intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun nhằm tăng cường năng lực tự học cho học sinh giỏi Hóa học lớp THPT

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:124

143
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun nhằm tăng cường năng lực tự học cho học sinh giỏi Hóa học lớp THPT nghiên cứu xây dựng một số biện pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh phần hidrocacbon THPT nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh giỏi Hóa học ở các trường THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun nhằm tăng cường năng lực tự học cho học sinh giỏi Hóa học lớp THPT

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH  Nguyễn Ngọc Nguyên THIẾT KẾ TÀI LIỆU TỰ HỌC CÓ HƯỚNG DẪN THEO MOĐUN NHẰM TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH GIỎI HÓA HỌC LỚP 11 THPT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010
  2. Lời cám ơn Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, quý Thầy Cô khoa Hóa học, Phòng Khoa học Công nghệ và Sau Đại học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Tôi xin chân thành cám ơn PGS.TS Trịnh Văn Biều – Trưởng Khoa Hóa học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và làm luận văn này. Tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, quý thầy cô dạy môn Hóa học và học sinh các lớp 11 thuộc các trường: THPT Đầm Dơi – tỉnh Cà Mau, THPT Chuyên Hùng Vương – tỉnh Bình Dương, THPT Hậu Nghĩa – tỉnh Long An, và trường THPT Chuyên tỉnh Tiền Giang. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc đến PGS.TS Đặng Thị Oanh đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Xin cám ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên khích lệ để tôi hoàn thành luận văn này. Trân trọng cám ơn! Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2010 Tác giả Nguyễn Ngọc Nguyên
  3. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức đã đặt ngành giáo dục đứng trước cơ hội thuận lợi, đồng thời cũng đứng trước những thử thách lớn trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực với những yêu cầu mới. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế xã hội, toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng tích cực, phát huy tối đa khả năng tự học của học sinh; từng bước rèn luyện tư duy độc lập nhằm tạo ra những lớp người mới năng động sáng tạo, giàu tính nhân văn...đáp ứng được những yêu cầu của thời đại. Chủ trương của ngành giáo dục nước ta là giao việc phát hiện đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho các trường chuyên. Tuy nhiên còn một số học sinh có năng khiếu và giỏi thật sự nhưng do điều kiện mà các em không thể thi và học tại trường chuyên được. Do đó mỗi trường phổ thông ở từng vùng cũng phải cần có lực lượng giáo viên giỏi có khả năng phát hiện học sinh năng khiếu và có biện pháp, phương pháp để bồi dưỡng cho các em. Điều đó minh chứng bằng kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh và cấp quốc gia hàng năm đã có không ít các em học ở các trường THPT không chuyên đạt giải, thậm chí còn đạt giải cao. Kết quả đó phần lớn là do năng lực tự học, tự nghiên cứu của các em rất tốt. Sau một thời gian đổi mới phương pháp dạy và học, đặc biệt là việc tự học và học suốt đời, các em học sinh, đặc biệt là những em học sinh giỏi, học sinh năng khiếu môn Hóa học đã đầu tư cho việc tự học nhiều hơn. Tuy nhiên, lượng tài liệu và thông tin hiện nay là rất lớn và có nhiều quan điểm khác nhau của nhiều tác giả nên các em rất lúng túng trong việc lựa chọn tài liệu đảm bảo tin cậy để tự học và cho ôn thi học sinh giỏi. Xuất phát từ những lý do nêu trên tôi đã chọn đề tài “Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun nhằm tăng cường năng lực tự học cho học sinh giỏi hóa học lớp 11 THPT” để nghiên cứu. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu xây dựng một số biện pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh phần hidrocacbon lớp 11- THPT nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh giỏi hóa học ở các trường THPT. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Việc thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun nhằm tăng cường năng lực tự học cho học sinh giỏi hóa học lớp 11 THPT 3.2. Khách thể nghiên cứu
