intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Quy hoạch sử dụng đất thị trấn An Lão, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng giai đoạn 2003 - 2010

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

177
lượt xem
63
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, song chúng lại có hạn. Sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên này vào phát triển kinh tế của đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, đòi hỏi cần có sự quản lý thống nhất của nhà nước về đất đai. Một trong những cơ sở khoa học để nhà nước thống nhất quản lý đất đai đó chính là quy hoạch sử dụng đất. Trong nhiều thập kỷ qua việc quản lý và khai thác tiềm năng đất đai...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Quy hoạch sử dụng đất thị trấn An Lão, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng giai đoạn 2003 - 2010

  1. LUẬN VĂN: Quy hoạch sử dụng đất thị trấn An Lão, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng giai đoạn 2003 - 2010
  2. Lời nói đầu Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, song chúng lại có hạn. Sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên này vào phát triển kinh tế của đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, đòi hỏi cần có sự quản lý thống nhất của nhà nước về đất đai. Một trong những cơ sở khoa học để nhà nước thống nhất quản lý đất đai đó chính là quy hoạch sử dụng đất. Trong nhiều thập kỷ qua việc quản lý và khai thác tiềm năng đất đai ở thị trấn An Lão nói riêng, toàn huyện An Lão nói chung còn nhiều hạn chế đó là phân phối quỹ đất cho các ngành chưa hợp lý, khai thác tiềm năng đất đai còn chưa đúng, chưa áp dụng đúng đầy đủ những tiến bộ khoa học kỹ thuật để có hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Với mong muốn được tìm hiểu thêm về lĩnh vực quy hoạch sử dụng đất, cùng với sự giúp đỡ của thầy giáo Lê Đình Thắng và cán bộ Viện quy hoạch đất đai. Em đã đi sâu nghiên cứu đề tài: " Quy hoạch sử dụng đất thị trấn An Lão, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng giai đoạn 2003 - 2010 ". Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, nội dung của đề tài được chia làm ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quy hoạch sử dụng đất đai Chương 2: Thực trạng quy hoạch sử dụng đất đai xã An Lão Chương 3: Kết luận, các giải pháp thực hiện quy hoạch và một số kiến nghị Chương 1: Cơ sở lý luận về quy hoạch sử dụng đất đai 1. Vai trò của đất đai. 1.1 Đất đai đối với sự phát triển các ngành kinh tế. Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất đặc biệt. Tuy nhiên đối với từng ngành cụ thể đất đai cũng có vai trò vị trí khác nhau. Trong ngành công nghiệp (trừ ngành khai khoáng),đất đai làm nền tảng, làm địa điểm để tiến hành sản xuất kinh doanh. Muốn xây dựng một nhà máy, một khu công nghiệp trước hết phải có địa điểm, một diện tích đất đai nhất định, trên đó sẽ là các phân
  3. xưởng, kho tàng, bến bãi, phòng làm việc, đường đi lại trong nội bộ... Tất cả những thứ đó là cần thiết trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp đòi hỏi mở rộng quy mô xây dựng, các nhà máy tăng lên đòi hỏi diện tích đất đai dành cho nhu cầu này tăng lên. Cùng với sự phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp là sự phát triển của ngành xây dựng, các khu dân cư và đô thị mới được hình thành làm cho nhu cầu đất đai dành cho ngành đó cũng tăng lên. Trong ngành nông nghiệp đất đai có một vị trí dặc biệt quan trọng, là yếu tố hành đầu của ngành sản xuất này. đất đai không chỉ là chỗ dựa, chỗ đứng để lao động mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng. Mọi tác động của con người vào cây trồng đều thông qua đất đai. Đất đai được sử dụng trong nông nghiẹp được gọi là ruộng đất. Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được. Ruộng đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Hoạt động sản xuất trong nông nghiệp, đặc biệt là ngành trồng trọt, là quá trình tác động của con người vào ruộng đất nhằm thay đổi chất lượng đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển, tức là qúa trình biến ruộng đất kém màu mỡ thành ruộng đất màu mỡ hơn.Trong quá trình này ruộng đất đóng vai trò như đối tượng như là đối tượng lao động. Mặt khác con người sử dụng đất đai như một công cụ để tác động lên cây trồng, thông qua đó làm tăng độ màu mỡ của đất đai nhằm thu sản phẩm nhiều hơn. Trong quá trình này ruộng đất đóng vai trò như là tư liệu lao động Quá trình sản xuất nông nghiệp (trong ngành trồng trọt) là quá trình khai thác, sử dụng đất. Bởi vậy, không có ruộng đất thì không thể có hoạt động nông nghiệp. 1.2. Đặc điểm đất đai. 1.2.1. Đặc tính không thể sản sinh và có khả năng tái tạo của đất đai. Đất đai có vị trí cố định không thể di chuyển được, với một số lượng có hạn. Tính cố định không thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí kia của đất đai đồng thời quy định tính giới hạn về quy mô theo không gian gắn liền với môi trường mà đất đai chi phối. Vị trí đất đai có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế trong quá trình khai thác sử dụng đất. Những đất đai gần các đô thị, gần đường giao thông, gần khu dân cư được khai thác sử dụng triệt để hơn các vùng xa xôi, hẻo lánh, do đó nó có giá trị và giá trị sử dụng lớn hơn.
