intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

122
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh doanh càng có ý nghĩa quan trọng đối với các NHTM và nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề cực kỳ bức xúc. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề được các NHTM đặc biệt chú trọng tại các NHTM, trong đó có Ngân hàng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng th ương mại (NHTM) nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, hiệu quả kinh doanh càng có ý nghĩa quan trọng đối với các NHTM và nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề cực kỳ bức xúc. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là vấn đề được các NHTM đặc biệt chú trọng tại các NHTM, trong đó có Ngân hàng Công thương (NHCT) Việt Nam và Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang. Là một bộ phận của NHCT Việt Nam, sau 20 năm thành lập, Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang đã có bước phát triển đáng kể. Tổng nguồn vốn hiện nay gấp 44 lần so với khi mới thành lập (1988), dư nợ cho vay và đầu tư tăng gấp 62 lần. Hiệu quả hoạt động kinh của Chi nhánh cũng đã được nâng cao, các chỉ tiêu về lợi nhuận, hiệu suất sử dụng vốn… tăng lên đáng kể, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay. Tuy vậy, các chỉ tiêu về hiệu quả của Chi nhánh còn nhiều hạn chế, tỷ suất lợi nhuận chưa cao, tăng trưởng lợi nhuận chưa vững chắc, các chỉ tiêu hiệu quả khác còn nhiều hạn chế. Trong điều kiện kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia, Chi nhánh phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng khác, thị phần cho vay của Chi nhánh có nguy cơ bị thu hẹp, hiệu quả có nguy cơ giảm thấp và thiếu bền vững. Trước thực tế đó, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại và phát triển của Chi nhánh. Do vậy, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang là vấn đề bức xúc, đồng thời có ý nghĩa lâu dài cả về lí luận và thực tiễn. Đó cũng là lý do chủ yếu của việc lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài nghiên cứu đã được công bố như:
  3. - Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng Công thương Việt Nam - thực trạng và giải pháp, Trần Xuân Hiệu, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003. - Năng lực cạnh tranh của các NHTM trong xu thế hội nhập, PGS.TS Nguyễn Thị Quy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Lê Thị Thiên Lý, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006. - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh An Giang, Trần Thị Thu Nguyệt, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Trong các công trình nghiên cứu trên, vấn đề hiệu quả và nâng cao hiệu quả kinh doanh đã được tiếp cận dưới nhiều gốc độ khác nhau, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về mặt lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả kinh doanh của NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. - Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT trên địa bàn tỉnh An Giang từ năm 2003 đến nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới. Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là: - Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lí luận về hiệu quả kinh doanh của NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh
  4. NHCT tỉnh An Giang. - Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang trong điều kiện mới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, kế thừa một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan. Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng, việc nghiên cứu luận văn trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản và điển hình được sử dụng trong quá trình nghiên cứu như: phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh… để phân tích và làm rõ những vấn đề của luận văn. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Hệ thống hoá có chọn lọc một số vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh của NHTM. - Đánh giá đúng thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang, chỉ rõ những hạn chế, trở ngại đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHCT và những nguyên nhân chủ yếu. - Đề xuất được các giải pháp thiết thực và khả thi về nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Chi nhánh NHCT tỉnh An Giang. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