  4. Quá trình dạy học hoá học phần hidrocacbon lớp 11 chuyên, lớp chọn môn Hóa học ở các trường THPT. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Nội dung: Trong khuôn khổ của đề tài này chúng tôi chỉ nghiên cứu, lựa chọn và phối hợp sử dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học hoá học chương hidrocacbon no và chương hidrocacbon không no cho học sinh giỏi hóa học ở các trường THPT. - Địa bàn: Học sinh giỏi Hóa học ở các lớp chuyên, chọn hóa học ở các trường: + THPT Đầm Dơi- Huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. + THPT Chuyên Hùng Vương, Thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. + THPT Hậu Nghĩa, Huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. + THPT Chuyên Tiền Giang, T.P Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. - Thời gian: Từ tháng 09/2009 đến tháng 05/2010. 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu thiết kế được một tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun đảm bảo được yêu cầu và chất lượng sẽ tăng cường năng lực tự học và nâng cao kết quả học tập cho học sinh, đặc biệt là HSG hóa học. 6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề tự học có hướng dẫn của học sinh phổ thông, đặc biệt với học sinh giỏi hoá học ở trường THPT - Tìm hiểu quá trình tự học có hướng dẫn và PP dạy học hoá học ở trường THPT đặc biệt với học sinh lớp chuyên, lớp chọn. - Ứng dụng phương pháp tự học theo tài liệu có hướng dẫn đối với học sinh giỏi hóa học ở các trường THPT. 6.2. Biên soạn một tài liệu tự học có hướng dẫn bao gồm các vấn đề lý thuyết, bài tập phần hidrocacbon ở lớp 11- THPT giúp học sinh lớp chuyên, lớp chọn hoá học có thể tự học có hiệu quả. 6.3. Thử nghiệm đánh giá tính khả thi và hiệu quả việc sử dụng tài liệu có hướng dẫn cho học sinh lớp chuyên, lớp nhóm chọn hoá học ở trường phổ thông: - Tổ chức thực nghiệm sư phạm. - Xử lý thống kê các số liệu và rút ra kết luận. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
  5. Sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá... trong nghiên cứu tài liệu lý luận có liên quan. 7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Quan sát, trò chuyện với học sinh nhằm đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động tự học của học sinh hiện nay. - Trao đổi kinh nghiệm với các nhà giáo dục, các giáo viên... - Điều tra thăm dò trước và sau thực nghiệm sư phạm. - Nghiên cứu kế hoạch học tập của học sinh giỏi hóa học của các lớp chuyên, lớp chọn trường THPT. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 7.3. Nhóm các phương pháp thống kê toán học 8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN - Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng dạy học và tổ chức tự học có hướng dẫn theo mođun cho HSG hóa học của các lớp chuyên, lớp chọn trường THPT. - Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun cho học sinh giỏi hóa học của các lớp chuyên, lớp chọn trường THPT (chương “hidrocacbon no” và chương “hidro cacbon không no” lớp 11).
  6. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU • Các nghiên cứu về bồi dưỡng HSG hóa học ở trường THPT Đi theo hướng này đã có các công trình nghiên cứu sau: - “Bồi dưỡng học sinh giỏi Hoá học ở trường THPT”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Anh Tuấn năm 1998, trường ĐHSP Hà Nội. - “Hệ thống lý thuyết bài tập dung dịch chất điện ly dùng bồi dưỡng học sinh giỏi và học sinh chuyên Hóa học”, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Cao Cự Giác năm 1999, trường ĐHSP Hà Nội. - “Nội dung và biện pháp bồi dưỡng HSG hoá học ở trường THPT một số tỉnh miền núi”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thế Nhân năm 1999, trường ĐHSP Hà Nội. - “Một số biện pháp phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Hoá học ở lớp 10 trường THPT”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Phụng năm 2006, ĐHSP Vinh. - “Tuyển chọn và xây dựng hệ thống bài tập Hóa học bồi dưỡng HS khá giỏi lớp 10 THPT”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Đặng Thị Thanh Bình năm 2006, ĐHSP Vinh. - “Nội dung và biện pháp bồi dưỡng HS giỏi Hóa học hữu cơ THPT”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Tấn Diện năm 2009, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. - “Xây dựng hệ thống lý thuyết, bài tập phần Hóa lý dùng trong bồi dưỡng học sinh giỏi, chuyên hóa trường THPT”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Mỹ Trang năm 2009, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. - “Xây dựng hệ thống bài tập Hóa học nhằm rèn luyện tư duy trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi Hóa học ở trường THPT”, Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Anh Tuấn năm 2006, trường ĐHSP Hà Nội. • Các công trình nghiên cứu về thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo mođun Đi theo hướng nghiên cứu này có các đề tài sau: - “Nâng cao chất lượng thực hành thí nghiệm phương pháp dạy học Hoá học ở Trường ĐHSP bằng phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị Bắc năm 2002, trường ĐHSP Hà Nội. - “ Nâng cao chất lượng dạy học phần Hoá hữu cơ (chuyên môn I) ở Trường CĐSP bằng phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Hoàng Hà năm 2003, trường ĐHSP Hà Nội. - “ Nâng cao chất lượng dạy học phần Hoá vô cơ (chuyên môn I) ở Trường CĐSP bằng phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị Kiều Trang năm 2004, trường ĐHSP Hà Nội.