  4. Độ phì là một thuộc tính tự nhiên của đất và là yếu tố quyết định chất lượng đất. Độ phì là một đặc trưng về chất gắn liền với đất, thể hện khả năng cung cấp thức ăn, nước cho cây trồng trong quá trình sinh trưởng và phát triển. Khả năng phục hồi và tái tạo của đất cũng chính là khả năng phục hồi và tái tạo của độ phì thông qua tự nhiên hoặc do con người tác động. Tuỳ theo mục đích sử dụng mà độ phì của đất đai có vai trò khác nhau. Chẳng hạn, trong nông nghiệp độ phì hay độ màu mỡ của đất đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định việc tăng năng suất và sản lượng cây trồng. Việc sử dụng và khai thác đất nông nghiệp phải bảo đảm nguyên tắc là không ngừng cải tạo, nâng cao độ phì của đất 1.2.2 Đất đai là một tư liệu sản xuất gắn liền với hoạt động của con người Trong quá trình hoạt động sản xuất, đất đai trở thành tư liệu sản xuất không thể thiếu được. Tác động của con người vào đất đai thông qua hoạt động sản xuất đa dạng phong phú với nhiều vẻ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp nhằm khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên này vì lợi ích của mình. Những tác động đó có thể làm thay đổi tính chất sử dụng của đất đai, từ hoang sơ thành đất canh tác được, hoặc đất đai từ mục đích sử dụng này sang mục đích sử dụng khác. Hoặc những tác động để cải tạo chất đất, làm tăng độ màu mỡ của đất đai. Tất cả những tác động ấy của con người làm cho đất đai vốn dĩ là một sản phẩm của thiên nhiên trở thành một sản phẩm của lao động. Con người không tạo ra được đất đai, nhưng bằng lao động của mình mà cải thiện đất đai, làm cho đất đai từ xấu trở thành tốt hơn và làm tăng sản lượng ruộng đất... 1.2.3. Đặc điểm về sự chiếm hữu và sở hữu đất đai. Từ ngàn xưa, khi con người còn sống thành bầy đàn, con người chuyển từ săn bắn sang trồng cây trên những đất đai chiếm được và trở thành sở hữu chung của cộng đồng. Chế độ chiếm hữu ruộng đất và biến quyền sở hữu đất đai thành sở hữu tư nhân là một quá trình phát triển lâu dài, gắn liền với lịch sử từng vùng trên trái đất hay mỗi quốc gia. Đất đai trước hết là sản phẩm của tự nhiên, con người khai phá và chiếm hữu thành tài sản chung của cộng đồng, bộ lạc. Những nhu cầu sản phẩm nuôi sống con người ngày càng tăng lên do dân số phát triển, những đất đai màu mỡ, dễ khai phá đã được chiếm hữu và được canh tác. Nhà nước ra đời và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng xuất hiện.
  5. Quyền sở hữu đất đai không phải chỉ đem lại lợi ích về kinh tế mà quan trọng hơn còn đem lại địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Trong chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, ai nắm nhiều ruộng đất thì không những kẻ đó là giàu có, mà còn là người có uy lực về chính trị. Những người không có đất trở thành kẻ làm thuê, cuộc sống bấp bênh và phụ thuộc. Duy trì chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất sẽ dẫn đến ruộng đất tập trung trong tay một số ít người, nhóm người hoặc tầng lớp nào đó trong xã hội, còn đại bộ phận người làm ruộng trực tiếp sẽ không có ruộng, trở thành người làm thuê. Đồng thời chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng dẫn đến việc tách người làm ruộng khỏi điều kiện sống và làm việc của họ, tức là tách người lao động với đối tượng lao động và tư liệu sản xuất. Ngày nay nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định " Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý ". Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài. Đất đai sở hữu toàn dân và Nhà nước là người đại diện. Nhà nước giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng đất đai theo mục đích quy định. Người thuê đất và người thuê đất phải trả tiền thuê đất trong thời hạn thuê. 1.2.4. Tính đa dạng và phong phú của đất đai. Tính đa dạng và phong phú của đất đai trước hết là do đặc tính tự nhiên của đất đai và phân bố cố định trên từng vùng lãnh thổ nhất định gắn với điều kiện hình thành đất quyết định, mặt khác nó còn do yêu cầu và đặc điểm, mục đích sử dụng các loại đất khác nhau. Đặc điểm này của đất đai đòi hỏi con người khi sử dụng đất đai phải biết khai thác triệt để lợi thế của mỗi loại đất một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất trên mỗi vùng lãnh thổ. Để làm được điều đó phải xây dựng một quy hoạch tổng thể và chi tiết sử dụng đất đai trên phạm vi lãnh thổ cả nước và từng vùng lãnh thổ. 2. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết của công tác quy hoạch sử dụng đất đai. 2.1. Khái niệm quy hoạch sử dụng đất đai. Quy hoạch sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp của Nhà nước (thể hiện đồng thời ba tính chất kinh tế, kỹ thuật, pháp chế) về tổ chức sử dụng quản lý đất đai đầy đủ (mọi loại đất đều được đưa vào sử dụng theo các mục đích nhất định),hợp lý (đặc điểm tính chất tự nhiên, vị trí diện tích phù hợp với yêu cầu và mục đích sử
  6. dụng),khoa học (áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật và các biện pháp tiên tiến) và có hiệu quả cao nhất, thông qua phân bổ quỹ đất đai (khoanh định cho các mục đích và các ngành) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và môi trường. Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất và môi trường. Từ những phân tích nêu trên cho thấy việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai chi tiết của mình ; Xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai ; Làm cơ sở để tiến hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá - xã hội. Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất đai còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất đai, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đât đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông, lâm nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng) ; Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những hậu quả khó lường về tình hình bất ổn định chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường. 2.2. Đặc điểm quy hoạch sử dụng đất đai. 2.2.1. Tính dài hạn. Căn cứ vào những dự báo xu thế phát triển dài hạn của những yếu tố kinh tế xã hội quan trọng (như sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật, công nghiệo hoá, hiện đại hoá nông nghiệp...) từ đó xác định quy hoạch trung và dài hạn sử dụng đất đai đề ra phương hướng, chính sách và biện pháp có tính chiến lược tạo căn cứ khoa học về kế hoạch sử dụng đất đai hàng năm và trong ngắn hạn.
