intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:125

79
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tính cấp thiết của đề tài Trong nhiều năm đầu thế kỷ 21, mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực do kinh tế khu vực và thế giới phục hồi chậm, do thiên tai, hạn hán ... song Việt Nam đã thu được những thành tựu phát triển kinh tế xã hội quan trọng, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao như mức tăng trưởng kinh tế tương đối cao; cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa; từng bước chủ động hội nhập...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản

  1. I. LUẬN VĂN: Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nhiều năm đầu thế kỷ 21, mặc dù chịu nhiều tác động tiêu cực do kinh tế khu vực và thế giới phục hồi chậm, do thiên tai, hạn hán ... song Việt Nam đã thu được những thành tựu phát triển kinh tế xã hội quan trọng, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao như mức tăng trưởng kinh tế tương đối cao; cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa; từng bước chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Để đạt được những thành tựu đáng kể đó không thể không nói đến sự đóng góp của những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu thô, hàng may mặc, gạo, thuỷ sản... trong đó đặc biệt là hàng may mặc với tỷ trọng lớn kim ngạch xuất khẩu mang lại cho đất nước. Tuy nhiên, khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra những cơ hội to lớn cho ngành may mặc Việt Nam như hiện nay thì Việt Nam cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam vẫn còn thấp do mẫu mã đơn điệu, chất lượng không đồng đều, việc thiết kế kiểu dáng chưa chủ động, phụ thuộc nhiều vào các đối tác nước ngoài... Bên cạnh đó, hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các hàng dệt may Trung Quốc, hàng được gia công tại các nước đang phát triển khác ở Đông Nam á... Chính vì vậy, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, hàng may mặc Việt Nam hiện đang có mặt tại nhiều thị trường dưới hai hình thức là xuất khẩu có hạn ngạch (thị trường EU, Mỹ, Canada,..) và phi hạn ngạch (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đông Âu...). Việc xuất khẩu vào các thị trường có hạn ngạch tuy rộng lớn nhưng gặp đầy khó khăn với rất nhiều rào cản. Đối với các thị trường phi hạn ngạch thì Nhật Bản là thị trường lớn nhất và hàng Việt Nam cũng đã và đang từng bước xâm nhập. Nhưng vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải là sức cạnh tranh của hàng may mặc vẫn còn thấp hơn nhiều nước, thị phần hàng may mặc chiếm tỷ trọng quá nhỏ, uy tín thương hiệu hàng may mặc Việt Nam chưa cao… Đứng trước những khó khăn, thách thức trên việc tìm ra những biện pháp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu trên thị trường Nhật Bản là vô cùng cần thiết và cấp bách.
  3. Xuất phát từ các tính cấp thiết trên được đặt ra trong thực tiễn, tác giả đã chọn đề tài cho luận văn là: “Nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn  Mục đích nghiên cứu: - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị thiết thực nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.  Nhiệm vụ nghiên cứu: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về sức cạnh tranh của hàng hóa và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. - Phân tích thực trạng cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, từ đó rút ra những ưu điểm và hạn chế cũng như các nguyên nhân của những hạn chế đó trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. - Nghiên cứu định hướng của Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hoá sang th ị trường Nhật Bản cũng như của Nhật Bản trong việc nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam để dự báo những lợi thế, bất lợi của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhậ t Bản, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng như hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam. Về mặt không gian, luận văn tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Về mặt thời gian, luận văn nghiên cứu sức cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản từ năm 1996 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu
  4. Cơ sở xuyên suốt toàn bộ quá trình nghiên cứu là các phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc nghiên cứu khoa học xã hội nói chung cũng như trong kinh tế học nói riêng như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử... Ngoài ra, để làm rõ hơn đặc điểm, bản chất và nội dung nghiên cứu, luận văn còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích hệ thống các hoạt động kinh tế, phương pháp phân tích thống kê, phương pháp tổng hợp để nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn. 5. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm có 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Lý luận chung về sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản Chương 2: Thực trạng cạnh tranh & nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản Chương 1: Lý luận chung về sức cạnh tranh của hàng hoá & sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Nhật Bản. Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới hướng đến thế kỷ XXI, không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Tuy nhiên đây lại là một quá trình phức tạp bởi nó diễn ra trong một môi trường rộng lớn với sự tham gia của rất nhiều nước, tập đoàn, công ty... ở các quy mô và mức độ khác nhau. Trong điều kiện như vậy, điều
  5. không thể tránh khỏi là quyền lợi kinh tế bị xung đột. Chính vì vậy, bất kỳ chủ thể nào tham gia vào quá trình này nếu muốn tồn tại và phát triển được chỉ có cách duy nhất là phải cạnh tranh và nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh của mình. 1.1. Cạnh tranh 1.1.1. Các khái niệm về cạnh tranh Khái niệm về cạnh tranh từ lâu đã được rất nhiều các nhà kinh tế học của các trường phái kinh tế khác nhau quan tâm và nghiên cứu trên nhiều góc độ với phạm vi và cấp độ khác nhau. Theo Từ điển kinh doanh của Anh, xuất bản năm 1992 thì: “cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình". Còn trong Đại từ điển Tiếng Việt, “cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình". Theo Từ điển Thuật ngữ kinh tế học, “cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia và nó nảy sinh khi hai hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được”. Các nhà kinh tế học thuộc trường phái tư sản cổ điển cho rằng: “Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này mang lại cho mỗi thành viên trong thị trường một phần xứng đáng so với khả năng của mình." Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã nhận xét: “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Như vậy, ở đây C. Mác chỉ đề cập đến cạnh tranh trong một không gian thu hẹp, đó là xã hội tư bản chủ nghĩa, là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên cạnh tranh được nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực là “cá lớn nuốt cá bé”, là lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Tuy nhiên, ngày nay cạnh tranh lại được thừa nhận và được coi là môi trường, động lực của sự phát triển. Thế giới đã quan niệm: “Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển”. Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu đã đưa ra khái niệm cạnh tranh ở phạm vi một quốc gia: “là khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống,
  6. nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, được xác định bằng thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người theo thời gian”. ở Việt Nam, một số nhà kinh tế đã cho rằng: “cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ; và đó là con đường, phương thức để giành lấy lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế.” Tóm lại, cạnh tranh xét về bản chất luôn được nhìn nhận trong trạng thái động và ràng buộc trong mối quan hệ so sánh tương đối, mọi quan hệ giao tiếp mà các bên tham gia nỗ lực tìm kiếm vị thế có lợi cho mình đều có thể diễn tả trong khái niệm cạnh tranh. Khái niệm cạnh tranh được xem xét đầy đủ trên cả hai mặt: tích cực tạo động lực cho việc vươn tới một kết quả tốt nhất nhưng một khi những kỹ năng này được thể hiện một cách cực đoan, nó có thể dẫn đến một thực trạng tiêu cực với kết quả trái ngược. Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thường là nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, tiêu thụ có lợi nhất, tối đa hóa lợi nhuận. 1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong thương mại quốc tế Cạnh tranh là một hiện tượng tự nhiên, là quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường. Bởi thế, bất cứ một quốc gia nào, một doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường thế giới đều phải chấp nhận cạnh tranh và phải tuân thủ theo các quy luật của cạnh tranh. Trong thương mại nói chung và trong thương mại quốc tế nói riêng, cạnh tranh giữ vai trò làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng nâng cao. Cạnh tranh nếu bị hạn chế sẽ gây lãng phí rất nhiều nguồn lực của nền kinh tế thế giới, làm giảm tính năng động, sáng tạo và hiệu quả của mỗi con người cũng như của toàn xã hội. Cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế: thay thế người thiếu khả năng bằng người có đầu óc; thay thế sản phẩm mới với chất lượng, giá cả, dịch vụ ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn; thay thế doanh nghiệp lãng phí các nguồn lực xã hội bằng doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn, thay thế sự đáp ứng nhu cầu xã hội không đầy đủ bằng sự đáp ứng ngày một tốt hơn. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được nhiều sản phẩm với nhiều hình thức khác nhau từ nhiều nhà cung cấp khác nhau ở các nước khác nhau với chất