  5. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1. HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động chủ yếu NHTM là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty, xí n ghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. NHTM là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ biến trong nền kinh tế. Sự có mặt của NHTM trong hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế, xã hội đã chứng minh rằng, ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển, thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc độ cao của nền kinh tế, xã hội và ngược lại. Theo Điều 20 Khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (12/12/1997): NHTM là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Nghị định số 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/9/2000 qui định: "NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước" [8]. Theo Điều 20 Khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (sữa đổi, bổ sung ngày 24/06/2004): Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
  6. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cứng các dịch vụ thanh toán [27]. Như vậy, có thể nói NHTM là một loại định chế tài chính trung gian cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội được huy động, tập trung lại với số lượng đủ lớn để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm mục đích phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các NHTM thực hiện rất nhiều hoạt động, trong đó có các hoạt động chủ yếu như sau [13]: Thứ nhất, tạo lập nguồn vốn. Nguồn vốn của NHTM gồm vốn điều lệ, các quỹ, vốn huy động và vốn đi vay. Vốn điều lệ là nguồn vốn ban đầu khi ngân hàng mới bắt đầu đi vào hoạt động và được ghi vào bản điều lệ của ngân hàng. Đối với lĩnh vực ngân hàng, vốn điều lệ đạt mức tối thiểu theo qui định của pháp luật (vốn pháp định). Tuỳ theo loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ có thể hình thành từ những nguồn khác. Đối với NHTM quốc doanh, vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp phát. Vốn điều lệ là bộ phận chủ yếu của vốn tự có trong NHTM. Ở Việt Nam, theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 thì vốn tự có của NHTM gồm: vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ sung [23]. Vốn tự có cơ bản (vốn cấp 1): Vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia. Vốn tự có bổ sung (vốn cấp 2): phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định và của các loại chứng khóan đầu tư được định giá lại, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có thời hạn dài. Các quỹ của ngân hàng được hình thành khi ngân hàng đã đi vào hoạt động, bao gồm các quỹ trích từ lãi ròng hàng năm của ngân hàng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, các quỹ dự phòng (tài chính, trợ cấp mất việc làm), quỹ đầu tư phát triển, quỹ khác (khen thưởng, phúc lợi…). Ngoài ra, còn có các quỹ được hình thành bằng cách trích và
  7. tính vào chi phí hoạt động của ngân hàng như: quỹ khấu hao cơ bản, sữa chữa tài sản, quỹ dự phòng để xử lý rủi ro… Các quỹ này có chức năng: cũng cố và gia tăng năng lực bảo vệ của vốn tự có của ngân hàng; bù đắp những thất thoát trong hoạt động tín dụng; chống đỡ thiệt hại khi rủi ro phát sinh. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM, chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của NHTM. Nguồn vốn huy động gồm có: Tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng (còn được gọi là tiền gửi giao dịch, tiền gửi thanh toán). Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và cá nhân. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Nguồn vốn huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi… Nguồn vốn đi vay là nguồn vốn vay của NHNN, các NHTM, các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế. Nguồn vốn khác bao gồm các nguồn vốn tiếp nhận từ NSNN để thực hiện các chương trình, dự án theo kế hoạch tập trung của Nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay uỷ thác; vốn chiếm dụng của khách hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt… Thứ hai, hoạt động sử dụng vốn. Đây là một hoạt động cơ bản của các NHTM. Hoạt động này gồm: cấp tín dụng, đầu tư tài chính, thiết lập dự trữ, các hoạt động sử dụng vốn khác. Cấp tín dụng bao gồm các nghiệp vụ cho vay (ngắn, trung và dài hạn), chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bảo đảm thanh toán… Đầu tư tài chính là hoạt động mà NHTM sử dụng các nguồn vốn ổn định để thực hiện các hình thức đầu tư nhằm kiếm lời và chia sẽ rủi ro với nghiệp vụ tín dụng. Các hình thức đầu tư tài chính bao gồm: Góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của các công ty, xí nghiệp và các tổ chức tín dụng khác. Mua chứng khoán và các giấy tờ có giá trị để hưởng lợi. Thiết lập dự trữ là việc các NHTM dành một phần vốn để dự trữ nhằm đáp ứng những yêu cầu như: duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của NHNN; thực hiện các lệnh rút tiền và thanh toán chuyển khoản của khách hàng; chi trả các khoản tiền gửi đến hạn, chi trã lãi; đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý trong ngày của khách hàng; thực