  7. 2.2.2. Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô. Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ dự kiến được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu cơ cấu phân bố và sử dụng đất (mang tính đại thể không dự kiến được các hình thức và nội dung cụ thể chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất đai là mang tính chiến lược, các chỉ tiêu quy hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mô, tính phương hướng và chỉ đạo các ngành. Tính phương hướng, mục tiêu, trọng điểm chiến lược của quy hoạch sử dụng đất đai của các ngành: - Cân đối tổng quát sử dụng đất đai trong vùng. - Đề xuất các biện pháp, chính sách lớn để đạt được mục tiêu, phương hướng sử dụng đất. - Phân định ranh giới. Do khoảng thời gian dự báo tương đối dài, nên chỉ tiêu quy hoạch chỉ đưa ra mang tính khái lược ở tầm vĩ mô. 2.2.3. Tính chính sách. Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị và chính sách xã hội khi xây dựng phương án quán triệt các chính sách và có liên quan đến vấn đề đất đai của Đảng và nhà nước, chắc chắn thực hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân. Phát triển ổn định kế hoạch kinh tế xã hội ; Tuân thủ các quy định các chỉ tiêu khống chế về dân số, đất đai và môi trường sinh thái. 2.2.4. Tính khả biến. Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán theo nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất đai là một trong nhiều biện pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất đai sang trạng thái hợp lý hơn cho việc phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự kiến của quy hoạch sử dụng đất đai không còn phù hợp. Việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất đai luôn là quy hoạch động, một quá trình lập lại theo chiều xoắn ốc " quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện... " với chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao. 2.2.5. Tính lịch sử xã hội.
  8. Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy hoạch sử dung đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một mô hình phương thức sản xuất của xã hội thể hiện theo hai mặt: Lực lượng sản xuất (quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự nhiên trong quả trình sản xuất) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất). Trong quy hoạch sử dụng đất đai, luôn nảy sinh quan hệ giữa người với đất đai là sức tự nhiên (như điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế...),cũng như quan hệ giữa người với người (xác nhận bằng văn bản về sở hữu và quyền sử dụng đất giữa người những người chủ đất - giấy CNQSDĐ). Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vì vậy nó luôn là một bộ phận của phương thức sản xuất của xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch sử dụng đất đai mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về mặt pháp lý (là phương tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất đai: phân chia, tập trung đất đai để mua, bán, phát canh thu tô...). Đối với nước ta, quy hoạch sử dụng đất đai phục vụ nhu cầu của người sử dụng đất và quyền lợi của toàn xã hội ; Góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất ở nông thôn ; Nhằm sử dụng, bảo vệ đất và nâng cao hiệu quả hiệu quả sản xuất xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường quy hoạch sử dụng đất đai góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng như mâu thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau. 2.2.6. Tính tổng hợp. Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất đai biểu hiện chủ yếu ở hai mặt : Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng cải tạo, bảo vệ... toàn bộ tài nguyên đất đai cho nhu cầu của toà bộ nền kinh tế quốc dân (trong quy hoạch sử dụng đất đai thường động chạm đến việc sử dụng của cả sáu loại đất chính là: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng) ; Quy hoạch sử dụng đất đai đề cập đến nhiều lĩnh vực khoa học, kinh tế và xã hội như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số và đất đai, sản xuất nông, công nghiệp, môi trường sinh thái... Với đặc diểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu cầu sử dụng đất ; Điều hoà các mâu thuẫn về đất đai của các ngành, lĩnh vực ; Xác định và điều phối phương hướng, phương thức phân bố sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã
  9. hội, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định. 2.3. Sự cần thiết của công tác quy hoạch sử dụng đất đai. Đất đai là tài nguyên vô cùng quy giá song chúng lại có hạn, trong khi đó dân số trên thế giới không ngừng tăng, vì vậy sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm là vấn đề đặt ra hàng đầu. Quy hoạch sử dụng đất là một phần của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội nhằm phục vụ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá giữ vững phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và môi trường sinh thái. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp các ngành trên địa bàn lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai. Đảm bảo sự ổn định về mặt pháp lý, tiến hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực phục vụ cho nhu cầu nhân sinh, văn hoá xã hội. Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất làm hạn chế sự chồng chéo, tránh tình trạng chuyển mục đích sử dụng đất tuỳ tiện, làm giảm quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp. Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp lấn chiếm đất đai, phá vỡ sự cân bằng về mặt sinh thái, gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân và các hậu quả khó lường về tình hình chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương. Quy hoạch sử dụng đất đai tạo điều kiện cho các ngành phát triển một cách hài hoà, phù hợp, để tạo ra sự phát triển bền vững, ổn định trên cơ sở tổ chức hợp lý môi sinh và bảo vệ môi trường. 3. Yêu cầu đặt ra của quy hoạch sử dụng đất đai. Quy hoạch sử dụng đất đai phải đảm bảo cho sự lãnh đạo, quản lý tập trung thống nhất của nhà nước thông qua quy hoạch, thông qua việc bố trí sắp xếp sử dụng các loại đất đai đã được phê duyệt và thể hiện trên bản đồ quy hoạch, nhà nước kiểm soát mọi diễn biến về tình hình biến động đất đai. Quy hoạch sử dụng dất đai phải đảm bảo được yêu cầu cho kế hoạch phát triển lâu dài. Trong tất cả các văn bản quy hoạch các chỉ tiêu phải được cụ thể hoá và đưa vào
