intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

160
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển tp hà nội', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội
  2. LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động ngân hàng là một mắt xích không thể thiếu trong sự vận động của nền kinh tế. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong đó có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc, những bước phát triển mạnh đóng góp tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, trải qua 50 năm xây dựng và phát triển đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, luôn giữ vai trò đầu tàu trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trước bối cảnh cạnh tranh mới trong nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã thực hiện triệt để các biện pháp để lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính song song với xử lý tốt nợ tồn đọng, cơ cấu lại hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng đã không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng thị phần để khẳng định vị thế và nâng cao tính cạnh tranh của Ngân hàng trên địa bàn. Trong hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, hoạt động tín dụng đóng vai trò then chốt, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng ẩn chứa nhiều rủi ro, đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Trong khi đó, khách hàng truyền thống của Ngân hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, vì thế dư nợ đối với loại hình doanh nghiệp này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp tại ngân hàng còn chưa an toàn, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội” để tìm hiểu kĩ hơn về thực trạng này. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần : Chương I : Tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp xây lắp. Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
  3. Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
  4. CHƯƠNG 1 TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặt biệt là chính sách tiền tệ, do vậy ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM) được tiếp cận trên nhiều phương diện. Căn cứ vào các hoạt động chủ yếu của NHTM, Điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ghi: “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.” “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Căn cứ vào các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, có thể định nghĩa: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. 1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Với vai trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại thực hiện chuyển vốn từ người cho vay-người tiết kiệm sang người đi vay-người đầu tư. Vì vậy, các hoạt động cơ bản của NHTM gồm có huy động vốn, tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác. * Hoạt động huy động vốn
  5. Huy động vốn là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM. Ngân hàng thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi bắt đầu hoạt động, ngân hàng thực hiện mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng đã huy động được lượng tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế hay lượng tiền gửi không đáp ứng được nhu cầu chi trả, Ngân hàng thường vay mượn thêm. Ngân hàng thương mại có thể thực hiện vay của Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường vốn. Nghiệp vụ này được thực hiện chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách của NHTM. Ngoài các hình thức huy động trên, NHTM còn thực hiện việc huy động vốn chủ sở hữu thông qua phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định… Hình thức huy động này tuy không thường xuyên song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn khi cần thiết. * Hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM thực hiện các hoạt động tín dụng, đầu tư và trung gian khác. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính, chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho bên đi vay, sau một khoảng thời gian nhất định bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng. Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các loại chứng khoán mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán như chứng khoán Chính phủ, giấy nợ ngắn hạn của các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính…