  8. hiện các khoản chi tiêu hàng ngày tại ngân hàng… Ngoài ra, còn một số hoạt động sử dụng vốn khác như: mua sắm trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho hoạt động kinh doanh, xây dựng trụ sở làm việc ngân hàng, hệ thống kho bãi và các chi phí khác. Thứ ba, cung cấp dịch vụ ngân hàng. Đây là các sản phẩm dịch vụ mà khi NHTM cung cấp cho khách hàng sẽ nhận được các khoản hoa hồng và lệ phí như: dịch vụ ngân quỹ; dịch vụ uỷ thác; tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng; nhận quản lý tài sản quý, giấy tờ có giá theo yêu cầu của khách hàng; kinh doanh vàng bạc, đá quý, ngoại tệ; mua bán hộ chứng khoán, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu cho các công ty, xí nghiệp; tư vấn tài chính, đầu tư; bảo lãnh tín dụng, trong đó NHTM cam kết đảm bảo hoàn trả khoản vay của khách hàng cho người thứ ba là người cho vay; các hợp đồng trao đổi lãi suất, trong đó NHTM cam kết trao đổi các khoản thanh toán lãi của chứng khoán nợ với một bên khác; các hợp đồng tài chính tương lai và hợp đồng quyền chọn lãi suất, trong đó NHTM đồng ý giao hay nhận những chứng khoán từ một bên khác tại một mức giá được bảo đảm; hợp đồng cam kết cho vay, trong đó NHTM cam kết cho vay tối đa tới một số vốn nhất định trước khi hợp đồng hết hiệu lực; các hợp đồng tỷ giá hối đoái, trong đó NHTM đồng ý giao hay nhận một lượng ngoại tệ nhất định. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy, hiệu quả kinh doanh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Hiệu quả kinh doanh nói chung là tỷ lệ giữa kết quả đầu ra so với chi phí đầu vào. Hiệu quả kinh doanh của NHTM thường được đo bằng các chỉ tiêu cơ bản như: Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận và các chỉ tiêu trung gian khác. Do đặc thù của hoạt động ngân hàng nên hiệu quả kinh doanh của NHTM có một số đặc điểm như sau: Một là, hiệu quả kinh doanh ngân hàng gắn với đặc thù của hoạt động ngân hàng
  9. - kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Đây là một lĩnh vực rất nhạy cảm, chịu tác động mạnh của nhiều yếu tố đặc biệt là các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Do vậy, kết quả hoạt động và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phản ánh sự tác động tổng hợp các yếu tố đó. Chẳng hạn, bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả của ngân hàng như tỷ suất lợi nhuận, hiệu quả hoạt động ngân hàng còn thể hiện ở chổ góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo… Hai là, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là hiệu quả của một ngành dịch vụ hiện đại với sự quay vòng vốn nhanh nên các chỉ tiêu về suất lợi nhuận/doanh số… có thể không cao như một số ngành sản xuất. Ba là, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng gắn với hoạt động huy động và sử dụng vốn vay, vốn của người khác. Do vậy, đòi hỏi huy động và sử dụng vốn phải cao. Bốn là, hoạt động ngân hàng gắn với hoạt động của doanh nghiệp và dân cư. Do vậy, hiệu quả kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào năng lực kinh doanh và hoạt động của các chủ thể này. Chẳng hạn, nếu các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả thì ngân hàng có thể tăng mức cho vay, hiệu quả kinh doanh cao hơn. 1.1.3. Các tiêu chí xác định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại Trong nền kinh tế thị trường hoạt động kinh doanh của NHTM mục tiêu cuối cùng là phải đạt được lợi nhuận cao nhất, lợi nhuận càng cao chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả. Muốn biết được NHTM đó hoạt động kinh doanh hiệu quả ra sao thì phải xem xét qua một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh như sau: 1.1.3.1. Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế (LNST) được tính theo công thức sau [13]: Thu Chi từ Thu Chi LNST = – Thuế TN – + – từ lãi lãi khác khác Lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng) là chỉ tiêu phản ánh tập trung nhất mức sinh lợi của ngân hàng. Nhìn vào công thức trên ta thấy nếu mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi từ lãi cao thì lãi ròng lớn, và ngược lại. Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, mức chênh lệch này có xu hướng giảm nên chênh lệch giữa thu khác và chi khác đóng
  10. vai trò quan trọng. Điều này cho thấy xu hướng hoạt động kinh doanh của NHTM có xu hướng chú trọng các sản phẩm dịch vụ. Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lãi của ngân hàng hay còn gọi là mức lãi ròng. 1.1.3.2. Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất lợi nhuận = × 100% trên tài sản sinh lợi Tổng tài sản sinh lợi Chỉ tiêu này nói lên tỷ lệ lợi nhuận do tài sản có sinh lời tạo ra lợi nhuận được các nhà quản lý ngân hàng rất chú ý vì nó báo trước khả năng sinh lời của NHTM. Chỉ tiêu này biểu hiện bằng một số chỉ tiêu cụ thể như: lợi nhuận trên tổng tài sản, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu... - Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) Lợi nhuận sau thuế ROA = × 100% Tổng tài sản bình quân ROA là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của ngân hàng, cho thấy khả năng của NHTM trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng tài sản có bình quân mang lại bao nhiêu đồng lãi ròng cho ngân hàng. ROA xác định hiệu quả kinh doanh của 1 đồng tài sản. ROA càng cao thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó càng tốt. - Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Lợi nhuận sau thuế ROE = × 100% Vốn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu ROE đo lường chất lượng hoạt động của một ngân hàng. Hệ số ROE phân tích lợi nhuận kiếm được từ đơn vị vốn đầu tư, vốn của một NHTM cổ phần được hình thành từ vốn cổ phần hoàn toàn hoặc gồm một phần từ vốn cổ phần còn một phần các chứng từ có giá như: tín phiếu, hoặc giấy nhận nợ… Hệ số ROE quy định giá trị chứng khoán, nó cho các cổ đông biết khả năng sử dụng vốn cổ phần của một ngân hàng nên nó có ý nghĩa quan trọng đối với các cổ đông. Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn chủ sỡ hữu mang lại bao nhiêu đồng lãi ròng cho ngân
  11. hàng. Mối quan hệ giữa ROE và ROA như sau: Lợi nhuận ròng Tổng tài sản ROE = × Tổng tài sản Tổng vốn chủ sở hữu Hay: Tổng tài sản ROE = ROA × Tổng vốn chủ sở hữu Mối quan hệ trên cho thấy thu nhập của một ngân hàng rất nhạy cảm với phương thức tài trợ tài sản (sử dụng nhiều nợ hơn hay nhiều vốn chủ sở hữu hơn). Một ngân hàng có ROA thấp vẫn có thể đạt ROE ở mức cao nếu như sử dụng nhiều nợ (gồm cả tiền gửi của khách hàng) và sử dụng tối thiểu vốn chủ sở hữu trong quá trình tài trợ tài sản. - Các chỉ tiêu trung gian gồm: như chênh lệch lãi bình quân, tỷ lệ tài sản sinh lời. Cụ thể như sau: + Chênh lệch lãi suất bình quân (chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra): là chỉ tiêu truyền thống đánh giá thu nhập của ngân hàng, đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời đo lường mức độ cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, chênh lệch lãi suất bình quân của ngân hàng sẽ giảm khi cường độ cạnh tranh tăng lên, buộc NHTM phải tìm cách bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất đi bằng cách thu phí từ các sản phẩm dịch vụ mới. Thu từ lãi Tổng chi phí lãi Chênh lệch lãi suất = × Tổng nguồn phải trả bình quân Tổng tài sản sinh lời + Tỷ lệ tài sản sinh lời là chỉ tiêu cho thấy tài sản sinh lời chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản của NHTM. Khi tỷ lệ này giảm, sẽ làm giảm mức thu nhập hiện tại của NHTM. Tổng tài sản sinh lời Tỷ lệ tài sản sinh lời = Tổng tài sản
  12. Trong đó, tổng tài sản sinh lời bao gồm các khoản cho vay, các khoản cho thuê, đầu tư chứng khoán (hay bằng tổng tài sản - tài sản không sinh lời). - Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động bao gồm chỉ tiêu hiệu quả từ hoạt động tín dụng và hiệu quả từ các hoạt động khác. Hiệu quả từ hoạt động tín dụng: phản ánh quy mô, chất lượng hoạt động nghiệp vụ tín dụng của một ngân hàng. Quy mô hoạt động tín dụng thông qua các chỉ tiêu: doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ. Để thực hiện tốt chỉ tiêu này các NHTM luôn tìm kiếm cơ hội cho vay các khách hàng mới và mở rộng quan hệ tín dụng đối với các khách hàng truyền thống của ngân hàng. Chất lượng các khoản vay được biểu hiện tỷ lệ giữa nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay. Đó là tỉ lệ để xác định khoản nợ mà khách hàng vay vốn của NHTM nhưng khi đến hạn chưa trả được. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Muốn sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng một cách chính xác cần lưu ý tới các nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. Hiệu quả của hoạt động khác: bảo lãnh thanh toán hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu, hợp đồng thi công (bằng nhiều hình thức), chiết khấu chứng từ,… Hiệu quả hoạt động dịch vụ: dịch vụ mở tài khoản, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thanh toán trong và ngoài hệ thống ngân hàng, bảo lãnh, nhờ thu, thư tín dụng nhập khẩu, chuyển tiền kiều hối, thu chi hộ, thư tín dụng xuất khẩu, chuyển tiền cá nhân, chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất, thanh toán séc du lịch,… 1.2. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Các yếu tố bên trong ngân hàng thương mại Nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM không phải do khách quan hay do lực lượng nào đó bên ngoài quyết định mà nằm ngay trong từng NHTM. Các nhân tố bên trong (chủ quan) thường liên quan tới bản thân ngân hàng trên tất cả các khía cạnh khác nhau của hoạt động ngân hàng như: năng lực về vốn, mô hình tổ chức quản lý, nhân lực của ngân hàng, cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng, tình hình duy trì và thực hiện kiểm tra kiểm soát nội bộ... Năng lực về vốn: vốn tự có là yếu tố hết sức cơ bản để đánh giá sức mạnh tài chính của các NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực
  13. kinh doanh có thể dẫn đến rủi ro cao. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động có điều kiện mà trước hết là điều kiện về mức vốn tự có phải đạt được để làm "đệm an toàn" và "lá chắn" chống đỡ rủi ro. Bên cạnh đó, vốn tự có còn có ảnh hưởng đến mức đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì NHTM chỉ có thể sử dụng vốn tự có để đầu tư vào công nghệ. Mô hình tổ chức quản lý của NHTM: thể hiện ở chỗ phân biệt rõ ràng chức năng quản trị và chức năng điều hành, xây dựng mục tiêu hướng tới khách hàng, quản lý và hạch toán theo sản phẩm, mang lại tiện ích cho khách hàng nhiều hơn, tạo ra khả năng điều hành và quản lý theo cơ chế tập trung đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và phát huy được kết quả tốt do các thông tin, dữ liệu được quản lý và cung cấp tập trung. Tổ chức ngân hàng phải sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận nghiệp vụ của ngân hàng trong từng chi nhánh của NHTM, trong toàn hệ thống cũng nh ư giữa NHTM với các cơ quan khác như tài chính, pháp l ý… sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng. Nguồn nhân lực, quản trị điều hành: nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào, là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời còn là mục tiêu, là động lực phát triển ngân hàng, là yếu tố quan trọng và quyết định cho mọi thành công. Với nguồn nhân lực có trình độ nghiệp vụ cao, có nhiều kinh nghiệm trong ngành cũng như có phẩm chất đạo đức tốt thì họ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, sẽ tạo ra được năng suất làm việc cao hơn, có hiệu quả hơn, phục vụ chu đáo và đem đến sự hài lòng cho khách hàng nhiều hơn. Đây là yếu tố quan trọng vì ngân hàng sẽ dễ dàng thu hút khách hàng đến giao dịch nhiều hơn. Với những con người có trình độ quản lý, điều hành tốt, họ sẽ giúp cho NHTM giảm bớt được rất nhiều chi phí như: chi phí rủi ro, chi phí lao động, chi phí quản lý, tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Quản lý tốt cũng có nghĩa là sử dụng đúng người, đúng chổ, biết cách tổ chức điều hành công việc, biết giám sát, kiểm tra, quản lý chặt chẻ, biết phân chia trách nhiệm rõ ràng cho từng phòng ban, biết chú trọng vào những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm. Những người lãnh đạo giỏi, có kinh nghiệm, họ sẽ biết cách sử dụng các công cụ cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất, ứng
  14. phó một cách linh hoạt những biến động thường xuyên trên thị trường. Họ nhạy bén hơn trong hoạt động kinh doanh, nhanh chóng phát hiện ra những thời cơ, đồng thời giảm thiểu những sai sót không đáng có góp phần tạo ra hiệu quả kinh doanh cho NHTM. Trang thiết bị, công nghệ ngân hàng: đặc biệt là công nghệ thông tin và tin học là thành tố nhờ đó mà các NHTM trong nước có thể tạo ra các kênh phân phối sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại như E-banking, ATM, VISA/MASTER card, Option, SWAP…. Các hoạt động huy động vốn, chi trả tiền gửi cho khách hàng đang được thực hiện trên máy, ngân hàng đang mở rộng dịch vụ ngân hàng qua mạng, ngân hàng qua điện thoại… công nghệ ngân hàng hiện đại cho phép NHTM vươn xa hơn ngoài trụ sở ngân hàng, liên kết với nhau để cùng nhau sử dụng mạng công nghệ. Điều này tạo cơ hội cho các NHTM cạnh tranh lẫn nhau. Thực hiện đổi mới trang thiết bị ngân hàng theo hướng hiện đại có một vị trí cực kỳ quan trọng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để tăng khả năng quản lý, tăng cường thu thập xử lý thông tin, tạo điều kiện thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, tăng cường khả năng kiểm tra, kiểm soát, nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng, phát triển hệ thống thanh toán hiện đại, nhanh chóng, chính xác, an toàn và hi ệu quả. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Đây là một khâu, một chức năng quan trọng của NHTM là biện pháp giúp ban lãnh đạo ngân hàng có được các thông tin về tình trạng kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh của NHTM đang được thực hiện, phù hợp với chính sách, đáp ứng được các mục tiêu đã định. Thông qua kiểm tra kiểm soát nội bộ phát hiện những sai sót trong quá trình hoạt động từ đó kịp thời chấn chỉnh những sai sót, hạn chế những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.2.2. Các yếu tố bên ngoài tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Sự biến động của nền kinh tế trong nước và thế giới Hiệu quả kinh doanh của các NHTM chịu tác động mạnh mẽ và trực tiếp bởi tình trạng nền kinh tế trong nước và sự biến động của nền kinh tế thế giới. Cụ thể như sau: Thứ nhất, tình trạng của nền kinh tế trong nước. Nhóm yếu tố này gồm nhiều yếu tố như tăng trưởng, kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá...
