intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Cụng ty cổ phần dịch vụ hàng hải”

Chia sẻ: Minh Tuan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

59
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt như: chính trị, kinh tế xã hội đến văn hoá, giáo dục… Mà đặc biệt là việc nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao đã làm đòn bảy cho sự phát triển của toàn xã hội. Điều đó được thể hiện rõ khi số liệu thống kê cho thấy: Việt Nam luôn nằm trong số những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới. Vừa qua nước ta đã chính thức góp...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Cụng ty cổ phần dịch vụ hàng hải”

  1. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Luận văn: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Cụng ty cổ phần dịch vụ hàng hải” NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  2. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Lời mở đầu Trong khoảng 20 năm trở lại đây, nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt như: chính trị, kinh tế xã hội đến văn hoá, giáo dục… Mà đặc biệt là việc nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao đã làm đòn bảy cho sự phát triển của toàn xã hội. Điều đó được thể hiện rõ khi số liệu thống kê cho thấy: Việt Nam luôn nằm trong số những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới. Vừa qua nước ta đã chính thức góp tiếng nói chung với nền kinh tế thế giới khi hoàn tất những thủ tục cuối cùng gia nhập WTO - Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới. Việc gia nhập WTO sẽ tạo ra những điều kiện vô cùng thuận lợi cho bước phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Mối quan hệ giao lưu, buôn bán giữa các quốc gia với Việt Nam ngày càng mở rộng. Lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ trao đổi, buôn bán ngày càng có khối lượng lưu thông lớn. Chính vì vậy mà hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay và trong tương lai sẽ rất phát triển. Những lợi ích mà kinh doanh xuất nhập khẩu đem lại là làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nguồn tiết kiệm nước ngoài, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ. Kinh doanh xuất nhập khẩu vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên toàn thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống toàn xã hội. Là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Cục hàng hải, Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải đã và đang không ngừng nỗ lực vươn lên về mọi mặt trong nỗ lực chung của toàn ngành. Hoạt động của Công ty bao gồm những hoạt động như: NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  3. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp - Đại lý cho các hãng tàu quốc tế tại Việt Nam. - Dịch vụ kho bãi hàng hoá - Tổ chức sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá - Dịch vụ vận tải quốc tế và trong nước - Dịch vụ tư vấn hàng hải,… Và trong quá trình thực tập em đã cố gắng tìm hiểu và đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty cổ phần dịch vụ hàng hải". Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn và các cán bộ Công ty cổ phần dịch vụ hàng h ải để hoàn thành đề tài này. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  4. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Chương I Lý luận chung về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu I. Xuất nhập khẩu và vai trò trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập nền kinh tế 1. Bản chất và tính tất yếu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1.1. Khái niệm, bản chất kinh doanh xuất nhập khẩu Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ giữa các nước với nhau thông qua hành vi mua bán. Về cơ bản hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng tương tự như những hoạt động kinh doanh thông thường giữa các đối tượng, giữa các tổ chức kinh tế tham gia trên thị trường nhưng ở đây diễn ra trên một quy mô lớn hơn với khối lượng hàng hoá có giá trị lớn và đưa từ nước này qua nước khác. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những đối tượng sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Trước đây khi chưa có quan hệ trao đổi buôn bán hàng hoá giữa các nước, thì mỗi cá nhân cũng như mỗi quốc gia đều tự thoả mãn các nhu cầu và điều đó gây ra sự hạn chế về nhu cầu của con người và quốc gia. Cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và tác động của những quy luật kinh tế phạm vi chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng rộng, nó đã vượt ra khỏi biên giới một nước và hình thành nên các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các mối quan hệ quốc tế càng được mở rộng, các nước càng có sự phụ thuộc lẫn nhau và hình thành các mối quan hệ buôn bán với nhau. Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  5. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp kiện của nền kinh tế: từ xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng phục vụ đời sống hàng ngày cho đến những tư liệu sản xuất, máy móc hàng hoá thiết bị cao. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra rất rộng về quy mô, không gian, thời gian diễn ra thường rất lớn. Nó có thể trong thời gian ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm trên phạm vi một quốc gia hoặc nhiều quốc gia khác nhau. Và mục tiêu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chính là khai thác được hết mọi lợi thế cũng như khắc phục những hạn chế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, thực hiện mục tiêu quan trọng là thu ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế mỗi quốc gia. Và đối với nước ta thì hoạt động này sẽ góp phần rất lớn vào mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với nền kinh tế thế giới để vươn lên thành một quốc gia giàu mạnh. 1.2. Tính tất yếu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Trao đổi hàng hoá là một hình thức của mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành một lĩnh vực vô cùng quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào quá trình phân công lao động, phát triển kinh tế và đạt được lợi ích một cách tối đa nhất để làm giàu cho đất nước. Sự ra đời và phát triển của kinh doanh xuất nhập khẩu gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Khi xã hội càng phát triển thì phân công lao động quốc tế diễn ra càng nhanh chóng và sâu sắc. Nó phản ánh mối quan hệ phụ thuộc kinh tế giữa các quốc gia ngày càng lớn và sâu sắc. Khi quá trình phân công lao động càng sâu sắc như vậy thì xuất nhập khẩu chính là lĩnh vực kinh doanh tạo tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Thực tế trên thế giới đã cho thấy một quốc gia sẽ không thể tồn tại được chứ chưa nói gì đến NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  6. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp sự phát triển lớn mạnh nếu như tự cô lập hay bị cô lập với kinh tế khu vực và quốc tế. Hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng minh chứng được điều này: điển hình đó là cách các quốc gia mạnh muốn trừng phạt những quốc gia nhỏ luôn sử dụng đến biện pháp về kinh tế. Mà cụ thể đó là hình thức cấm vận nền kinh tế, không cho phép những quốc gia này có quan hệ giao lưu luôn bán với các quốc gia khác. Ví dụ như: Iran, CHDCND Triều Tiên… là những quốc gia đang bị lệnh trừng phạt cấm vận nền kinh tế. Điều đó đã cho thấy kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành cầu nối các quốc gia. Nó trở thành vấn đề sống còn vì nó còn cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức tiêu dùng của một quốc gia. Kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước, nó tạo cho mỗi nước có khả năng mở rộng thị trường ra quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng kỹ thuật cao. Về sự ra đời, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia, giữa các khu vực thế giới. Chính sự khác nhau đó đã tạo cho mỗi quốc gia, khu vực địa lý khác nhau có những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và xã hội khác nhau riêng biệt. Và tạo cho mỗi quốc gia có thể chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những loại hàng hoá khác cần thiết. Điều quan trọng là mỗi nước phải xác định cho được những mặt hàng nào là thế mạnh của nước mình và phải có lợi nhất trên thị trường quốc tế. Chính vì thế mà sự gia tăng hoạt động xuất nhập khẩu xét về kim ngạch cũng như chủng loại hàng hoá đã làm cho vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia được xem xét một cách đặc biệt hơn. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  7. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trên thế giới đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề này, các quốc gia phát triển chỉ xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng nhất định như: Nhật Bản xuất khẩu hàng công nghiệp, hàng công nghệ cao và chỉ nhập khẩu nguyên liệu thô; các nước thuộc khu vực Tây Nam á lại có thế mạnh về dầu mỏ - và xuất khẩu dầu thô, dầu qua tinh chế trở thành ngành kinh doanh chủ lực của cả quốc gia và rộng hơn đó là cả khu vực Tây Nam á… Để hiểu thêm về vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu đến "Lý thuyết lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế" của David Ricardo. D. Ricardo cho rằng: Thương mại quốc tế đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng trở nên phong phú đa dạng. Để giải thích cơ sở kinh tế của thương mại quốc tế đã có nhiều trường phái đưa ra những hàng hoá khác nhau. Trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ các nhà trọng thương chủ trương nhà nước phải tích cực tác động vào nền kinh tế thông qua các chính sách thuế quan bảo hộ, chính sách xuất nhập khẩu tiện tệ, tỷ giá hối đoái để bảo vệ các ngành sản xuất non trẻ; kiểm soát nhập khẩu, thúc đẩy xuất khẩu. Tuy vậy, ở thế kỷ XV- XVII, các nhà trọng thương coi trao đổi thương mại là hành vi tước đoạt lẫn nhau giữa các quốc gia cũng như giữa các thành viên trong một nước. Tuy nhiên, học thuyết trao đổi quốc tế của các nhà trọng thương và trọng nông còn rất sơ sài. Đến cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, những nhà kinh tế học tài sản cổ điển đã đưa ra quan niệm dựa trên sự chuyên môn hoá sản xuất giữa các quốc gia làm cơ sở giải thích quan hệ thương mại quốc tế. Theo quan điểm này, nước nào có đất tốt trồng lúa thì cần chuyên môn vào ngành trồng trọt và mua hàng hoá công nghiệp của các nước khác. Ngược lại, nước nào có nhiều tài nguyên khoáng sản thì nên phát triển công nghiệp và mua lúa mì ở nước khác. Quan điểm đó gọi là lợi thế tuyệt đối trong trao đổi quốc tế. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  8. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với các nước khác về một loại hàng hoá thì lợi ích của thương mại là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu nước A có thể sản xuất hiệu quả hơn nước B cả hai mặt hàng đem trao đổi? Để giải đáp cho câu hỏi này, D. Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh. Lý thuyết lợi thế so sánh khẳng định rằng, nếu một đất nước có lợi thế so sánh trong một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh trong một số sản phẩm khác thì nước đó sẽ có lợi trong chuyên môn hoá và phát triển thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế chủ yếu phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải chỉ phụ thuộc vào lợi thế tuyệt đối. Để giải thích thực chất của lợi thế so sánh, D. Ricardo cho rằng một đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó nếu nước đó có chi phí sản xuất tương đối về mặt hàng đó thấp hơn so với nước khác. Có thể minh hoạ lý thuyết lợi thế so sánh bằng ví dụ sau: Do trình độ năng suất lao động khác nhau nên Mỹ có chi phí sản xuất lương thực và quần áo thấp hơn châu Âu. Nhưng nếu áp dụng nguyên tắc lợi thế so sánh để chuyên môn hóa sản xuất thì Mỹ và Châu Âu đều có lợi: Hao phí lao động Sản phẩm Mỹ Châu Âu 1. Đơn vị lương thực 1 3 2. Đơn vị quần áo 2 4 Bảng số liệu cho thấy: Nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối cả về hai mặt hàng lương thực và quần áo. Nếu so sánh chi phí sản xuất mặt hàng lương thực thì Mỹ sản xuất rẻ hơn châu Âu 3 lần, còn mặt hàng quần áo rẻ hơn 2 lần. Tuy vậy Châu Âu lại có lợi thế so sánh về mặt hàng quần áo, còn Mỹ có lợi thế so sánh về mặt hàng lương thực. Vậy nước Mỹ nên chuyên môn hoá sản xuất lương thực, châu Âu chuyên môn hoá sản xuất quần áo, thì cả 2 bên cùng có lợi trong thương mại quốc tế. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  9. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Lý thuyết lợi thế so sánh (hay tương đối) của David Ricardo đã cho thấy cơ chế lợi ích khi kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra giữa các quốc gia có điều kiện sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, người ta cùng thấy rằng kinh doanh xuất nhập khẩu vẫn diễn ra giữa các quốc gia khi chúng có các điều kiện sản xuất khá giống nhau. Ví dụ như, sự trao đổi buôn bán các mặt hàng điện tử công nghệ cao giữa các nước Tây Âu phát triển, hay sự trao đổi buôn bán ô tô giữa Đức và Mỹ,… ở đây, các quốc gia hoàn toàn tự do lựa chọn các đối tác buôn bán, các mặt hàng có khả năng đem lại lợi ích lớn nhất cho họ. Hiện nay, kinh doanh xuất nhập khẩu không chỉ đem lại lợi ích về kinh tế cho mỗi quốc gia mà nó còn là cầu nối cho toàn xã hội, cho sự giao lưu gắn bó của loài người trên thế giới. Chính vì vậy mà hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trở thành một bộ phận tất yếu cho mỗi quốc gia phát triển. 2. Các nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá tại các doanh nghiệp 2.1. Quy trình xuất nhập khẩu hàng hoá 2.1.1. Quy trình xuất khẩu hàng hoá NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  10. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Về cơ bản hoạt động xuất khẩu hàng hoá được biểu diễn như sơ đồ sau: Tạo nguồn hàng và khách hàng xuất khẩu Đàm phán ký kết hợp đồng Những thủ tục hành chính Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu Làm thủ tục thuê tàu lưu cước nếu giữa CIF Mua bảo hiểm Thực hiện thủ tục hải quan Giao nhận hàng với chủ tàu Làm thủ tục thanh toán NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  11. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 2.1.2. Quy trình nhập khẩu hàng hoá Hoạt động nhập khẩu hàng hoá được biểu diễn qua sơ đồ sau: Chọn đối tác Ký kết hợp đồng Mở tín dụng Thuê và cho tàu đến tiếp nhận vận chuyển hàng Thực hiện bảo hiểm vận chuyển hàng hoá Tiếp nhận hàng về Kiểm tra chứng từ và thanh toán Mua bảo hiểm Thực hiện thủ tục hải quan Khai báo Làm thủ tục Nghiệm thu hàng hoá hải quan hải quan Bồi thường nhập khẩu NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  12. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 2.2. Công tác nghiên cứu thị trường Do hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu diễn ra trên thị trường quốc tế, các cá nhân và tổ chức kinh doanh nằm tại các quốc gia khác nhau vì vậy khi tiến hành hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá sẽ phải chuyển từ biên giới nước này sang nước khác. Mặt khác, mỗi nước lại có những chính sách, hệ thống luật pháp, thể lệ và tập quán giao thương khác nhau vì vậy các cá nhân và tổ chức kinh doanh khi tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ phải tự đặt câu hỏi và giải đáp chúng như: kinh doanh hàng hoá gì? với ai? ở đâu? Thanh toán bằng hình thức nào? Thời điểm thực hiện là bao giờ?... 2.2.1. Nghiên cứu thị trường thế giới Khi tiến hành nghiên cứu thị trường thế giới, mà thựuc chất ở đây là việc nghiên cứu đối với thị trường trong nước. Mỗi doanh nghiệp kinh doanh cần tập trung nghiên cứu các khía cạnh chủ yếu sau: Đặc tính - chất lượng hàng hoá, thị hiếu của người tiêu dùng, các chính sách thương mại - luật pháp mỗi quốc gia, tập quán thương mại tại bản địa, tình hình kinh tế toàn quốc gia, điều kiện chuyên chở và bốc xếp, đặc tính thị trường cũng như dung lượng và giá cả thị trường v.v.. 2.2.2. Nghiên cứu thị trường trong nước Khi nghiên cứu thị trường trong nước, trước hết doanh nghiệp phải nắm bắt tình hình trong nước về những mặt liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. - Nhận biết hàng hoá xuất nhập khẩu: Tìm hiểu những mặt hàng trong nước có uy tín và được thị trường thế giới đánh giá cao, những mặt hàng có đủ tiêu chuẩn ISO- đó sẽ là điều kiện thuận lợi để bạn hàng dễ chấp nhận. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  13. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Tìm hiểu nhu cầu của thị trường trong nước đang thiếu những loại hàng hoá nào, sở thích - tâm lý của khách hàng người tiêu dùng có chuộng hàng ngoại không?… - Các doanh nghiệp cần phải nắm chắc luật pháp, các chính sách kinh tế, chế độ tập quán của nước liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Nắm rõ tính ổn định nền kinh tế, chính trị, … 2.2.3. Tiến hành lựa chọn đối tượng kinh doanh Sẽ có rất nhiều doanh nghiệp, nhà kinh doanh trên cùng một thị trường và đều kinh doanh cùng chủng loại hàng hoá như nhau vì vậy khi tiến hành lựa chọn đối tác mỗi doanh nghiệp cần phải tìm hiểu về: phạm vi kinh doanh, khả năng tài chính, quy mô hoạt động, cơ sở vật chất kỹ thuật, uy tín của đối tác trên thị trường,… và thái độ liên quan đến chính trị của đối tác. Để có thể lựa chọn đối tác kinh doanh một cách tốt nhất, các doanh nghiệp có thể dùng một số phương pháp để điều tra như sau: + Qua sách báo, thông tin tài liệu từ Internet. + Qua các dịch vụ tư vấn của các doanh nghiệp hay của cơ quan nhà nước. + Qua điều tra trực tiếp + Hoặc buôn bán thử để tìm hiểu,… 2.3. Tiến hành lập phương án giao dịch Để tiến hành hoạt động giao dịch gồm các bước chi tiết sau: - Lựa chọn mặt hàng kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu. - Lựa chọn thị trường - khách hàng tiêu dùng - phương thức giao dịch vận chuyển. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  14. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp - Xác định số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. - Kiểm tra chất lượng hàng hoá - Lựa chọn thời gian, thời điểm, địa điểm giao nhận. - Xây dựng lựa chọn các biện pháp phát triển quan hệ như: hội nghị khách hàng, tổ chức chiêu đãi, đầu tư quảng cáo, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mới,… - Tính toán và dự báo kết quả công việc giao dịch hàng hoá xuất nhập khẩu. 2.4. Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng 2.5. Thực hiện ký kết, chính thức hoạt động xuất nhập khẩu 3. Vai trò của xuất nhập khẩu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập nền kinh tế ở nước ta Đối với nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia và tác động qua lại lẫn nhau bắt nguồn từ hoạt động thương mại khác nhau nói chung và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hoạt động xuất nhập khẩu đã tác động vào các quốc gia tham gia quá trình phân công lao động quốc tế. Các quốc gia sẽ tập trung sản xuất các sản phẩm mà mình có lợi thế để xuất khẩu, và ngược lại sẽ nhập khẩu hàng hoá mà mình không có lợi thế. Hoạt động xuất nhập khẩu không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế mỗi quốc gia. Chính vì vậy màhoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua hoạt động này sẽ giúp nền kinh tế nội địa tăng ngoại tệ thu được, thay đổi cán cân thanh toán theo hướng có lợi, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách quốc gia, tiếp cận được NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  15. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp những phương thức quản lý kinh tế tiên tiến trên thế giới, tiếp xúc với khoa học công nghệ cao áp dụng cho sản xuất phát triển, tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho hàng hoá trong và ngoài nước,… và trên hết là hướng đến mục đích nâng cao đời sống cho nhân dân. Đang trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế còn đang phát triển với trình độ thấp như nước ta, thì những yếu tố thiếu hụt như: vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý… hay có những yếu tố là thế mạnh và tiềm năng của đất nước như: tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào,… Việc xây dựng chiến lược cho hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng và cấp bách đối với nước ta, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Và mục đích của việc cố gắng đưa nền kinh tế nước ta tham gia vào tổ chức WTO cũng chính là giải pháp mở cửa nền kinh tế để huy động những nguồn vốn, kỹ thuật từ các quốc gia khác trên thế giới kết hợp với nguồn lực trong nước để tạo ra sức mạnh mới cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Tất cả với mục đích đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thu hẹp khoảng cách với các nước khác trên thế giới. Để đạt được mục tiêu đề ra, thì nhà nước phải xây dựng được chính sách xuất nhập khẩu nói riêng- chính sách kinh tế nói chung phù hợp với hoàn cảnh điều kiện nền kinh tế nước ta. Một khi đã xây dựng được những chính sách hợp lý trong điều kiện hội nhập nền kinh tế như hiện nay nó sẽ góp phần quan trọng giúp cho các doanh nghiệp có thể: + Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch mở rộng thị trường của mình, qua đó các doanh nghiệp tạo được tên tuổi của mình với các đối tác nước ngoài. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  16. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp + Giúp các doanh nghiệp tạo được nguồn thu ngoại tệ, tăng dự trữ qua đó nâng cao khả năng xuất khẩu, thay thế, bổ sung… phục vụ cho quá trình phát triển. + Phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ xuất nhập khẩu cũng như các đơn vị tham gia: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt hàng trong khả năng xuất khẩu mà doanh nghiệp có thể thâm nhập. + Giúp các doanh nghiệp có thể đổi mới công tác quản trị kinh doanh đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ của chu kỳ sống một sản phẩm trên thị trường. + Khi có sự cạnh tranh lành mạnh giúp các doanh nghiệp phải có kế hoạch, chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm yếu tố đầu vào… II. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu 1. Các hình thức xuất nhập khẩu chủ yếu 1.1. Các hình thức xuất khẩu - Xuất khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ - bộ phận, vật tư phụ tùng dành cho sản xuất. - Xuất khẩu các loại hàng hoá dưới hình thức trao đổi, hợp tác sản xuất gia công liên doanh quốc tế. - Các hình thức chuyển khẩu - tạm nhập tái xuất. - Các dịch vụ như làm đại lý, uỷ thác cho các doanh nghiệp tổ chức nước ngoài. - Hoạt động của các tổ chức kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài. 1.2. Các hình thức nhập khẩu cơ bản - Nhập khẩu uỷ thác - Nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng - Nhập khẩu theo hình thức đổi hàng - Nhập khẩu tái xuất NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  17. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp 2. Các phương pháp đánh giá hiệu quả 2.1. Một số quan điểm về hiệu quả Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Nếu ký hiệu K: là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác nhau. D. là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau. t: là hiệu quả Ta có công thức hiệu quả chung là: E=K-C (1) hiệu quả tuyệt đối E = Error! (2) hiệu quả tương đối Một cách chung nhất, kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu. Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích đánh giá và lựa chọn các phương án hành động. 2.1.1. Các khái niệm hiệu quả Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều khái niệm khác nhau. a) Hiệu quả tổng hợp: là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mới mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong mối quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó. NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  18. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp b) Hiệu quả kinh doanh: là hiệu quả nếu chỉ xét về khía cạnh kinh tế của vấn đề, là một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt động kinh tế của các chủ thể khác nhau. Hiệu quả kinh tế mô tả mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận được và chi phí bỏ ra để nhận được lợi ích kinh tế đó. c) Hiệu quả chính trị xã hội: là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Chẳng hạn giải quyết công ăn việc làm, công bằng xã hội, môi trường,… d) Hiệu quả trực tiếp: là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án, một doanh nghiệp (một đối tượng). e) Hiệu quả gián tiếp: là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho một đối tượng khác Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng loạt những dự án khác. Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn hiểu quả của các dự án khác là hiệu quả gián tiếp. f) Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối: là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí, còn hiệu quả tương đối được đo bằng tỉ số giữa kết quả và chi phí. Lợi nhuận ròng hàng năm được xem như là hình thức của hiệu quả tuyệt đối, tỷ suất lợi nhuận là hình thức của hiệu quả tương đối. 2.1.2. Hiệu quả tài chính Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  19. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lơi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến thu, chi có liên quan trực tiếp. 2.1.3. Hiệu quả kinh tế quốc dân Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người đại diện cho nó là Nhà nước. Vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xét theo quan điểm toàn bộ nền kinh tế. 2.1.4. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài Căn cứ vào lợi ích nhận được trong những khoảng thời gian dài hay ngắn hình thành khái niệm hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn. Lợi ích được xem xét trong loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt mang tính tạm thời. Việc nhập những thiết bị cũ, công nghệ kém tiên tiến, rẻ tiền có thể mang lại hiệu quả trước mắt nhưng về lâu dài không hẳn là như vậy. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian dài. Việc bỏ tiền mua bảo hiểm có lợi ích trước mắt bị vi phạm nhưng nó tạo ra một thế ổn định lâu dài, nó cho phép san bớt rủi ro cho các nhà bảo hiểm. 2.2. Hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu Hiện nay ở nước ta kinh doanh thương mại quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
  20. Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp thứ VIII nhấn mạnh: "Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ…" (Văn kiện Đại hội Đảng VIII - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 1996). Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định để tham gia phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm. Kinh doanh thương mại quốc tế chiếm một vị trí quan trọng trong tái sản xuất xã hội. Khi sản xuất các hàng hoá để xuất khẩu, các quốc gia bỏ ra những chi phí nhất định. Các tỷ lệ trao đổi (mua bán) được hình thành trên cơ sở giá cả quốc tế. Mức giá và tương quan của nó khác với giá trong nội bộ của nước xuất khẩu. Mặt khác, sản phẩm nhập khẩu tham gia vào lưu thông hàng hoá trong nước và tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, thực tế không tái sản xuất tại nước đó. Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hoá hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi đối với nước ngoài, tạo thêm tích luỹ cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước. Với đặc thù của kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động kinh doanh này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường văn hoá của các tác nhân nước ngoài. Vì vậy, khi thực hiện hoạt động kinh doanh này cần phải xem xét tổng quan các tác nhân ảnh hưởng đến nó để có các NguyÔn H÷u Phong - QLKT 45A
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2