  6. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động khác như tham gia góp vốn với các tổ chức khác, cung cấp các dịch vụ liên quan đi kèm cho khách hàng để thu phí hoa hồng… 1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể, trong đó có sự chuyển giao một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác theo những điều kiện mà hai bên thỏa thuận. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng… Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao nhất, thể hiện mối quan hệ tín dụng bằng tiền tệ, giữa một bên là ngân hàng-tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.” Nền kinh tế ngày càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng được thực hiện càng lớn. Tín dụng ngân hàng hiện nay đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường, đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ. 1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng Hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn của ngân hàng. Phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có thể phân loại hoạt động tín dụng dựa trên các tiêu thức sau đây : 1.2.2.1. Căn cứ theo thời gian
  7. Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Dựa vào căn cứ này, tín dụng được chia thành 3 loại như sau: - Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn từ 12 tháng trở xuống - Tín dụng trung hạn : có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm - Tín dụng dài hạn : có thời hạn trên 5 năm Tín dụng trung, dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn tín dụng ngắn hạn do có độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. 1.2.2.2. Căn cứ theo hình thức tài trợ tín dụng Theo hình thức này, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê… - Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu : doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. - Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh do vậy nó được ghi vào tài sản ngoại bảng. - Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng. Nghiệp vụ chiết khấu dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Độ an toàn của thương phiếu tương đối cao do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng. Hơn nữa, thương phiếu có tính thanh khoản cao nên ngân hàng có thể thực hiện tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. - Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. 1.2.2.3. Căn cứ theo tài sản đảm bảo Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành 2 loại:
  8. - Tín dụng không có tài sản đảm bảo : loại tín dụng này có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa… - Tín dụng có tài sản bảo đảm : là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. 1.2.3. Tín dụng trung, dài hạn của NHTM 1.2.3.1. Khái niệm và các hình thức tín dụng trung, dài hạn của NHTM Quan niệm về tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, tín dụng trung, dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm. - Tín dụng trung hạn : từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn. - Tín dụng dài hạn : trên 5 năm tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu. Dựa và mục đích cho vay, tín dụng trung, dài hạn được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau: - Cho vay kỳ hạn : thường dùng để tài trợ cho các mục đích chung của doanh nghiệp, bao gồm tài trợ mua sắm bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh, các thiết bị sản xuất, tài trợ vốn cho việc thanh toán các khoản nợ như nợ đến hạn mua máy móc thiết bị trả chậm nước ngoài đã được ngân hàng bảo lãnh…Việc thanh toán tiền theo định kỳ có thể bằng nhau hoặc khác nhau, có thời hạn ân hạn. - Cho vay mua sắm máy móc thiết bị trả góp : là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp có thời hạn trên 1 năm, tiền vay là lãi được thanh toán dần cho Ngân hàng theo định kỳ. Việc thanh toán tiền vay và lãi bằng nhau theo các định kỳ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không thích dạng này vì không thuận lợi bằng cho vay kỳ hạn (không trả được nợ trước hạn để giảm tiền lãi). - Tài trợ theo dự án : là một hình thức cho vay trung, dài hạn trong đó ngân hàng chỉ thu hồi được vốn từ nguồn thu nhập tạo ra từ dự án và phải chịu rủi ro trong trường
  9. hợp dự án không thành công. Tài trợ theo dự án thường được áp dụng trong các dự án đầu tư hạ tầng như xây dựng đường xá, cấp nước đô thị, năng lượng... 1.2.3.2. Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn * Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài và thu hồi vốn chậm Đối tượng tài trợ của tín dụng trung, dài hạn là các nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm máy móc thiết bị, dự án xây dựng mới…của doanh nghiệp. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu. Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Hơn nữa, nguồn trả nợ cho khoản vay được lấy từ quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc, dẫn đến thu hồi vốn chậm. * Rủi ro cao Do đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn là có thời gian dài, thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng này luôn cao. Một dự án có thời gian đầu tư dài có thể chịu nhiều tác động của các yếu tố như thiên tai, chiến tranh, sự thay đổi của môi trường kinh tế, chính sách pháp luật, tâm lý người dân…Hơn nữa, các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có số vốn đầu tư lớn nên khi rủi ro xảy ra sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng hơn cho ngân hàng so với các khoản tín dụng ngắn hạn. * Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung, dài hạn lớn Do các khoản tín dụng trung, dài hạn có thời hạn dài, độ rủi ro cao nên lãi suất của các khoản vay này thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Sự biến đổi lãi suất cho vay trung, dài hạn có thể dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định, lãi suất của thị trường quốc tế hoặc sự biến đổi của chỉ số giá cả chung. Ngoài ra, do các khoản tín dụng trung, dài hạn có tính thanh khoản thấp, khả năng chuyển đổi thành tiền thấp hoặc chịu chi phí cao nên ngân hàng thường đặt mức lãi suất cao cho các khoản vay này. Thêm vào đó, các khoản tín dụng trung, dài hạn có số vốn lớn nên thu nhập mà các khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là lớn. 1.3. Doanh nghiệp xây lắp 1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp
  10. Doanh nghiệp xây lắp (hay còn gọi là doanh nghiệp xây dựng) là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng (Theo điều 16 Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ). Các doanh nghiệp này thực hiện quá trình xây dựng mới, xây dựng lại, cải tạo các công trình nhà máy, đường xá, cầu cống, nhà cửa… nhằm phục vụ sản xuất và đời sống xã hội. Trách nhiệm của các doanh nghiệp xây lắp : - Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật. - Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã cam kết trong hợp đồng với chủ đầu tư, bao gồm số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời gian thực hiện hợp đồng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dựng theo quy định. - Thực hiện an toàn lao động, các chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng…Thông tin rộng rãi về năng lực hoạt động của doanh nghiệp để chủ đầu tư biết và lựa chọn. 1.3.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp Hoạt động của từng doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đăng ký với pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp thường bao gồm như sau: - Xây dựng + Xây dựng các công trình công nghiệp, công cộng và dân dụng : các nhà máy (cơ khí, điện, điện tử viễn thông, hóa chất, hóa dầu, phân bón, may mặc da giày, thuốc lá…), văn phòng, bệnh viện, khách sạn, các khu nhà ở, chung cư, trường học, trung tâm văn hóa, trung tâm thể thao, trung tâm thương mại. + Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng : các công trình giao thông, đê đập, sân bay, các khu đô thị và công nghiệp, các khu chế xuất, hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước thải, san đắp mặt bằng.
  11. + Xây dựng các công trình điện, hệ thống kiểm tra đo đếm, viễn thông : nhà máy phát điện, đường dây, trạm biến áp, các hệ thống truyền tải và phân phối, các hệ thống thiết bị kiểm tra, các công trình và hệ thống thông tin, viễn thông… - Tư vấn thiết kế : tư vấn đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quản lý dự án, khảo sát địa chất, thiết kế kỹ thuật, thiết kế chi tiết, lập dự toán, giám sát kỹ thuật công trình, kiểm tra chất lượng các công trình công nghiệp và dân dụng, thiết kế công trình điện… - Lắp đặt + Lắp các thiết bị công nghệ, khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất + Lắp đặt các thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện… - Chế tạo + Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, gạch, băng tải… + Chế tạo kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực… - Hoạt động khác + Đào tạo công nhân kỹ thuật + Kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại hàng hóa, vật tư thiết bị + Xuất khẩu lao động… 1.3.3. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp 1.3.3.1. Về sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp Sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp thường mang những đặc điểm riêng, khác với các sản phẩm hàng hóa trong lĩnh vực khác như mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng, yêu cầu riêng về công nghệ, quy phạm…Những đặc điểm riêng này chi phối làm cho công tác quản lý, điều hành hoạt động trong quy trình thực hiện đầu tư dễ gây ra lãng phí, thất thoát, phát sinh tiêu cực. Vì vậy, việc xây dựng cơ chế, chính sách trong hoạt động xây lắp và đầu tư không thể đạt kết quả tốt nếu không nghiên cứu đặc điểm riêng biệt của ngành xây lắp cũng như đặc điểm về sản phẩm của ngành. - Sản phẩm xây lắp là các công trình có quy mô lớn, kết cấu phức tạp. Sản phẩm xây lắp mang tính cố định, nơi sản xuất ra sản phẩm đồng thời là nơi sản phẩm được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Các điều kiện sản xuất như vật liệu, lao động, máy móc thi công phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm công trình.