  10. thực tiễn. Quy hoạch càng có cơ sở khoa học, càng chính xác bao nhiêu thì kế hoạch có điều kiện thực hiện bấy nhiêu. Quy hoạch đất đai tạo điều kiện cho việc tính thuế xác định giá cả đất đai hợp lý hơn. Công việc định giá đất phải dựa vào việc đánh giá vị trí, diện tích, mức sinh lợi và giá trị sử dụng của mảnh đất đó. Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế thị trấn hội của Đại Hội Đảng Bộ thị trấn An Lão nhiệm kỳ 2001 - 2005 là cần nắm chắc quỹ đất hiện tại, phân tích những ưu nhược điểm của việc quản lý và sử dụng đất trong những năm vừa qua, từ đó xây dựng phương án quy hoạch phân phối quỹ đất cho các ngành, các vùng thâm canh, các giống cây trồng vật nuôi hợp lý và đưa ra quy trình thâm canh tối ưu nhất, làm cơ sở cho việc quản lý đất đai theo đúng pháp luật của nhà nước, nhằm khai thác đầy đủ thế mạnh của đất vườn cho hiệu quả kinh tế cao góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Để đạt được mục tiêu: " Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh ". 4. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất đai. Có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại quy hoạch sử dụng đất đai. Tuy nhiên, mọi quan điểm đều dựa trên những căn cứ có cơ sở chung như sau: Nhiệm vụ đặt ra đối với quy hoạch ; Số lượng và thành phần đối tượng nằm trong quy hoạch ; Phạm vi lãnh thổ quy hoạch (cấp vị lãnh thổ hành chính) cũng như nội dung và phương pháp quy hoạch. Thông thường hệ thống quy hoạch sử dụng đất đai được phân loại theo nhiều cấp vị khác nhau (như loại hình, dạng, hình thức quy hoạch...) nhằm giải quyết các nhiệm vụ cụ thể về sử dụng đất đai (nhằm điều chỉnh quan hệ sử dụng đất đai hay tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất) từ tổng thể đến thiết kế chi tiết. Đối với nước ta, Luật đất đai năm 1993 (điều 16, 17, 18) quy định: Quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành theo lãnh thổ và theo ngành. 4.1. Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ. 4.1.1. Quy hoạch tổng thể sử dụng đất đai cả nước và các vùng. Quy hoạch sử dụng đất đai cả nước và các vùng là chỗ dựa của quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh được căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế xã hội, xác định phương hướng, mục tiêu phát triển, nhằm điều hoà quan hệ sử dụng đất các ngành, tỉnh, thành phố, trung ương. Đề xuất các chính sách,
  11. biện pháp, bước đi và khai thác sử dụng đất, đảm bảo phù hợp với chiến lược phát triển của cả nước. 4.1.2. Quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh. Xây dựng căn cứ phải dựa vào quy hoạch đất đai toàn quốc, của vùng cụ thể hoá các chỉ tiêu yêu cầu cả nước, kết hợp với đặc điểm đất đai yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong phạm vi tỉnh mình. Nội dung chủ yếu của quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh: - Xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu sử dụng đất - Điều hoà nhu cầu sử dụng đất đai trong toàn tỉnh, xử lý mối quan hệ khai thác sử dụng đất đai giữa các ngành, - Xác định định hướng sử dụng đất, cơ cấu đất, các chỉ tiêu phân bố và sử dụng đất, phân bố quỹ đất và đề ra những giải pháp thực hiện quy hoạch. 4.1.3. Quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện. Xây dựng định hướng quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện xây dựng trên cơ sở định hướng sử dụng đất đai cấp tỉnh nhằm giải quyết các mâu thuẫn về quan hệ đất đai, căn cứ vào đặc điểm nguồn tài nguyên đất, định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện (điều hoà quan hệ sử dụng đất đai trong phát triển xây dựng, đô thị, phát triển nông lâm nghiệp, đề xuất các chỉ tiêu và phân bố sử dụng đất, xác định chỉ tiêu và khống chế cho quy hoạch sử dụng đất cấp xã trên phạm vi toàn huyện). Nội dung cụ thể: - Xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cơ bản sử dụng đất đai của huyện. - Xác định quy mô cơ cấu phân bố sử dụng đât các ngành. - Xác định cơ cấu và phân bố công trình sử dụng đất hạ tầng chủ yếu như nông, lâm, thuỷ sản, thuỷ lợi giao thông, đô thị, khu dân cư nông thôn, du lịch, dịch vụ, thương mại (đề xuất các chỉ tiêu sử dụng đất có tính chất khống chế theo từng khu vực cho từng xã, trong huyện, xác định địa điểm đất an ninh quốc phòng... ). 4.1.4. Quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã. Xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở (cấp cuối cùng). Các loại văn bản nghiên cứu tiền kế hoạch (từ trước tới nay chưa có quy hoạch kinh tế phát triển của xã, chỉ đến huyện). Theo luật đất đai, tài liệu quy hoạch sử dụng đất cấp xã 5 - 10 năm, có tính pháp quy và sẽ là văn bản duy nhất mang tính tiền kế hoạch. Vì vậy, trong quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã phải được giải quyết rất cụ thể.