  15. Tốc độ tăng trưởng GDP là yếu tố đầu tiên của nền kinh tế trong nước ảnh hưởng đến ngành ngân hàng. Khi nền kinh tế ở giai đoạn tăng trưởng cao sẽ tạo nhiều cơ hội cho đầu tư mở rộng, hoạt động của các doanh nghiệp sôi động hơn, các doanh nghiệp sẽ sẵn sàng vay vốn NHTM với số tiền lớn h ơn, lãi suất cao hơn và kỳ hạn dài hơn để mở rộng sản xuất đầu tư vào các dự án có hiệu quả. Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng như chi trả tiền, mua bán ngoại tệ, thanh toán xuất nhập khẩu, thẻ tín dụng… sẽ được khách hàng sử dụng nhiều hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế sa sút, suy thoái dẫn đến giảm tiêu dùng và giảm đầu tư toàn xã hội, các khách hàng sẽ ít sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, vì vậy sẽ kéo theo sự sa sút của ngàn h ngân hàng trong một nước. Lạm phát là một nhân tố ảnh hưởng đến nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát cao thì việc kiểm soát giá cả và đồng tiền càng khó. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp, lạm phát tăng thì rủi ro từ các dự án đầu tư sẽ cao hơn, việc kinh doanh sẽ khó khăn hơn rất nhiều làm cho các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, không cần tới vốn vay NHTM. Còn người dân sẽ hạn chế tích luỹ tiền, rút tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào các tài sản khác ổn định hơn. Lãi suất cao hay thấp cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế. Trong mỗi thời kỳ mặt bằng lãi suất bao gồm lãi suất của các trung tâm tài chính quốc tế, lãi suất tái chiết khấu của các NHTW tại mỗi quốc gia sẽ làm ảnh hưởng tới việc qui định lãi suất của các NHTM và có tác động trở lại đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Lãi suất thấp sẽ kích thích các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để mở rộng và phát triển kinh doanh dài hạn nhưng cũng đồng thời không có sức thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và ngược lại. Tỷ giá hối đoái là một nhân tố ảnh hưởng nhiều đến xuất nhập khẩu của một quốc gia mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là những khách hàng lớn và đầy tiềm năng của các NHTM. Vì vậy, tình hình tỷ giá hối đoái cũng sẽ làm ảnh hưởng tới các ngân hàng. Hơn nữa, do các NHTM luôn có một tỷ lệ đáng kể ngoại tệ trong tài sản của mình và nhiều ngân hàng trực tiếp kinh doanh ngoại tệ nên tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngân hàng. Do vậy, các NHTM phải dự đoán được xu hướng biến động của tỷ giá để chủ động luân chuyển tài sản của mình từ loại tiền này sang loại tiền
  16. khác để làm giảm các rủi ro về tỷ giá hối đoái gây nên. Sự biến đổi cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu của ngành kinh doanh của một quốc gia như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch… và cơ cấu các thành phần kinh tế như quốc doanh, tập thể, tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi ngành kinh tế có một đặc tính riêng ảnh hưởng đến độ dài kỳ hạn vay tiền nhất định, độ rủi ro nhất định đến các dự án vay vốn. Hơn nữa nhu cầu và khả năng về vốn đối với từng ngành nghề kinh doanh, từng khu vực cũng khác nhau, nên các NHTM phải có những nắm bắt để linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của mình. Thứ hai, sự biến động của nền kinh tế thế giới, bao gồm các yếu tố như toàn cầu hoá, sự phát triển của khoa học - công nghệ... Bên cạnh sự ảnh hưởng của nền kinh tế trong nước, thì tình hình kinh tế toàn cầu, kinh tế khu vực thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ số giá, sự luân chuyển của các dòng đầu tư quốc tế, cũng ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực kinh doanh của NHTM, mà cụ thể ảnh hưởng đến nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, ấn định tỷ giá, lãi suất, đầu tư tài chính và các giấy tờ có giá tại các thị trường tài chính quốc tế hoặc trực tiếp cho vay đối với các dự án nước ngoài. NHTM còn bị ảnh hưởng không nhỏ của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang là xu hướng chính của nền kinh tế thế giới hiện nay. Chính xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế này đã đẩy mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, làm gia tăng cơ hội kinh doanh quốc tế, vừa làm tăng áp lực cạnh tranh quốc tế đối với các NHTM. Thêm vào đó, xu thế tăng tỷ lệ chất xám trong cấu thành các sản phẩm dịch vụ cũng buộc các NHTM cần phải áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại phát triển các sản phẩm dịch vụ mang nhiều chất xám như chương trình tư vấn đầu tư tài chính cho các doanh nghiệp, thiết lập các hình thức giao dịch, thanh toán qua mạng Internet (E-Banking), giao dịch tại nhà (Home - banking), hoặc các NHTM tham gia vào hoạt động kinh doanh của khách hàng. Sự phát triển của khoa học và công nghệ trên thế giới hiện nay phát triển rất nhanh chóng và ngày càng hiện đại. Chính sự phát triển kỳ diệu của khoa học và công nghệ đã tác động rất lớn đến nhiều ngành nghề trong nền kinh tế, trong đó có ngành