  12. Đặc điểm này làm khó khăn cho công tác tổ chức sản xuất. Việc bố trí các công trình tạm phục vụ thi công như lán trại cùng phương tiện, máy móc thiết bị làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Do đó, các doanh nghiệp xây lắp cần lựa chọn loại hình tổ chức quản lý sản xuất thích hợp, linh hoạt, tăng cường tính cơ động về mặt trang thiết bị, máy móc phục vụ thi công. - Quá trình xây dựng lâu dài, chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, khiến cho máy móc thiết bị, công trình dễ bị hư hỏng, ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Đặc điểm này làm cho các đơn vị xây lắp không lường trước được hết những khó khăn do tác động của thời tiết, khí hậu. Rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tới tiến độ thi công công trình, giá thành công trình, thậm chí cả chất lượng công trình. Hơn nữa, cũng do quá trình xây dựng kéo dài nên đòi hỏi các doanh nghiệp xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế và thi công). Dự toán là chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây dựng, không vượt tổng mức đầu tư đã duyệt. - Sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, thường được sản xuất theo đơn đặt hàng. Vì thế, chi phí bỏ vào sản xuất cũng khác nhau giữa các công trình. Chi phí cho sản phẩm xây lắp rất đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu, máy móc thi công và nhiều loại thợ các ngành nghề khác nhau. - Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản phẩm có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, mọi sai lầm trong quá trình thi công thường khó sửa chữa, gây thiệt hại nghiêm trọng. Do vậy, trong quá trình thi công cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chất lượng công trình. - Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thỏa thuận với chủ đầu tư (hay giá đấu thầu). Do vậy, tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường. Sản phẩm thông thường không biết người tiêu dùng là ai, trong khi sản phẩm xây lắp đã được quy định trước giá cả, người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận thầu. - Doanh nghiệp xây lắp có trách nhiệm bảo hành sản phẩm xây lắp sau khi bàn giao. Bảo hành công trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ sở pháp luật và hợp
  13. đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu. Bảo hành công trình nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư, đồng thời xác lập trách nhiệm của các đơn vị thi công xây lắp trong sửa chữa các hư hỏng xảy ra trong thời gian bảo hành. - Sản phẩm xây lắp liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình xây dựng và sử dụng. Tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm của ngành xây lắp. Do vậy, chất lượng sản phẩm xây lắp liên quan đến chất lượng đầu tư của các ngành và hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế. 1.3.3.2. Về hoạt động của doanh nghiệp xây lắp Doanh nghiệp xây lắp có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng và hoạt động bàn giao công trình hoàn thành, thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư. Trong xây dựng, người ta thường phân biệt một bên là chủ đầu tư (bên A) và đơn vị xây dựng bao thầu (bên B). Hiện nay, các dự án đều thực hiện đấu thầu công khai nhằm chọn các đơn vị xây dựng có đủ tư cách pháp nhân, năng lực hành nghề xây dựng. Do đó, một trong những vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xây lắp là phải giành được thế chạnh tranh để có thể ký được nhiều hợp đồng xây dựng. Nếu hoạt động này đạt kết quả tốt thì các hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động sản xuất thi công xây lắp, hoạt động bàn giao công trình, hoạt động tài chính… mới có điều kiện được thực hiện. Hoạt động bàn giao công trình xây dựng hoàn thành và thanh quyết toán hợp đồng với chủ đầu tư được xem là hoạt động quan trọng cuối cùng trong hợp đồng xây dựng. Hoạt động này có quan hệ tích cực cũng như tiêu cực tới hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng của doanh nghiệp. Nếu công trình xây dựng đảm bảo chất lượng và thời gian thi công sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp xây lắp trên thị trường. Ngược lại, nếu doanh nghiệp bàn giao những công trình không đảm bảo chất lượng và thời gian thì có thể sẽ không được chủ đầu tư chấp nhận, gây khó khăn cho việc thanh quyết toán và uy tín của doanh nghiệp xây lắp sẽ bị giảm. 1.3.3.3. Về tình hình tài chính của doanh nghiệp xây lắp