  7. lượng tốt và giả rẻ. Vì vậy, việc duy trì cạnh tranh là bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Cạnh tranh chính là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh là điều kiện thuận lợi để họ tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, tự hoàn thiện và phát triển để vươn lên giành được ưu thế với các đối thủ cạnh tranh khác. Chính vì vậy, cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có đích của các doanh nghiệp để đưa ra các biện pháp kinh tế, tích cực, sáng tạo nhằm tồn tại và phát triển trên thương trường nếu họ thích nghi được với các điều kiện của thị trường và đào thải những doanh nghiệp không có khả năng thích ứng những đòi hỏi của thị trường. Tóm lại, cạnh tranh trong thương mại quốc tế chính là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách tối ưu nhất lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích xã hội của nền kinh tế thế giới. 1.1.3. Phân loại cạnh tranh Cạnh tranh có thể được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau theo nhiều cách khác nhau:  Căn cứ vào phạm vi hoạt động ngành kinh tế  Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng một loại sản phẩm, dịch vụ.  Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau.  Căn cứ vào tính pháp lý của cạnh tranh  Cạnh tranh hợp pháp  Cạnh tranh bất hợp pháp  Căn cứ vào tính chất, mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế  Cạnh tranh tự do: là cạnh tranh trong một thị trường hoàn toàn không có sự điều tiết của Nhà nước và pháp luật  Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước: là cạnh tranh được định hướng, được bảo vệ và giới hạn bởi các thể chế, chính sách và pháp luật  Căn cứ vào mục đích, phương thức cạnh tranh
  8.  Cạnh tranh lành mạnh: là hình thức cạnh tranh trung thực, bằng năng lực vốn có của doanh nghiệp  Cạnh tranh không lành mạnh: là cạnh tranh bằng các thủ đoạn, công cụ bất hợp pháp  Căn cứ theo chiến lược cạnh tranh  Cạnh tranh trực diện: là cạnh tranh trực tiếp, công khai giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh  Cạnh tranh không trực diện - Đánh thọc sườn - Đánh tập hậu  Căn cứ vào hình thái cạnh tranh  Cạnh tranh hoàn hảo: là loại cạnh tranh tự do, theo đó có nhiều công ty vừa và nhỏ tham gia vào thị trường với sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy cách, chủng loại, mẫu mã... Cạnh tranh quốc tế trong xuất khẩu hàng may mặc ở một số thị trường có diễn ra theo loại hình này. Thông thường, hàng năm, Chính phủ các nước phát triển phê chuẩn hạn ngạch (quota) được phép nhập khẩu hàng may mặc từ các nước phát triển. Theo đó, các nhà xuất khẩu hàng may mặc ở các nước đang phát triển thường cạnh tranh theo kiểu đấu thầu để được phân bổ tỷ lệ hạn ngạch có lợi nhất.  Cạnh tranh không hoàn hảo: là loại hình cạnh tranh mà theo đó việc độc quyền sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được tập trung vào một hay một vài tập đoàn thống trị như lĩnh vực ô tô, thiết bị viễn thông, dầu khí... Thị trường hàng may mặc thế giới, về cơ bản, không có loại hình cạnh tranh này do trình độ tích tụ và tập trung trong ngành này còn thấp với mức lợi nhuận kém hấp dẫn so với nhiều ngành trên (thực tế là trong 500 công ty lớn nhất toàn cầu mà tạp chí Fortune nổi tiếng và uy tín của Mỹ xếp loại hàng năm thường không có sự hiện diện của các công ty, tập đoàn trong lĩnh vực may mặc). Độc quyền: Thị trường cạnh tranh độc quyền là thị trường mà ở đó có một doanh nghiệp duy nhất kiểm soát hoàn toàn số lượng hàng hoá bán ra trên thị trường. Với thị trường này các doanh nghiệp không thể tự do gia nhập vì phải bảo đảm nhiều yếu tố như
  9. vốn, công nghệ kỹ thuật... nên giá cả trên thị trường do doanh nghiệp độc quyền đặt ra, người mua phải chấp nhận giá.  Căn cứ vào phạm vi địa lý  Cạnh tranh trên phạm vi từng quốc gia Quá trình cạnh tranh này thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh chung của sản phẩm trong ngành cũng như của quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế.  