các tâng lớp dân cư Các tầng lớp dân cư đều có các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm) trong điều kiện có khả năng tiếp cận được với ngân hàng, họ sẽ có thể gửi tiền nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn vốn. Nhằm thu hút ngày Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 19
  20. Chuyªn ®Ò Thùc tËp Tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng- Tµi chÝnh càng nhiều các khoản tiền tiết kiệm, các ngân hàng đ ều có gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt trong nhà thay vì gửi vào ngân hàng, bằng cách mở rộng màng lưới các Chi nhánh, các phòng giao dịch đáp ứng nhu cầu huy động. Đưa ra hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như m ức lãi suất cạnh tranh với các khoảng tiền gửi thời hạn khác nhau, lãi suất giữa tiết kiệm bằng đồng nội tệ và tiết kiệm bằng đồng ngoại tệ, tiết kiệm bằng vàng,...). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm khác nhau cho mỗi kỳ hạn và cho mỗi lần gửi khác nhau. Loại hình tiền gửi này không nhằm mục đích thanh toán tiền hàng và dịch vụ song nó có thể dùng làm tài sản thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. - Tiền gửi của các ngân hàng khác V ới mục tiêu là an toàn, thuận tiên và nhanh chóng trong thanh toán cho khách hàng, các ngân hàng thương mại không chỉ duy trì tiền tại ngân hàng của mình mà còn tiến hành gửi tiền tại ngân hàng thương mại khác. Tuy nhiên thì quy mô của nó không lớn, thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. b. Nguồn đi vay N guồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong những trườn hợp cần thiết các ngân hàng thương mại vẫn phải tiến hành đi vay thêm. Mặt khác tại nhiều quốc gia trên thế giới, ngân hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa bắt buộc với nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy trong những trường hợp cần thiết, và trong các giai đoạn cụ thể nhiều ngân hàng phải tiến hành vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Các nguồn mà ngân hàng thương mại có thể vay đó là: - Vay từ Ngân hàng Nhà nước Đ ây là khoản vay nhằm giải quyết công việc cấp bách trong chi trả của các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) các ngân hàng thương mại thường vay Sv N«ng V¨n Thùc Líp Ng©n hµng 42A Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2