  14. - Vốn tự có của doanh nghiệp xây lắp thấp, chủ yếu là máy móc thiết bị đã qua sử dụng. Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp xây lắp chỉ chiếm khoảng 5- 15% trong tổng nguồn vốn, còn lại là vốn vay ngân hàng và vốn chiếm dụng khác. Do đó, gánh nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, do sản lượng thi công tăng lên cùng với yêu cầu cao về chất lượng công trình đòi hỏi doanh nghiệp phải trang bị những thiết bị thi công hiện đại. Vì vậy, nhu cầu vốn (cả vốn lưu động và vốn đầu tư trung, dài hạn) ngày càng tăng. Do đó, trong hoạt động của các đơn vị này, nhu cầu vay vốn ngân hàng để tài trợ là thường xuyên và rất lớn. - Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xây lắp thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng thường cho vay các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu để tài trợ vốn lưu động, phục vụ thi công các công trình. Đối với nhu cầu đầu tư mới, ngân hàng thường chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các doanh nghiệp xây lắp phải bỏ vốn tự có của mình. - Tốc độ chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp xây lắp thường không cao. Do quy mô lớn, thời gian sản xuất kéo dài nên vốn dùng để đầu tư vào công trình dễ bị ứ đọng, gây ra tình trạng thất thoát lãng phí. Nếu công trình thiếu vốn hoạt động thì quá trình thi công sẽ bị gián đoạn, thời gian xây dựng bị kéo dài hơn. Khi công trình hoàn thành, công tác nghiệm thu, quyết toán và thanh toán phụ thuộc nhiều vào chủ đầu tư. Do vậy, các doanh nghiệp xây lắp thường bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài, tốc độ quay vòng vốn lưu động thấp. Nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho thi công lớn trong khi vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn nên các doanh nghiệp xây lắp phải huy động vốn bên ngoài, chủ yếu là vốn vay ngân hàng. 1.3.3.4. Về tổ chức quản lý của doanh nghiệp xây lắp Hoạt động tổ chức quản lý, điều hành có ảnh hưởng lớn đến tiến độ hoàn thành, chất lượng các công trình xây dựng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Hoạt động sản xuất thường diễn ra ở ngoài trời, chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nên đòi hỏi công tác tổ chức, quản lý trong xây dựng phải khoa học, hợp lý
  15. để đảm bảo phối hợp tốt hoạt động của các đội, nhóm lao động, đảm bảo cung ứng, dự trữ, bảo quản vật liệu…tránh rủi ro và đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. 1.4. Vai trò của tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp Trong nền kinh tế, xuất phát từ sự khác biệt về đặc điểm tuần hoàn luân chuyển vốn cũng như về chu kỳ kinh doanh, chu kỳ thu nhập của các doanh nghiệp mà một số doanh nghiệp thiếu hụt về vốn trong khi một số chủ thể khác lại tạm thời thặng dư vốn. Tín dụng trung, dài hạn đã khắc phục tình trạng này bằng cách tập trung vốn tiền tệ nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để cung cấp cho các chủ thể cần vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó đã làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ quay vòng của vốn, góp phần điều hòa vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Như vậy, nếu không có nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn thì doanh nghiệp khó có thể thực hiện được mục đích kinh tế của mình trong những điều kiện cụ thể, hay nói cách khác là nhờ nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn bổ sung kịp thời, các doanh nghiệp mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng trung, dài hạn cũng phát huy vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp xây lắp : - Tín dụng trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xây lắp, giúp các doanh nghiệp này duy trì và mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Thông qua tài trợ cho việc sửa chữa, thay thế, đổi mới máy móc thiết bị, các dự án xây dựng phát triển, tín dụng trung, dài hạn đã góp phần quan trọng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, tạo điều kiện cần cho sự phát triển của đất nước. - Tín dụng trung, dài hạn thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất của doanh nghiệp xây lắp đối với nền kinh tế. Ngân hàng và các doanh nghiệp xây lắp có quan hệ lâu dài nên ngân hàng có thể nắm được tình hình tổ chức cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với vai trò của mình, tín dụng ngân hàng góp phần điều hòa vốn giữa các doanh nghiệp xây lắp, thúc đẩy toàn bộ ngành xây dựng phát triển, tăng cường chữ tín với khách hàng.