Cạnh tranh trên phạm vi quốc tế Trên thị trường thế giới, cung hàng may mặc đang có xu hướng vượt cầu mà thực tế trong những năm qua, mức hạn ngạch nhập khẩu của hàng loạt nước phát triển thường thấp hơn nhiều so với khả năng cung cấp của các nhà xuất khẩu từ nhóm nước đang phát triển nên lợi thế thuộc về các nhà nhập khẩu và cạnh tranh gay gắt chủ yếu diễn ra giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu. Trên phạm vi quốc tế, cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu được phân chia theo các mức độ sau: + Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu thuộc nhóm nước phát triển với nhóm đang phát triển. Đây là sự cạnh tranh gay gắt nhất bởi trình độ công nghệ kỹ thuật của các bên có sự chênh lệch rõ rệt. + Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu thuộc nhóm nước phát triển với nhau. Đây là quá trình cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu cỡ lớn có khả năng tài chính mạnh, trình độ công nghệ cao. + Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất và xuất khẩu thuộc nhóm nước đang phát triển với nhau. Sự cạnh tranh này nhìn chung không có sự chênh lệch quá lớn về quy mô, khả năng tài chính và trình độ khoa học công nghệ cũng như lợi thế về lực lượng nhân công dồi dào với giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú... 1.1.4. Các công cụ cơ bản của cạnh tranh Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi sự cạnh tranh mà bản chất của cạnh tranh trong kinh doanh là phải tạo ra được ưu thế so với các đối thủ. Muốn
  10. vậy, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường phải sử dụng khéo léo các công cụ cạnh tranh. Đó là:  Cạnh tranh thông qua giá cả Trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp thường đưa ra một mức giá thấp hơn giá của các đối thủ cạnh tranh nhằm lôi cuốn khách hàng, qua đó tiêu thụ được nhiều hàng hoá hơn. Muốn theo đuổi chiến lược cạnh tranh này, doanh nghiệp phải có ưu thế cạnh tranh bên trong hay khả năng làm chủ chi phí hoặc dựa vào tính kinh tế nhờ quy mô, hiệu quả hoạt động, liên kết theo ngành dọc...  Cạnh tranh thông qua sản phẩm Khi thu nhập và đời sống của dân cư ngày càng cao thì phương thức cạnh tranh bằng giá cả xem ra không có hiệu quả và chất lượng sản phẩm sẽ là mối quan tâm của khách hàng. Đặc biệt, ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cũng như sự bành trướng của các công ty đa quốc gia thì vấn đề cạnh tranh bằng chất lượng càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh bằng sản phẩm còn có thể dựa vào lợi thế cạnh tranh bên ngoài, tức là tính độc đáo hay mức độ hoàn thiện của sản phẩm về kỹ thuật, dịch vụ hay hình ảnh. Đối với hàng may mặc thì những đặc trưng tạo nên những thuận lợi trong cạnh tranh về sản phẩm là: sản phẩm đa dạng, thời trang; thay đổi theo mùa, thời tiết; kiểu dáng mới lạ, độc đáo; chất liệu vải và các phụ kiện tốt, đẹp...  Cạnh tranh thông qua mạng lưới kênh phân phối: Thiết lập mạng lưới kênh phân phối hợp lý hiệu quả sẽ là yếu tố rất có lợi để cạnh tranh. Hàng hoá mà được cung cấp đúng nơi, đúng lúc, kịp thời đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất thì sẽ tạo được lòng tin, uy tín đối với khách hàng và sẽ được khách hàng lựa chọn.  Cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến quảng cáo. Quảng cáo và xúc tiến bán hàng là những hoạt động nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Quảng cáo là nghệ thuật thu hút khách hàng thông qua các phương thức như in ấn, bưu điện, truyền thanh, báo, phát thanh, thư từ, danh mục hàng hoá và các bản thuyết minh... để giới thiệu một cách rộng rãi các loại hàng hoá, các thông tin dịch vụ. Tất nhiên, sự thành bại trong kinh doanh chủ yếu tuỳ thuộc vào chất lượng sản phẩm nhưng trong điều kiện đã đảm bảo chất lượng thì việc cố gắng nâng cao hiệu quả tuyên truyền quảng cáo cũng là biện pháp để doanh nghiệp cạnh tranh thành công trong kinh doanh.
  11. Bên cạnh quảng cáo, xúc tiến bán hàng và yểm trợ bán hàng được thực hiện thông qua các triển lãm, hội chợ, cửa hàng giới thiệu sản phẩm... cũng là hoạt động giúp cho chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp hiệu quả hơn.  Cạnh tranh thông qua dịch vụ bán hàng Đây là phương thức cạnh tranh hết sức phổ biến trên thị trường quốc tế và có thể được thực hiện trước, trong và sau khi bán hàng tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh. Đó có thể là dịch vụ bán hàng tận nơi cho khách (door to door), dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, lắp đặt, chạy thử... Dịch vụ thường là những hoạt động đánh vào tâm lý người tiêu dùng rất hiệu quả và sẽ là nam châm thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp. 1.1.5. Một số lý thuyết cơ bản về cạnh tranh Cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Chính vì thế, đã có nhiều nhà kinh tế học cố gắng xây dựng các lý thuyết giải thích nguồn gốc cũng như các vấn đề liên quan đến cạnh tranh. Mỗi lý thuyết trên đều có những điểm đáng xem xét trong việc giải thích những hiện tượng thành công hay thất bại trong cạnh tranh trên môi trường quốc tế nhưng trong một số trường hợp thì những lý thuyết đó cũng thể hiện những nhược điểm nhất định. Vì vậy, trong phạm vi Luận văn này, tôi xin trình bày tóm tắt 2 lý thuyết về cạnh tranh mang tính tổng quát được đánh giá cao, đó là Mô hình 7S của Mc.Kinsey, Mô hình 5 sức mạnh của Michael Porter.  Mô hình 7S của Mc. Kinsey Chiến lược Hệ thống Cấu (system) trúc Những giá trị được chia sẻ (Shared Kỹ năng tay Phong cách quản nghề lý (skills) (Style) Bộ máy nhân viên Hình 1: Mô hình 7S của Mc.Kinsey Theo Mc. Kinsey, để đạt năng lực cạnh tranh, hệ thống tổng thể trong công ty gồm phần cứng (chiến lược, cấu trúc và hệ thống) và phần mềm (phong cách quản lý, nhân