  12. Quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã là quy hoạch vi mô, là khâu cuối cùng của quy hoạch sử dụng đất đai. Được dựa trên khung chung của định hướng quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện. Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã là cơ sở để chỉnh lý quy hoạch sử dụng đất đai cấp trên. Kết quả quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã là căn cứ để giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất ổn định, lâu dài để tiến hành khoanh vùng đổi ruộng nhằm thực hiện phương án sản xuất kinh doanh cũng như các phương án cụ thể khác. Quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã có nội dung sau: - Xác định mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể và các giải pháp sử dụng đất đai trên toàn địa bàn xã. - Xác định nhu cầu và cân đối quỹ đất đai cho từng mục đích, từng dự án. - Xác định cụ thể vị trí, phân bố hình thể, diện tích và cơ cấu sử dụng từng khoanh đất cho mục đích sử dụng. (Hệ thống hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi, văn hoá, giáo dục, thể thao và các công trình khác ). - Trong một số trường hợp cần thiết (khi có tác động của tính đặc thù khu vực) đôi khi phải xây dựng quy hoạch sử dụng đất cấp trung gian gọi là quy hoạch vùng đặc thù. Quy hoạch sử dụng đất đai là quy hoạch dài hạn có tính khống chế vĩ mô, trong một vùng một địa phương, vì vậy tính tổng hợp thể hện rất mạnh, trong đó đề cập đến rất nhiều ngành và phạm vi lãnh thổ, ngoài ra tính chính sách là vị trí quan trọng. Phương án quy hoạch được xây dựng đòi hỏi số lượng các tư liệu và thông tin rất lớn, quá trình thu thập xử lý rất phức tạp (từ khâu thu thập tư liệu, đánh giá hiện trạng sử dụng đất, phân tích tính thích nghi của đất, để đề xuất tư tưởng chiến lược sử dụng đất, phân tích tiềm năng đất đai, dự báo các yêu cầu sử dụng đất, phân khu sử dụng đất thiết kế và tổng hợp phương án quy hoạch). Để quy hoạch phù hợp với tình hình thực tế lại thích hợp với tình hình sử dụng đất sau này và có tính khả thi (thực hiện) cao. Việc lập quy hoạch sử dụng đất cần đặc biệt chú ý đến tính tổng hợp, so sánh và thống nhất quy hoạch chủ đạo với tổng thể phát triển kinh tế xã hội có sự tham gia các ngành các nhà chuyên môn kinh tế và cả người dân. Nghiên cứu đề xuất sử dụng đất đai phải kết hợp phương pháp truyền thống với kỹ thuật hiện đại. Kết hợp phương pháp định tính và định
  13. lượng, áp dụng cơ chế phản hồi trong quy hoạch nhằm tăng tính khoa học, tính thực tiễn và tính quần chúng. Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ là toàn bộ diện tích tự nhiên của lãnh thổ. Tuỳ thuộc vào cấp vị hành chính quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ sẽ có nội dung cụ thể, chi tiết khác nhau và được thực hiện theo nguyên tắc: từ trên xuống, từ dưới lên, từ toàn cục đến bộ phận, từ cái chung đến cái riêng, từ vĩ mô đến vi mô và bước sau chỉnh lý bước trước. Mục đích chung của quy hoạch sử dụng đất đai theo cấp lãnh thổ hành chính bao gồm: Đáp ứng nhu cầu đất đai (tiết kiệm, khoa học, hợp lý và có hiệu quả) cho hiện tại và tương lai để phát triển các ngành kinh tế quốc dân. Cụ thể hoá một bước quy hoạch sử dụng đất đai của các ngành và đơn vị hành chính cấp dưới triển khai quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành và của địa phương mình ; Làm cơ sở để các ngành (cùng cấp) và đơn vị hành chính cấp dưới triển khai quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành và địa phương của mình ; Làm cơ sở để lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm (căn cứ để giao cấp đất, thu hồi đất theo thẩm quyền được quy định trong luật đất đai) ; Phục vụ cho công tác thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. 4.2. Quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành. 4.2.1. Quy hoạch sử dụng đất đai nông nghiệp. Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp nh ư trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. 4.2.2 Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp. Đất lâm nghiệp là đất được xác định chủ yếu để phục vụ sản xuất lâm nghiệp gồm có đất rừng tự nhiên, đang có rừng trồng và đất được sử dụng vào mục đích lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ phục hồi thiên nhiên, nuôi dưỡng, trồng rừng, nghiên cứu thí nghiệm về lâm nghiệp. 4.2.3. Quy hoạch sử dụng đất chuyên dùng. Đất chuyên dùng là đất được xác định sử dụng không phải vào mục đích lâm nghiệp, nông nghiệp, làm nhà ở bao gồm: Đất xây dựng công trình công nghiệp, công trình khoa học kỹ thuật, hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi, đê điều, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, dịch vụ thương mại, để sử dụng cho nhu cầu quốc phòng an ninh, cho thăm dò khai thác khoáng sản, đất làm muối, đồ gốm, nguyên vật