  7. - “Nâng cao năng lực tự học cho học sinh giỏi hoá học bằng tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun (Chương Ancol-phenol và chương Anđehit-xeton)”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Thị Tuyết Mai năm 2008, trường ĐHSP Hà Nội. - “Dùng bài toán tình huống mô phỏng rèn luyện kỹ năng thiết kế công nghệ bài nghiên cứu tài liệu mới cho sinh viên khoa Hoá đại học sư phạm”, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Thị Oanh năm 1995, trường ĐHSP Hà Nội. - “ Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh phần Hoá học đại cương THPT nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh giỏi hoá học”, Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Ngà năm 2009, trường ĐHSP Hà Nội. Như vậy với đối tượng học sinh giỏi hóa học trường THPT đã có một số đề tài nghiên cứu về Hoá hữu cơ, tiếp tục theo hướng này chúng tôi nghiên cứu mở rộng và đi sâu thêm phần Hoá hữu cơ ở hai chương: “Hidro cacbon no” và “Hidro cacbon không no” của lớp 11. 1.2. HỌC SINH GIỎI, HỌC SINH GIỎI HÓA HỌC 1.2.1. Khái niệm về HSG Nhìn chung các nước đều dùng hai thuật ngữ chính là HSG, học sinh có năng khiếu (Gift) và học sinh tài năng (Talent). Luật bang Georgia (Hoa Kỳ) định nghĩa HSG: “HSG là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao và có khả năng sáng tạo, thể hiện một động cơ học tập mãnh liệt và đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý thuyết khoa học; là người cần một sự giáo dục đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt được trình độ tương ứng với năng lực của người đó” (Georgia Law). HSG là những học sinh có khả năng thể hiện xuất sắc hoặc năng lực nổi trội trong các lĩnh vực trí tuệ, sự sáng tạo, khả năng lãnh đạo, nghệ thuật, hoặc các lĩnh vực lí thuyết chuyên biệt. Những học sinh này thể hiện tài năng đặc biệt của mình từ tất cả các bình diện xã hội, văn hóa và kinh tế”.(Education of Gifted Students- Encarta Encyclopedia). Theo chúng tôi, HSG trong nhà trường phổ thông được phân biệt thành hai đối tượng sau: - Thứ nhất: HSG là đối tượng học sinh đủ điều kiện xếp loại học lực giỏi theo qui định của Bộ GD&ĐT. - Thứ hai: HSG là đối tượng học sinh có năng lực đặc biệt ở một môn học, có khả năng sáng tạo, động cơ học tập mãnh liệt và được giáo dục với hình thức giáo dục đặc biệt để đạt được trình độ tương ứng với năng lực của học sinh và đạt được kết quả cao trong các kỳ thi HSG các cấp, tạo nguồn lực lượng để bồi dưỡng phát triển nhân tài cho xã hội.
  8. Trong thực tế, có trường hợp học sinh đạt học lực giỏi nhưng không đủ điều kiện được chọn vào đội tuyển HSG và ngược lại. Trong phạm vi của đề tài, đối tượng HSG mà chúng tôi nghiên cứu là đối tượng thứ hai. 1.2.2. Khái niệm về HSG hóa học Theo PGS Bùi Long Biên (ĐHBK Hà Nội) thì:" HSG hóa học phải là người nắm vững bản chất hiện tượng hóa học, nắm vững các kiến thức cơ bản đã được học, vận dụng tối ưu các kiến thức cơ bản đã được học để giải quyết một hay nhiều vấn đề mới (do chưa được học hoặc chưa thấy bao giờ) trong các kì thi đưa ra". Còn theo PGS.TS. Trần Thành Huế thì:"Nếu dựa vào kết quả bài thi để đánh giá thì bài thi đó phải hội tụ các yêu cầu: - Có kiến thức cơ bản tốt, thể hiện nắm vững các khái niệm, các định nghĩa, các định luật hay quy luật đã được quy định trong chương trình, không thể hiện thiếu sót về công thức, phương trình hóa học. Số điểm phần này chiếm 50% toàn bài. - Vận dụng sắc bén có sáng tạo các kiến thức cơ bản trên. Số điểm này là 40%. - Tiếp thu ngay một số vấn đề mới nảy sinh do đề đưa ra. Số điểm phần này là 6%. - Bài làm trình bày sạch đẹp, rõ ràng. Phần này chiếm 4% ”. Chúng