  12. viên, tay nghề, những giá trị được chia sẻ) cần được vận hành và có cách thức ứng xử cạnh tranh hợp thức để có khả năng định vị trong các đoạn thị trường mục tiêu nhất định.  Mô hình 5 sức mạnh (the five forces model) của Micheal Porter Micheal Porter đã nghiên cứu và xác định được tổng thể các yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của quốc gia (các yếu tố đầu vào sản xuất, cầu thị trường, các ngành công nghiệp bổ sung hoặc có liên quan, các yếu tố cạnh tranh). Trên giác độ doanh nghiệp, Porter cũng đưa ra những chiến lược cạnh tranh mà một doanh nghiệp có thể xem xét áp dụng trong các môi trường cạnh trạnh khác nhau. Đồng thời, trên quy mô ngành công nghiệp, Porter đã đưa ra mô hình năm yếu tố xác định mức độ khốc liệt của cạnh tranh trong ngành nhằm giúp doanh nghiệp và nhà đầu tư xác định cơ hội kinh doanh cũng như những đe doạ trong kinh doanh khi quyết định xâm nhập vào thị trường. Đối thủ tiềm năng Các đối thủ cạnh Người mua Nhà cung tranh ứng trong ngành Sản phẩm thay thế Hình 2: Mô hình 5 sức mạnh của Michael Porter * Yếu tố 1: Nguy cơ đe doạ từ những người mới vào cuộc Là sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường nhưng có khả năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị phần của các doanh nghiệp khác gây bất ngờ, tạo những cú sốc lớn cho các doanh nghiệp hiện tại do họ đã qua một quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá và suy xét kỹ lưỡng khi thâm nhập vào thị trường mới. Để hạn chế áp lực cạnh tranh từ mối đe doạ này, các nhà quản lý thường dụng lên các “hàng rào gia nhập” như: - Khác biệt hoá sản phẩm và tạo lòng trung thành với nhãn hàng từ khách hàng để buộc người gia nhập mới phải đầu tư rất nhiều và mạo hiểm vào việc quảng cáo và xúc tiến bán hàng để vượt qua lòng trung thành đó. - Mở rộng sản xuất để giảm chi phí (tính kinh tế nhờ quy mô).
  13. - Khả năng về vốn lớn. - Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối. - Mở rộng các dịch vụ bổ sung. - Tìm lợi thế chi phí tuyệt đối (có các yếu tố đầu vào có lợi, độc quyền công nghệ, độc quyền ảnh hưởng rút kinh nghiệm, vị trí thuận lợi.... - Khai thác sự hỗ trợ của Chính phủ. Trong một số ngành, ở một số nước, chính sách của Chính phủ tạo ra hàng rào gia nhập ở một thái cực (Chính phủ cấp giấy phép cho doanh nghiệp trước khi gia nhập ngành) hoặc Chính phủ đặt ra các quy định nghiêm ngặt về điều kiện y tế, an toàn đối với ngành, đảm bảo môi trường... khiến việc gia nhập ngành gặp nhiều khó khăn. * Yếu tố 2: Quyền lực của người cung ứng Với vai trò là người cung cấp các yếu tố đầu vào cho các nhà sản xuất, quyền lực của các nhà cung ứng được thể hiện qua sức ép về giá các yếu tố đầu vào. Sức ép của nhà cung ứng tới nhà sản xuất phụ thuộc: - Tầm quan trọng của sản phẩm được cung ứng - Liên kết của những người cung ứng gây ra - Số lượng nhà cung ứng, mối liên hệ giữa nhà cung ứng với nhà sản xuất - Đặc tính khác biệt hoá cao độ của người cung ứng với người sản xuất Mặc dù, có thể có sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng và doanh nghiệp có quyền lựa chọn nhà cung ứng tốt nhất nhưng quyền lực thương lượng của nhà cung ứng bị hạn chế vẫn không đáng kể. Trong mối quan hệ này, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp trước khả năng tăng cao chi phí đầu vào, đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp phải biến được quyền lực thương lượng của người cung ứng trở thành quyền lực của mình. * Yếu tố 3: Quyền lực của người mua Người mua có quyền lực với doanh nghiệp thông qua sức ép giảm giá, giảm khối lượng hàng mua từ doanh nghiệp, đưa ra yêu cầu chất lượng, dịch vụ phải tốt hơn với cùng một mức giá... Sức mạnh của người mua phụ thuộc 2 yếu tố cơ bản: mức độ nhạy cảm của họ đối với giá và việc mặc cả nợ của họ. * Yếu tố 4: Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm và dịch vụ thay thế
  14. Sự ra đời các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú hơn và cao cấp hơn. Sản phẩm thay thế thường có sức cạnh tranh cao do được sản xuất trên dây truyền công nghệ tiên tiến, có khả năng khác biệt hoá cao hoặc tạo các điều kiện ưu đãi hơn về dịch vụ hay các điều kiện về tài chính. Chính điều này là nhân tố đe doạ sự mất mát về thị trường của doanh nghiệp. * Yếu tố 5: Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành Các hãng trong ngành cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả, sự khác biệt hoá về sản phẩm, hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các hãng hiện đang cùng tồn tại trong thị trường. Sự cạnh tranh càng gay gắt khi đối thủ đông đảo và gần như cân bằng nhau, khi tăng trưởng của ngành là thấp, khi các loại chi phí (chi phí cố định, chi phí lưu kho...) ngày càng tăng, khi các đối thủ cạnh tranh có chiến lược đa dạng, ít có sự khác biệt hoá về sản phẩm, số lượng các đối thủ cạnh tranh nhiều, hàng rào chi phí rút khỏi ngành cao...  