  14. liệu, đất di tích lịch sử, văn hoá danh lam, nghĩa trang, nghĩa địa, đất mặt nước sử dụng không vào mục đích nông nghiệp. 4.2.4. Quy hoạch sử dụng đất đô thị. Đất đô thị là đất nội thành, nội thị xã, thị trấn, được sử dụng cho xây dựng nhà ở, trụ sở cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng phục vụ mục đích công cộng, quốc phòng an ninh và các mục đích khác 4.2.5. Quy hoạch khu dân cư nông thôn. Đất khu dân cư nông thôn là đất được chủ yếu để xây dựng nhà ở và các công trình sinh hoạt ở nông thôn. Đất ở mỗi hộ gia đình ở nông thôn bao gồm đất để làm nhà ở và đất làm công trình phục vụ cho gia đình. 4.2.6 Quy hoạch đất chưa sử dụng. Đất chưa sử dụng là đất chưa có đủ điều kiện hoặc chưa được xác định để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, lâm nghiệp ; chưa được xác định là khu dân cư nông thôn, đô thị, chuyên dùng mà nhà nước chưa giao cho tổ chức cá nhân nào sử dụng lâu dài. Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành là diện tích đất đai thuộc quyền sử dụng và diện tích dự kiến cấp thêm cho các ngành (trong phạm vi ranh giới đã được xác định rõ mục đích cho từng ngành ở các cấp lãnh thổ tương ứng). Quy hoạch sử dụng đất đai giữa các ngành có quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của lực lượng sản xuất, với kế hoạch sử dụng đất và phân vùng của cả nước. Khi tiến hành cần phải có sự phối hợp chung của nhiều ngành. Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ và theo ngành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và hệ thống thông tin tư liệu, điều kiện đất đai hiện có để quy hoạch tổng thể sử dụng. Các loại đất và quy hoạch sử dụng đất đai cụ thể cho từng ngành phù hợp vói yêu cầu và nội dung sử dụng đất của từng ngành. Như vậy, quy hoạch tổng thể đất đai phải đi trước và có tính định hướng cho quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành. Nói cách khác đi, quy hoạch ngành là một bộ phận cấu thành trong quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ. 5. Những căn cứ pháp lý lập quy hoạch sử dụng đất. 5.1. Căn cứ vào chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nhà nước.
  15. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội là quy hoạch ở tầm vĩ mô của nhà nước, nhằm bố trí sắp xếp các ngành nghề, các nguồn lực sản xuất xã hội sao cho hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả nhất. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội xây dựng mục tiêu phương hướng và kế hoạch cho hoạt động xã hội. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội là cơ sở cho các quy hoạch khác xác định và định hướng hoạt động trong xã hội, nó vạch ra hướng đi ở tầm vĩ mô cho các ngành các lĩnh vực hoạt động trong xã hội, nhằm thúc đẩy các ngành phát triển đúng hướng đã vạch ra. Quy hoạch đất đai là một bộ phận của quy hoạch đô thị và quy hoạch nông thôn, nền tảng cho mọi hoạt động. Chính vì vậy, quy hoạch đất đai sẽ thực hiện theo đúng phương hướng mà quy hoạch tổng thể đã vạch ra. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp đã và đang gây áp lực ngày càng lớn đối với đất đai (bình quân mỗi năm phải chuyển khoảng 30.000 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng sang mục đích khác ). Kinh nghiệm thực tiễn cùng với đổi mới tư duy và nhận thức đã trả lại cho đất đai giá trị đích thực vốn có của nó (là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được). Việc sử dụng đất đai hợp lý liên quan chặt chẽ tới mọi hoạt động của từng ngành và từng lĩnh vực, quyết định đến hiệu quả sản xuất và sự sống còn của từng người dân cũng như vận mệnh của cả quốc gia. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi đây là vấn đề rất bức xúc, cần được quan tâm hàng đầu. Nguyện vọng, ý chí của toàn Đảng, toàn dân vấn đề đất đai đã được thể hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới luật. Những văn bản này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, giúp giải đáp về mặt nguyên tắc đối với những câu hỏi đặt ra: Sự cần thiết vầ mặt pháp lý phải lập quy hoạch sử dụng đất đai ? Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất đai ? Nội dung lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ? Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai ? 5.2. Căn cứ và Hiến pháp, Luật đất đai, Nghị quyết của Quốc hội lập quy hoạch sử dụng đất đai - Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định: " Đất đai thuộc sở hữu toàn dân ", " Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy
  16. hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả " (chương 2, điều 18 ). - Điều 1 (Luật đất đai) năm 1993 cũng nêu rõ: " Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý ". - Điều 13 (Luật đất đai) xác định một trong những nội dung quản lý Nhà nước về đất đai là " Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất ". - Điều 19 (Luật đất đai) khẳng định " Căn cứ để quyết định giao đất là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt ". - Nghị quyết số 01/1997/QH9 Quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 11 (tháng 4/1997) về kế hoạch sử dụng đất cả nước năm 2000 và đẩy mạnh công tác quy hoạch sử dụng đất các cấp trong cả nước... Như vậy, để sử dụng và quản lý đất đai (thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc biệt) một cách tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả nhất thiết phải làm quy hoạch. 5.3. Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất đai. Điều 16 (Luật đất đai năm 1993) quy định rõ trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai theo cấp lãnh thổ hành chính theo ngành cũng như trách nhiệm của ngành Địa chính về công tác này: - Chính phủ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước. - UBND các cấp (tỉnh, huyện, xã) lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong địa phương mình (quy hoạch theo lãnh thổ hành chính) trình Hội đồng nhân dân thông qua bước trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai do ngành lĩnh vực mình phụ trách để trình cchính phủ xét duyệt. - Cơ quan quản lý đất đai ở trung ương và địa phương phối hợp với cơ quan hữu quan giúp chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai (4 cấp lãnh thổ hành chính, 4 cấp cơ quan ngành). Điều 17 (Luật đất đai năm 1993) quy định nội dung tổng quát của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Nội dung của quy hoạch sử dụng đất đai bao gồm: - Khoanh định các loại đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng của từng địa phương và cả nước.