  17. ngân hàng. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã thúc đẩy sự hiện đại hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tạo thuận lợi rất nhiều trong các giao dịch giữa khách hàng và NHTM, tạo sự hấp dẫn nhiều hơn cho khách hàng sử dụng đến các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đòi hỏi sự hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nắm bắt được những công nghệ mới nhất có liên quan để áp dụng một cách nhanh nhất nhằm cải tiến công nghệ ngân hàng của mình, nâng cao chất lượng phục vụ và tốc độ giao dịch nhanh chóng, kịp thời của NHTM đối với khách hàng. 1.2.2.2. Cơ chế chính sách của Nhà nước Cơ chế chính sách của Nhà nước, các quyết định, định hướng từ các cấp, các ngành và của ngành ngân hàng như chính sách ưu đãi, chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ tín dụng của Nhà nước, chính sách phát triển hệ thống tài chính, chính sách tín dụng của NHNN, các quy định quản lý ngành của các cơ quan quản lý nhà nước, chiến lược phát triển của hệ thống ngân hàng… có tác động không nhỏ đến sự phát triển, sự thành công hay thất bại của NHTM. Những quyết định đưa ra đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp sẽ có ảnh hưởng tốt hay xấu đến hoạt động kinh doanh của các NHTM nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vì vậy, cơ chế chính sách của Nhà nước có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các NHTM trong nước khi cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thế giới. Nhà nước ưu đãi hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một khu vực, một lĩnh vực; về thuế; về tỷ giá hối đoái, khi Chính phủ có chính sách ưu đãi hạ thuế, bảo hộ hàng sản xuất trong nước của một ngành nào đó bằng cách đưa ra hạn ngạch nhập khẩu, hoặc cấm nhập hay nâng cao thuế nhập khẩu và ngược lại. Chính phủ đưa ra chính sách giữ giá hay phá giá đồng nội tệ, tất cả đều ảnh hưởng đến nền kinh tế. Các chính sách quản lý của NHNN có tác động rất lớn tới hoạt động của các NHTM như chiết khấu, tái chiết khấu, tỷ giá ngoại tệ, chính sách tín dụng, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng… trực tiếp điều chỉnh hệ thống ngân hàng. Luật lao động, quy chế tuyển dụng, đề bạt, chế độ nghĩ hưu, tiền lương, tiền thưởng… là những điều kiện tác động trực tiếp đến con người, đây cũng là yếu tố quan trọng mà các NHTM phải quan tâm. 1.2.2.3. Mức độ cạnh tranh và các yếu tố khác của môi trường kinh doanh
  18. Mức độ cạnh tranh hiện tại của ngành ngân hàng tuỳ thuộc vào mức độ tăng trưởng của ngành, quy mô thị trường, số lượng các đối thủ cạnh tranh và quy mô của họ cũng như mức độ quan trọng của các rào cản rút lui (thu hồi vốn đầu tư, hình ảnh, thương hiệu và uy tín của các NHTM, các trở ngại về pháp luật). Một trong những thách thức của các NHTM hiện nay là không chỉ phải cạnh tranh trong một quốc gia mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng khổng lồ trên thế giới. Do đó, các NHTM phải xem xét tầm quan trọng chiến lược của hoạt động kinh doanh hiện tại đối với toàn bộ hoạt động và mục tiêu mà đối thủ cạnh tranh đặt ra, đặc biệt là tiềm lực của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường như khả năng kinh doanh, nguồn lực cạnh tranh của họ, trạng thái tài chính, thị phần hiện tại để có chiến lược và mục tiêu phù hợp cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Môi trường văn hóa, xã hội ảnh h ưởng rất nhiều đến đ iều kiện kinh doanh của NHTM nhất là yếu tố con người. Nếu là khách hàng sẽ ảnh h ưởng đ ến thị hiếu, nhu c ầu, thói quen…. Nếu là cán bộ, nhân viên trong ngành ngân hàng thì môi trường xã hội, văn hoá có ảnh h ưởng đến phong cách làm việc, phẩm chất nghề n ghi ệp, thói quen… Những yếu tố trên có thể kích thích hay kiềm hãm sự phát triển của các ngân hàng. Mặt khác con người n gày càng mở rộng phạm vi hoạt động và mối quan hệ xã hội ra phạm vi toàn cầu. Đ iều này đòi hỏi các NHTM phải chuẩn mực hóa bản thân theo các chuẩn mực ngân hàng quốc tế về việc đáp ứng các loại sản phẩm dịch vụ, chất lượng dịch vụ ngang bằng với các ngân hàng khác trên th ế giới. Môi trường tác nghiệp quyết định tính chất và khả năng cạnh tranh trong kinh doanh mà ở đây chính là môi trường thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng. Môi tr ường này sẽ tạo nên những yếu tố tác động không nhỏ tới khả năng cạnh tranh của các NHTM. Có thể thúc đẩy các ngân hàng phát triển một cách mạnh mẽ, vững chắc nh ưng cũng có thể gây ra những cản trở kìm hãm sự cạnh tranh của các NHTM. Điều kiện kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Xã hội ổn định, kinh tế của quốc gia, vùng, địa phương phát triển sẽ làm cho các ngành kinh tế phát triển, hoạt động ngân hàng ổn định. Vì ngân hàng là sản phẩm bậc cao của kinh tế thị trường, độ nhạy cảm lớn, do vậy mọi biến động của môi trường kinh tế xã