Một số nhận xét về việc vận dụng các mô hình Hàng hóa là kết quả của quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nói đến hàng hóa là nói đến doanh nghiệp. Chính vì vậy, khi đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa thì phải xem xét, phân tích trong mối quan hệ với sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh. Sức cạnh tranh của hàng hoá được định đoạt bởi sức cạnh tranh của doanh nghiệp bởi sẽ không có sức cạnh tranh của hàng hoá cao khi sức cạnh tranh của doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đó thấp. Hiện nay có nhiều mô hình cạnh tranh khác nhau có thể áp dụng đối với các doanh nghiệp nhưng hai mô hình được trình bày ở trên là những mô hình phổ biến có khả năng phát huy tác dụng và được nhiều doanh nghiệp nghiên cứu để phân tích sức cạnh tranh của doanh nghiệp và từ đó đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá. Mô hình của M.Porter đặt doanh nghiệp trong tổng thể môi trường cạnh tranh của một ngành, một lĩnh vực nên được nhiều nhà kinh tế vận dụng để phân tích sức cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành công nghiệp; xác định và đánh giá “hàng rào” ngăn cản sự xâm nhập của doanh nghiệp đồng thời đánh giá được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường cũng như khi xâm nhập thị trường mới. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể dự đoán những yếu tố ảnh hưởng đến lực lượng cạnh tranh để từ đó đề ra những đối sách phù
  15. hợp với thế cân bằng cạnh tranh mới. Tuy nhiên, khi áp dụng mô hình này cũng có một số hạn chế như doanh nghiệp chỉ biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình, những rủi ro trong quá trình kinh doanh nhưng khó đưa ra được một giải pháp cụ thể, hữu hiệu để nâng cao được khả năng cạnh tranh; mô hình không đề cập đến tác động trực tiếp hay gián tiếp của Nhà nước thông qua các chính sách, hệ thống pháp luật đến khả năng cạnh tranh của công ty. Mô hình của Kinsey giúp công ty nhìn rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình trong mối quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh để phát huy điểm mạnh thành lợi thế cạnh tranh bền vững và cần được thường xuyên củng cố, biến chúng thành những vũ khí chính của công ty và thông qua đó có thể có tác dụng kép trong việc khắc phục, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ những yếu điểm so với các đối thủ cạnh tranh. Để phân tích mô hình này một cách hiệu quả thì cần phải kết hợp sử dụng mô hình SWOT, ma trận BCG. Như vậy, để phân tích được khả năng cạnh tranh của công ty một cách tương đối đầy đủ và chính xác thì cần phải áp dụng đồng thời các mô hình nói trên. Mô hình này sẽ bổ sung, khắc phục những hạn chế của mô hình kia và ngược lại nhằm tìm được những giải pháp tối ưu nhất giúp công ty nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Song song với việc áp dụng các mô hình cạnh tranh trên thì công ty có thể sử dụng thêm các mô hình, phương pháp phân tích và đánh giá khác, miễn là chúng có ích cho sự phát triển của công ty. Điều quan trọng là công ty không những phải tìm ra được biện pháp khả thi mà phải tìm mọi cách thực hiện được những giải pháp đó một cách triệt để thì mới có thể duy trì và nâng cao được vị thế trên thị trường. Tóm lại, những lý luận cơ bản nhất về cạnh tranh như đã trình bày ở trên giúp ta hiểu được tính động lực, sự quyết liệt của cạnh tranh cũng như các phương thức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế và cũng từ đó hiểu được bản chất của cạnh tranh, các loại hình cạnh tranh, công cụ cạnh tranh và một số lý thuyết cạnh tranh cơ bản trong nền kinh tế thị trường vốn đa dạng và phức tạp. 1.2. Sức cạnh tranh của hàng hoá 1.2.1. Khái niệm Sức cạnh tranh của hàng hóa được hiểu là tất cả các đặc điểm, yếu tố, tiềm năng mà sản phẩm đó có để duy trì và phát triển vị trí của mình trên thương trường một cách lâu dài và có ý nghĩa. Vì vậy, hàng hóa được coi là có sức cạnh tranh khi nó đáp ứng được các yêu