  16. Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn thường được tập trung tài trợ cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Điều này bắt buộc các doanh nghiệp xây lắp phải chủ động đứng vững và có sức cạnh tranh lớn trên thị trường. Hơn nữa, khi cho vay, ngân hàng thường tìm hiểu tình hình tài chính của doanh nghiệp, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, rủi ro của doanh nghiệp. Do vậy, để có thể vay vốn ngân hàng, các doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng tài chính tốt. Tín dụng ngân hàng trở thành công cụ kích thích quá trình sản xuất, quản lý kinh tế, kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. - Tín dụng trung, dài hạn góp phần tác động đến tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của doanh nghiệp xây lắp. Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là dựa trên cơ sở cho vay có hoàn trả cả gốc và lãi. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tính toán để có một tỷ lệ lãi trên vốn vay lớn hơn lãi suất cho vay của ngân hàng, kích thích việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, các doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay đúng hạn, thực hiện đúng theo hợp đồng tín dụng.Vì thế đòi hỏi các doanh nghiệp phải sáng tạo trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay vốn, nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp. Tóm lại, tín dụng trung, dài hạn có vai trò rất quan trọng, được coi như một mắt xích không thể thiếu đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam hiện nay, khi cơ cấu kinh tế nhiều mặt chưa hợp lý, thất nghiệp ở mức độ cao, thì đầu tư tín dụng trung, dài hạn góp phần sắp xếp lại sản xuất, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn giúp cho việc khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, nguồn tài nguyên, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết tốt các vấn đề của xã hội. 1.5. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHTM 1.5.1. Khái niệm chất lượng tín dụng trung, dài hạn
  17. Tín dụng trung, dài hạn của NHTM có vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Tín dụng trung, dài hạn hiệu quả làm tăng thêm vốn từ việc tăng vòng quay vốn, thu hút nhiều khách hàng, tăng khả năng sinh lời của các dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín dụng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn tiềm ẩn nhiểu rủi ro đối với hoạt động ngân hàng. Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, kiểm soát rủi ro, ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng nói chung cũng như chất lượng tín dụng trung, dài hạn nói riêng. Để hiểu một cách đầy đủ về chất lượng tín dụng trung, dài hạn, trước tiên chúng ta cần đưa ra định nghĩa về chất lượng. Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hóa hoặc dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng, kỹ thuật chế biến là những đặc điểm quan trọng của chất lượng sản phẩm ảnh hưởng đến việc người tiêu dùng mua sản phẩm đó. Chất lượng tín dụng là khái niệm phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chất lượng tín dụng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng góp phần vào sự phát triển xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tùy thuộc vào từng đối tượng tham gia vào quan hệ tín dụng mà chất lượng tín dụng được đánh giá dựa trên các giác độ khác nhau : - Đối với sự phát triển kinh tế xã hội : tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Đối với khách hàng : tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện. - Đối với ngân hàng : Chất lượng tín dụng trước hết được đánh giá qua tính an toàn của khoản tín dụng hay khả năng trả nợ của khách hàng. Vốn cho vay ra phải được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên ngoài việc đảm bảo an toàn vốn vay thì việc gia tăng lợi nhuận là mục tiêu mà ngân
  18. hàng luôn hướng tới. Một khoản cho vay có chất lượng là khoản cho vay được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi. Ngoài ra, chất lượng tín dụng đối với ngân hàng thương mại còn được đánh giá qua khả năng mở rộng thị phần, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dịch vụ, tối ưu hóa lợi nhuận ngân hàng. Như vậy, có thể thấy chất lượng tín dụng là mục tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn phản ánh kết quả hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn được thể hiện qua các chỉ tiêu như chỉ tiêu khả năng sinh lãi, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu… 1.