  17. - Điều chỉnh việc khoanh định nói trên phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và trong phạm vi cả nước (quy hoạch mang tính khả biến, luôn lặp lại). Điều 18 (Luật đất đai năm 1993) quy định thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai: - Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước. - Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. - Uỷ ban nhân dân cấp trên xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cấp dưới trực tiếp. - Ngoài các văn bản có tính pháp lý ở mức độ cao (Hiến pháp và luật đất đai),còn có các văn bản dưới luật cũng như các văn bản ngành trực tiếp hoặc giám tiếp đề cập đến vai trò, ý nghĩa, căn cứ, nội dung và hướng dẫn phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai như Nghị định 404/CP ; Nghị định 34/CP ; Chỉ thị 247/TTg ; Chỉ thị 245/TTg ; Thông tư 106/QHKH/RĐ ; Quyết định 657/QĐ/ĐC.... Tuy nhiên, việc ban hành một số văn bản dưới luật để cụ thể hoá cơ sở pháp lý của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai còn chậm. 6. Nhiệm vụ và nội dung của quy hoạch sử dụng đất đai. Nhiệm vụ và nội dung của quy hoạch sử dụng đất đai đối với mỗi quốc gia, cũng như từng vùng trong một nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau rất khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cụ thể của quy hoạch sử dụng đất đai sử dụng đất đai theo lãnh thổ hành chính là: - Nghiên cứu, phân tích và tổng hợp hiện trạng sử dụng đất ; Đánh giá tiềm năng đất đai, đặc biệt là đất chưa sử dụng ; Đề xuất phương hướng, mục tiêu, trọng điểm và các nhiệm vụ cơ bản vể dụng đất đai trong thời hạn lập quy hoạch (dựa trên cơ sở dự báo biến động sử dụng đất đai của các ngành kinh tế quốc dân, khả n ăng đáp ứng về số lượng và chất lượng đất đai ). - Xử lý, điều hoà nhu cầu sử dụng đất giữa các ngành, đưa ra các chỉ tiêu khống chế để quản lý vĩ mô đối với từng loại sử dụng đất (6 loại đất chính theo luật định ).
  18. - Phân phối hợp lý nguồn tài nguyên đất đai, điều chỉnh cơ cấu phân bố sử dụng đất đai. - Tổ chức một cách hợp lý việc khai thác, cải tạo, bảo vệ đất đai. Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ hành chính là: Phân phối hợp lý đất đai cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ; Hình thành hệ thống cơ cấu sử dụng đất đai phù hợp với cơ cấu kinh tế ; Khai thác tiềm năng đất đai và sử dụng đất đúng mục đích ; Hình thành, phân bố hợp lý các tổ hợp không gian sử dụng đất đai nhằm đạt hiệu quả tổng hoà giữa ba lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất. Quy hoạch sử dụng đất đai có giá trị pháp lý sẽ là cơ sở để xây dựng và phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đai các chuyên ngành hoặc các khu vực dựa trên bảng cân đối nhu cầu sử dụng đất của các ngành và ranh giới được hoạch định cho từng khu vực. Nội dung đầu phản ánh việc điều chỉnh cơ cấu và cân đối đất đai về số lượng, nội dung sau phản ánh bố cục không gian của các loại đất được sử dụng. Quy hoạch sử dụng đất đai là hệ thống quy hoạch nhiều cấp. Ngoài lợi ích chung của cả nước, mỗi vùng, mỗi địa phưong tự quyết định những lợi ích cục bộ của mình. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất khi xây dựng và triển khai quy hoạch sử dụng đất đai tuân thủ các thể chế hành chính hiện hành của Nhà nước. Hệ thống quản lý hành chính hiện hành của nước ta được phân thành bốn cấp: toàn quốc (bao gồm cấp vùng),cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Tuỳ thuộc vào chức năng nhiệm vụ của mỗi cấp quy hoạch sử dụng đất đai có nội dung và ý nghĩa khác nhau. Quy hoạch của cấp trên là cơ sở và chỗ dựa cho quy hoạch sử dụng đất đai cấp dưới ; Quy hoạch của cấp dưới là phần tiếp theo, cụ thể hoá quy hoạch của cấp trên và là căn cứ để điều chỉnh các quy hoạch vĩ mô. Chương 2: Thực trạng quy hoạch sử dụng đất Thị trấn An Lão. 1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội. 1.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường. 1.1.1 Vị trí địa lý.