  16. cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì… hơn hẳn so với những hàng hóa cũng loại, tạo ra sự hấp dẫn và thu hút được khách hàng. Về mặt định lượng sức cạnh tranh của một sản phẩm biể u hiện ở thị phần của sản phẩm đó trên thị trường. 1.2.2. Mối quan hệ giữa các cấp độ của sức cạnh tranh. Trong xu thế hội nhập và trào lưu tự do hóa thương mại, khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu, việc tiếp cận đó cũng cần được xây dựng trên cơ sở logic, hệ thống. Sức cạnh tranh (Năng lực cạnh tranh) có bốn cấp độ, đó là: cấp độ quốc gia, cấp độ ngành, cấp độ doanh nghiệp và cấp độ sản phẩ m hàng hóa. Năng lực cạnh tranh của quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân (Dự án VIE 01/025). Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ở một quốc gia do năng lực cạnh tranh của ngành trong nước đó tạo thành. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước (Dự án VIE 01/025). Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩ m dịch vụ nên người ta còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh) của hàng hóa được đo bằng thị phần của hàng hóa đó trên thị trường; giá bán hàng hóa so với các đối thủ cạnh tranh hay mức độ đáp ứng thị hiếu, các yêu cầu về chất lượng, dịch vụ... so với đối thủ cạnh tranh (Dự án VIE 01/025). Giữa bốn cấp độ năng lực cạnh tranh trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành nói chung và của sản phẩm hàng hoá xuất khẩu nói riêng thì cần thiết phải đặt nó trong mối tương quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh này. Năng lực cạnh tranh của ngành bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và năng lực cạnh tranh của hàng hóa mà ngành đó sản xuất ra thấp. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, ngược lại để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh thì môi trường kinh doanh của nền kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế phải ổn định; bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả... Là tế
  17. bào của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Năng lực (sức) cạnh tranh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của sản phẩm luôn được xem xét phân tích trong mối quan hệ thuộc ngành. Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của ngành bởi sẽ không có sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất kinh doanh sản phẩm đó thấp. Nếu sức cạnh tranh của doanh nghiệp tốt thì doanh nghiệp sẽ tồn tại, ngược lại nó sẽ bị thải loại bởi quy luật cạnh tranh nghiệt ngã của thị trường. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Trong phân tích kinh tế, để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau: + Thị phần của hàng hoá so với các đối thủ cạnh tranh Đây là chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá trên thị trường. Thị phần cho ta biết khả năng chấp nhận của thị trường đối với mặt hàng đang được sản xuất kinh doanh như thế nào? Trên thị trường thế giới, nếu thị phần mà lớn chứng tỏ hàng hoá xuất khẩu đó có sức cạnh tranh lớn, có khả năng đánh bại đối thủ cạnh tranh và phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng. Thị phần càng nhỏ cho thấy sức cạnh tranh của hàng hóa yếu, khả năng ảnh hưởng của hàng hóa đối với thị trường là rất kém. Thị phần có thể được tính theo các công thức sau: Qi Si  x 100 % n Q i i 1 Ri hay Si  x 100 % n R i i 1 trong đó: S là thị phần của một mặt hàng của quốc gia i Q là khối lượng bán ra của mặt hàng đó trên một thị trường
  18. R là doanh thu của một mặt hàng của quốc gia i i là quốc gia + Giá bán hàng hoá so với giá bán của các đối thủ cạnh tranh Trong một thị trường có sự cạnh tranh của hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau thì khách hàng có quyền lựa chọn cho mình sản phẩm tốt nhất và nếu cùng một loại sản phẩm với công dụng, chất lượng tương tự nhau và kiểu dáng không có gì khác biệt thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn sản phẩm có giá bán thấp hơn. Do vậy, giá cả là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường và được xem là một trong những chỉ tiêu để đánh giá sức cạnh tranh của hàng hoá. Giá bán sản phẩm thấp hơn giá bán của các đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại. + Mức độ đáp ứng thị hiếu của hàng hoá so với các đối thủ cạnh tranh Đây cũng là một chỉ tiêu phản ánh sức cạnh tranh của hàng hoá. Chỉ tiêu này cho thấy khả năng đáp ứng nhu cầu và mong mu ốn trên thị trường của hàng hoá một quốc gia so với các đối thủ cạnh tranh, hay nói cách khác chính là kh ả năng thích nghi của sản phẩm với thị hiếu của khách hàng so với các đối thủ khác. Khi mức độ đáp ứng thị hiếu của hàng hoá một quốc gia cao hơn mức độ đáp ứng thị hiếu của hàng hoá các quốc gia khác tức là sức cạnh tranh hàng hoá cuả quốc gia đó cao hơn và ngược lại. + Mức độ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng và mẫu mã, kiểu dáng so với các đối thủ cạnh tranh Mức độ đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng, chất liệu, mẫu mã, kiểu dáng... hàng hoá nếu cao hơn so với đối thủ cạnh tranh thì hàng hoá đó được đánh giá là có sức cạnh tranh hơn so với các đối thủ. + Thương hiệu, uy tín, hình ảnh nơi SX so với các đối thủ cạnh tranh Đây cũng là một chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh hàng hoá của một doanh nghiệp, một quốc gia. Nó chính là ấn tượng, suy nghĩ của người tiêu dùng về nơi sản xuất ra hàng hoá so với những nơi khác sản xuất hàng hoá cùng loại. Ví dụ như cùng là mặt hàng xe máy nhưng người tiêu dùng Việt Nam lại ưu chuộng xe máy của các hãng Nhật Bản hơn so với xe máy được sản xuất từ các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, tức là khi nói đến xe máy, người tiêu dùng Việt Nam có ấn tượng tốt về Nhật Bản. Hay nói cách khác, uy tín và hình ảnh nơi sản xuất chính là sự tổng hợp các thuộc tính như chất lượng sản phẩm, chất