  19. hội đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Sự ổn định về chính trị - xã hội, sự nhất quán về các chính sách, quan điểm, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh luôn là sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư vào ngành ngân hàng là cơ sở cho hoạt động kinh doanh của NHTM luôn ổn định. 1.2.3. Các phương thức nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại Có nhiều phương thức để nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM. Do hiệu quả là quan hệ giữa kết quả (thu nhập) so với chi phí bỏ ra nên về nguyên tắc, nâng cao hiệu quả kinh doanh có nghĩa là tăng thu nhập và giảm chi phí tương đối. Đồng thời, để bảo đảm cho việc nâng cao hiệu quả một cách bền vững, cần chú trọng khía cạnh an toàn cho hoạt động. Một là, tăng thu nhập, bao gồm tăng tài sản sinh lời, tiết kiệm chi phí. Tăng tài sản sinh lời: tài sản sinh lời là tài sản mang lại thu nhập từ lãi đầu tư NHTM. Việc đầu tư vào những lĩnh vực có tài sản sinh lời cao sẽ làm tăng lợi nhuận của ngân hàng. Nhưng đồng thời nó cũng làm tăng khả năng rủi ro, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Tiết kiệm chi phí, bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí khác. Về tiết kiệm chi phí trả lãi: nguồn vốn huy động của NHTM rất đa dạng và mỗi một hình thức huy động vốn đều có những mức lãi suất huy động khác nhau. Muốn tiết kiệm được chi phí trả lãi thì phải tìm kiếm những nguồn vốn có giá rẻ như: tiền gửi, tiền tiết kiệm không kỳ hạn, đáp ứng các hình thức không dùng tiền mặt như phát hành thẻ ATM và thanh toán thẻ ATM, VISA/MASTER CARD có chức năng đa dạng, sẽ tăng thêm tiền gửi không kỳ hạn với ngân hàng, điều này có vai trò quyết định tới giảm lãi suất huy động của NHTM. Về tiết kiệm chi phí khác: bao gồm chi phí quản lý, chi phí lễ tân, khánh tiết, chi phí dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, chi phí khác cho hoạt động kinh doanh… Việc tiết kiệm chi phí này cũng góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của NHTM. Hai là, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh. Đây chính là một yếu tố bảo đảm cho hiệu quả kinh doanh bền vững. Đảm bảo an toàn bao gồm an toàn về nguồn vốn, an toàn về tín dụng và an toàn cho các hoạt động khác.
  20. Bảo đảm an toàn nguồn vốn: trong hoạt động kinh doanh của NHTM phần quan trọng là huy động tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư trong xã hội gửi vào ngân hàng theo thỏa thuận của khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu rút vốn thì NHTM phải đảm bảo thanh toán cho khách hàng. Do vậy, NHTM luôn luôn phải có nguồn tiền mặt dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán khi có nhu cầu nhưng phải hợp lý. Nếu quá thừa thì lãng phí, nếu thiếu thì sẽ tác động trực tiếp tới uy tín của NHTM. Bảo đảm an toàn tín dụng và bảo đảm an toàn cho các hoạt động khác: các NHTM thường tìm ở các khách hàng tiềm năng có khả năng vay vốn với lãi suất cao, có khả năng hoàn trả tiền vay theo đúng tiến độ. Muốn có được khách hàng như vậy thì cần phải làm tốt công tác marketing, tìm kiếm khách hàng phục vụ lợi ích của mình. Khi xem xét một khoản vay cần được kết hợp nhiều yếu tố, thu thập nhiều thông tin, thông tin về khách hàng, thông tin về thị trường. Mặc dù vậy, công tác điều tra phải thật nhanh chóng và chính xác quyết định cho vay đáp ứng nhu cầu của khách hàng, không làm mất cơ hội của khách hàng và mục đích cuối cùng là người vay vốn có khả năng hoàn trả cả gốc và lãi vay đúng hạn. 1.3. KINH NGHIỆM VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ BÀI HỌC RÚT RA 1.3.1. Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại một số ngân hàng thương mại 1.3.1.1. Kinh nghiệm của các ngân hàng trên địa bàn Hiện có nhiều ngân hàng và chi nhánh ngân hàng hoạt động trên địa bàn tỉnh. T ừ thực tế kinh doanh của một số ngân hàng có thể rút ra một số kinh nghiệp của các ngân hàng này như sau: - NHTM cổ phần Ngoại thương Chi nhánh An Giang là ngân hàng có bề dầy kinh nghiệm tại địa bàn An Giang, hoạt động hàng năm có hiệu quả cao. Dư nợ cho vay năm 2007 là 1.102 tỷ đồng, tăng 20% so đầu năm, vốn huy động 600 tỷ đồng, tăng 15% so năm 2006, lợi nhuận 54 tỷ đồng [26]. Đạt được mức lợi nhuận cao là do chi nhánh mở rộng cho vay bằng cách mở rộng địa bàn như mở Chi nhánh tại Thị xã Châu Đốc, Phòng giao dịch Tứ giác Long Xuyên, Phòng giao dịch Tịnh Biên, Chi nhánh Đồng Tháp, Phòng giao dịch Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp… Đồng thời, Chi nhánh này tăng cường
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2