  19. Thị trấn An Lão là trung tâm kinh tế chính trị, văn hoá xã hội của huyện, nên có những điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận nhanh các chủ chương chính sách của huyện. Phía Đông giáp xã An Thắng Phía Tây Bắc giáp xã Trường Thọ Phía Tây giáp xã An Tiến Phía Đông Nam giáp xã Quốc Tuấn Thị trấn An Lão là trung tâm kinh tế chính trị, văn hoá xã hội của huyện, nên có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận nhanh chóng các chủ chương chính sách của huyện. Thị trấn nằm trên trục đường quốc lộ 10 có sông Đa Độ chảy qua, là đầu mối giao thông giữa thị trấn với các xã trong huyện, có điều kiện mở mang thị trường thuận lợi. Thị trấn An Lão nằm cách quận Kiến An khoảng 8 km và cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 19 km. Hiện nay có đường quốc lộ 10 mới xây dựng đi qua địa phận thị trấn tới các tỉnh lân cận là Hải Dương và Thái Bình. Địa hình của thị trấn tương đối bằng phẳng thuận lợi cho việc mở rộng, thu hút các nhà đầu tư xây dựng các nhà máy, khu công nghiệp. 1.1.2. Địa hình, địa mạo. Thị trấn An Lão có địa hình bằng phẳng, là thị trấn đồng bằng của huyện An Lão, có độ cao từ 3 - 10 m so với mực nước biển, độ dốc nền địa hình từ 10 - 100. Dạng địa hình thấp trũng gồm các khu vực ruộng thấp trũng và các ao hồ xen kẽ có độ cao < 1 m so với mực nước biển. 1.1.3. Khí hậu. Thị trấn An Lão nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ không 0 khí trung bình năm là 22,8 C, tháng nóng nhất là tháng 6, tháng 7 có nhiệt độ trung bình là 28,4 0 C. Tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng 1, tháng 2, nhiệt độ trung bình là 15,5 0 C, thấp nhất là 10 0 C. Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 9 và mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa rõ rệt 11 0 - 12 0.
  20. Độ ẩm không khí: độ ẩm trung bình cả năm là: 85%. Độ ẩm không khí chịu ảnh hưởng theo mùa, gió nắng thuỷ triều vùng ven biển. Độ ẩm trung bình lúc 13 h là 90%, độ ẩm thấp nhất là tháng 1: 73%, cao nhất là tháng 4: 91%, độ ẩm tuyệt đối: 56%. Lượng bốc hơi nước hàng năm bình quân 700 ml, trong tháng khô hanh chế độ nước mất cân bằng, lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa nên xảy ra khô hạn, thiếu nước. Lượng mưa bình quân cả năm là 1.740 mm (số đo trung bình từ năm 1965 - 1995). Lượng mưa trung bình hàng năm là: 1.820 mm. Mùa mưa (tháng 5 - tháng 10) lượng mưa chiếm 80% - 90% lượng mưa cả năm, tập trung vào các tháng 6, tháng 7 và tháng 8. Lượng mưa trung bình/ tháng thời gian này là trên 400 mm, cao nhất 683,3 mm (năm 1995). Mùa khô (tháng 10 đến tháng 3 năm sau),đầu mùa khô thường hanh, cuối mùa ẩm ướt và có mưa phùn từ tháng 2 - tháng 4. Lượng mưa trung bình thấp nhất trong năm là tháng 12, tháng 1 và tháng 2, số đo trung bình là 20 mm. Tổng số ngày nắng 150 - 160 ngày/năm, tháng 5 và tháng 7 có giờ nắng cao nhất là 188 giờ/tháng. Thị trấn An Lão chịu ảnh hưởng của hai loại gió chính: Gió mùa Đông Bắc vào mùa khô (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) tốc độ gió trung bình là 2,2 m/s. Gió Đông Nam vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, vận tốc gió trung bình là 2,5 m/s. Mùa mưa luôn biến động do ảnh hưởng của bão, lũ dòng triều. Gió mang nhiều hơi nước. Tốc độ trung bình trong năm 1,7 - 4 m/s cực đại đật 20 - 25m/s vào mùa mưa bão. Bão lũ thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 9, bình quân 3 - 5 trận /năm. Bão kèm theo mưa lớn nhất là khi triều cường. 1.1.4. Thuỷ văn và sông ngòi. Hệ thống sông ngòi của thị trấn An Lão đều thuộc hệ thống sông Thái Bình. Nguồn nước ngầm rất hạn hẹp. Mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của huyện đều nhờ vào nguồn nước mật của hệ thống con sông chính sông Đa Độ. Thị trấn An Lão có nhiều ao, mương nên khả năng giữ nước vào mùa mưa tương đối tốt. Ngoài ra hầu hết các gia đình đều có giếng nước ngầm. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tích trữ nước vào mùa khô.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2