  19. lượng dịch vụ sau bán hàng, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm, phong cách quảng cáo... Nếu một quốc gia tạo được uy tín và hình ảnh tốt đối với người tiêu dùng thì điều đó có nghĩa là hàng hóa của nước đó có một lợi thế cạnh tranh lớn so với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại, sẽ không thể bán hàng, không thể nâng cao sức cạnh tranh khi uy tín giảm sút, hình ảnh nơi sản xuất xấu đi. Uy tín là vấn đề mang tính chất sống còn đối với một doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thương hiệu sản phẩm ngày nay càng trở nên quan trọng trong thương mại quốc tế. Xu thế hội nhập ATC/WTO còn yêu cầu cao hơn cho thương hiệu. Cùng một mức chất lượng nhưng sản phẩm có thương hiệu được nhiều người biết đến có thể bán giá cao hơn, có sức cạnh tranh cao hơn. 1.2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Hàng hoá luôn gắn với doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp hoạt động lại gắn liền với môi trường kinh doanh của mình. Vì vậy, tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu thì bên cạnh một số nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp hay còn gọi là các nhân tố nội tại như năng lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực quản lý, văn hoá trong kinh doanh... còn có các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Trong kinh doanh quốc tế, có các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu như kinh tế, chính trị, pháp luật, khoa học - công nghệ, tự nhiên - văn hoá - xã hội... ở cả nước xuất khẩu lẫn nước nhập khẩu và thế giới. MT kinh doanh quốc tế MT nước XK DN Môi trường N nước nhập khẩu Hình 3: Các môi trường ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu * Nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp - Nhân tố con người: Nhân tố con người tác động đến sức cạnh tranh của hàng hoá thông qua các yếu tố năng suất lao động, sự sáng tạo, ý thức chấp hành kỷ luật, thái độ phục vụ khách hàng,... và ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất... Chẳng hạn, lợi thế
  20. trình độ tay nghề khéo léo của lao động ngành may mặc Việt Nam góp phần không nhỏ trong việc tạo ra sản phẩm có chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường thế giới. - Khả năng tài chính: Cũng như bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào, một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu nếu có tiềm lực tài chính lớn sẽ có thuận lợi trong việc nắm bắt cơ hội kinh doanh, đuổi chiến lược cạnh tranh dài hạn, thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa như đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị để đảm bảo, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành hay tăng cường quảng cáo và xúc tiến bán hàng… để khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, củng cố vị trí của mình trên thị trường. - Sự phù hợp của công nghệ: Tình trạng, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới sức cạnh tranh của hàng hóa. Đó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất cũng như giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi thế cạnh tranh rất lớn so với các đối thủ cạnh tranh do có chi phí sản xuất thấp, chất lượng hàng hóa cao, mẫu mã bao bì đẹp. Chẳng hạn, trong lĩnh vực may mặc, doanh nghiệp nào đầu tư được máy móc chuyên dùng, hiện đại như máy may cạp bốn kim, máy vắt năm chỉ, máy trần dầy... chắc chắn sẽ đưa ra được các sản phẩm mới với nhiều tính năng ưu việt, độc đáo và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị bất lợi trong cạnh tranh khi họ chỉ có công nghiệp lạc hậu. - Chiến lược kinh doanh: Tuy sức cạnh tranh của hàng hóa là tính trừu tượng, có thể thay đổi theo thời gian và không gian, nhưng nó không thể nằm ngoài các định hướng, mục tiêu của doanh nghiệp. Mục tiêu đề ra của doanh nghiệp không chỉ là tăng lợi nhuận mà còn phải tìm một chỗ đứng thích hợp nhưng vững chắc trong thị trường, đặc biệt khi càng ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh trẻ hơn, mạnh hơn, năng động hơn và được sự hỗ trợ rất nhiều của khoa học công nghệ hiện đại. Để có được kết quả khả quan trong môi trường cạnh tranh gay gắt đó thì doanh nghiệp phải thực hiện tốt các công tác nghiên cứu, đánh giá tổng quát thị trường; phân tích khả năng của doanh nghiệp; lựa chọn và phân đoạn thị trường nước
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2