ta phải công nhận rằng, mỗi người có một cách học, một phương pháp học khác nhau; không thể có một khuôn mẫu chung cho mọi người. Vấn đề mà có lẽ mọi người đều thống nhất là cần phải có một lòng hăng say học tập cao độ và một ý chí vươn lên thật mạnh mẽ. Trong cách học, có lẽ trước hết ta phải tìm cách nắm vững được kiến thức cơ bản. Có nghĩa là chúng ta phải lật đi lật lại vấn đề với 3 câu hỏi lớn: "Đó là cái gì? Nó như thế nào? Tại sao lại như thế ?". Với ba câu hỏi ấy, bạn sẽ tìm được cách tự học tốt nhất cho mình. 1.2.3. Những năng lực cần có để một HS trở thành HSG hoá học Các em HSG, học sinh chuyên hoá là các học sinh có trí tuệ phát triển tương đối đặc biệt, đó phải là học sinh hội tụ được các phẩm chất và năng lực sau: - Có năng khiếu hoá học, biểu hiện ở chỗ: + Có kiến thức hoá học cơ bản vững vàng, sâu sắc, hệ thống (chính là nắm vững bản chất của các hiện tượng hoá học). + Có khả năng nhận thức vấn đề nhanh, rõ ràng và năng lực tư duy hoá học (biết phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá cao, có khả năng sử dụng phương pháp phán đoán mới: qui nạp, diễn dịch, loại suy...).
  9. + Có khả năng quan sát, nhận thức, nhận xét các hiện tượng tự nhiên, có khả năng vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo những kiến thức cơ bản vào những tình huống khác nhau. Có khả năng nhìn nhận một vấn đề từ nhiều góc độ. + Biết tìm ra con đường hay nhất, ngắn nhất, độc đáo để đi đến đích và có khả năng diễn đạt những ý tưởng của mình một cách ngắn gọn, chính xác, súc tích. + Có năng lực thực hành tốt, biểu hiện ở chỗ có kĩ năng tiến hành thí nghiệm hoá học, biết nhận xét hiện tượng và phân tích kết quả thí nghiệm để rút ra kiến thức. + Có năng lực về phương pháp nghiên cứu khoa học: biết nêu ra những dự đoán, lí luận và giải thích cho những hiện tượng xảy ra trong thực tế, biết cách dùng thực nghiệm để kiểm chứng lại lí thuyết. + Có năng lực lao động sáng tạo: Biết tổ hợp các yếu tố, các thao tác để thiết kế một dãy hoạt động, nhằm đạt đến kết quả mong muốn. - Có lòng say mê đặc biệt với môn Hoá học, có sức khoẻ tốt, có tính kiên trì bền bỉ để có thể học tập nghiên cứu trong một thời gian dài, có tính khiêm tốn và cầu tiến. Có ý thức tự học, tự hoàn thiện kiến thức ở mọi nơi, mọi lúc. - Có kiến thức văn hoá nền tảng vững chắc. Đó là kiến thức các bộ môn bổ trợ như toán học, vật lí, sinh học, ngoại ngữ, tin học và các kiến thức văn hoá nền như địa lí, lịch sử, văn hoá ứng xử… Nhiều tài liệu khẳng định: HSG có thể học bằng nhiều cách khác nhau và tốc độ nhanh hơn so với các bạn cùng lớp vì thế cần có một chương trình HSG để phát triển và đáp ứng được tài năng của họ. 1.2.4. Biện pháp phát hiện HS có năng lực trở thành HSG hoá học 1.2.4.1. Một số biện pháp phát hiện HS có năng lực trở thành HSG hoá học [47] - Làm rõ mức độ đầy đủ, chính xác của kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo theo tiêu chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình và sách giáo khoa. Muốn vậy phải kiểm tra HS ở nhiều phần của chương trình, về kiến thức lý thuyết, bài tập và thực hành. Có thể thay đổi một vài phần trong chương trình nhằm mục đích đo khả năng tiếp thu của mỗi HS trong lớp và giảng dạy lý thuyết là một quá trình trang bị cho HS vốn kiến thức tối thiểu trên cơ sở đó mới phát hiện được năng lực sẵn có của một vài HS thông qua các câu hỏi củng cố. - Làm rõ trình độ nhận thức và mức độ tư duy của từng HS bằng nhiều biện pháp và nhiều tình huống về lý thuyết và thực nghiệm để đo mức độ tư duy của từng HS. Đặc biệt đánh giá khả năng vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo.