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn 1.5.2.1. Các chỉ tiêu định tính - Các khoản tín dụng trung, dài hạn được thực hiện theo đúng quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc cấp tín dụng. Việc có thực hiện đúng các quy trình tín dụng hay không ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lời của khoản vay. - Thời gian xét duyệt một khoản tín dụng trung, dài hạn. Tín dụng trung, dài hạn thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án đầu tư, mua sắm trang thiết bị. Do độ rủi ro cao nên thời gian xét duyệt tín dụng trung, dài hạn thường dài hơn so với một khoản tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu thời gian xét duyệt quá dài sẽ gây ảnh hưởng đến nhu cầu vốn, khả năng sản xuất kinh doanh của khách hàng. Đối với doanh nghiệp xây lắp, thời gian xét duyệt tín dụng ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành công trình, khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp xây lắp. - Mức độ hài lòng của khách hàng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, những chỉ tiêu định tính này rất khó để có thể lượng hóa, với những khách hàng khác nhau thì sự thỏa mãn và đánh giá sẽ khác nhau. Vì thế, ngân hàng thường sử dụng các chỉ tiêu định lượng để đánh giá vì nó dễ tính toán. Ngân hàng phân
  19. tích tổng hợp các chỉ tiêu, từ đó đưa ra kết luận về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. 1.5.2.2. Các chỉ tiêu định lượng * Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn Dư nợ tín dụng trung, dài hạn Tỷ trọng dư nợ tín dụng = ————————————— trung, dài hạn Tổng dư nợ tín dụng Dư nợ tín dụng trung, dài hạn và tổng dư nợ tín dụng là các chỉ tiêu mang tính thời điểm. Nó phản ánh lượng vốn ngân hàng đã giải ngân cho các khoản tín dụng mà khách hàng đang còn nợ ngân hàng tại thời điểm cuối kỳ. Tổng dư nợ tín dụng phản ánh quy mô tín dụng, sự tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Thông qua chỉ số này cũng đánh giá được khả năng huy động vốn của ngân hàng. Ngân hàng có tổng dư nợ tín dụng cao chứng tỏ khả năng huy động vốn của ngân hàng tốt. Dư nợ tín dụng trung, dài hạn phản ánh lượng vốn trung, dài hạn khách hàng đang nợ ngân hàng vào thời điểm cuối kỳ. Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn cho biết dư nợ trung, dài hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ. Qua chỉ tiêu này có thể thấy được chính sách tín dụng của ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng trung, dài hạn. Thông thường, do tín dụng trung, dài hạn có độ rủi ro cao nên tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn thường thấp hơn so với tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp, các ngân hàng thường tính toán và xem xét chỉ tiêu về tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp : Tỷ trọng dư nợ tín dụng Dư nợ tín dụng TDH đv DNXL trung, dài hạn đối với = —————————————— doanh nghiệp xây lắp Dư nợ tín dụng TDH
  20. Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp phản ánh quy mô và sự tăng trưởng hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng. Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp cao và tăng trưởng cho thấy ngân hàng đã và đang mở rộng thị phần trong ngành xây lắp. Ngược lại, dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp qua các năm giảm chứng tỏ chính sách thu hẹp tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng. Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL cần xem xét kết hợp với chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL để đánh giá đầy đủ hơn về tình hình tăng trưởng tín dụng đối với các doanh nghiệp thuộc ngành nghề này. Chỉ tiêu dư nợ tín dụng mới chỉ phản ánh sự tăng trưởng tuyệt đối nhưng nếu dư nợ trung, dài hạn đối với DNXL tăng với tốc độ thấp hơn dư nợ tín dụng trung, dài hạn thì tỷ trọng này lại giảm. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ. Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn mới chỉ đánh giá được một phần chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. Để đánh giá cụ thể hơn, ta cần xem xét đến tính an toàn, lành mạnh và khả năng sinh lời của các khoản tín dụng trung, dài hạn. * Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN : “nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Một khoản vay không trả đầy đủ, đúng hạn như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì trở thành nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, phản ánh những rủi ro trong hoạt động tín dụng mà ngân hàng phải đối mặt. Tỷ lệ này được xác định qua công thức sau : Dư nợ quá hạn trung, dài hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = ———————————————— trung và dài hạn Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2