  10. - Soạn thảo và lựa chọn một số dạng bài tập đáp ứng hai yêu cầu trên để phát hiện HS có năng lực trở thành HSG hoá học. 1.2.4.2. Một số biện pháp cơ bản trong quá trình bồi dưỡng HSG hoá học [27] - Hình thành cho HS một kiến thức cơ bản, vững vàng, sâu sắc. Đó là lý thuyết chủ đạo, là các định luật cơ bản, là các quy luật cơ bản của bộ môn. Hệ thống kiến thức phải phù hợp với logic khoa học, logic nhận thức đáp ứng sự đòi hỏi phát triển nhận thức một cách hợp lý. - Rèn luyện cho HS vận dụng lý thuyết chủ đạo, định luật, quy luật cơ bản của môn học một cách linh hoạt, sáng tạo trên cơ sở bản chất hoá học của sự vật, hiện tượng. - Rèn luyện cho HS dựa trên bản chất hoá học, kết hợp với kiến thức các môn học khác chọn hướng giải quyết vấn đề một cách logic và gọn gàng. - Rèn luyện cho HS biết phán đoán (quy nạp, diễn dịch…) một cách độc đáo, sáng tạo giúp cho HS hoàn thành bài làm nhanh hơn, ngắn gọn hơn. - Huấn luyện cho HS biết tự đọc và có kỹ năng đọc sách, tài liệu (Xem mục lục, chọn nội dung cần đọc, ghi nhớ những phần trọng tâm… và đọc đi đọc lại nhiều lần), với HSG đọc càng nhiều mới tăng lượng chất trong vốn kiến thức của mình. - Người giáo viên bộ môn phải thường xuyên sưu tầm tích luỹ tài liệu bộ môn, cập nhật hoá tài liệu hướng dẫn HS tự học, tự nghiên cứu và xem đó là biện pháp không thể thiếu được trong việc bồi dưỡng HSG. 1.2.5. Thực trạng về bồi dưỡng HSG hóa học hiện nay ở các trường THPT Để góp phần nâng cao chất lượng dạy - học môn Hóa học ở trường THPT cũng như tăng cường hiệu quả của việc bồi dưỡng HSG hóa học bằng tài liệu tự học nói chung và phần hidro cacbon nói riêng. Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của 85 thầy cô giáo dạy môn Hóa học ở các trường THPT tỉnh Cà Mau và các học viên lớp cao học LL & PPDH Hóa học- K19 Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh bằng phiếu thăm dò (xem phụ lục 1) về một số vấn đề và thu được kết quả như sau: 1.2.5.1. Vấn đề tự học của HSG Khi bồi dưỡng HSG, để đạt hiệu quả cao thì theo thầy cô, yếu tố tự học tự nghiên cứu thêm của học sinh là: (Chúng tôi đã đưa ra 5 câu trả lời về mức độ và thu được kết quả trong bảng tổng hợp dưới đây). Bảng 1.1: Kết quả điều tra giáo viên về vấn đề tự học của HSG Rất cần thiết Cần thiết Có hay không Không cần Hoàn toàn không cũng được thiết cần thiết Số lượng 80 5 0 0 0 % 94,1 5,9 0 0 0
  11. Điều này chứng tỏ đa số GV đánh giá rất cao yếu tố tự học của các em HSG. Theo tôi giáo viên dạy chỉ chiếm 20% quyết định đến thành công của HS, còn lại 80% là do tự các em quyết định kết quả, trong đó yếu tố TH tự rèn luyện là vô cùng quan trọng. 1.2.5.2. Tầm quan trọng của phần hidro cacbon Lý do các em học HSG Hóa học cần phải tự học hóa học nói chung (phần hidro cacbon nói riêng) ở nhà theo thầy cô là vì: (Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây). Bảng 1.2: Lý do HS cần phải học phần hidro cacbon ở nhà Ý kiến Lựa chọn Số lượng % Giúp HS hiểu bài trên lớp sâu sắc hơn 78 91,8 Giúp HS nhớ bài lâu hơn 70 82,4 Phát huy tính tích cực của HS 69 81,2 Kích thích hứng thú tìm tòi nâng cao mở rộng kiến thức 65 76,5 Tập thói quen tự học và tự nghiên cứu suốt đời 60 70,6 Rèn luyện thêm khả năng suy luận logic 50 58,9 Nội dung phần hidro cacbon thường đề cập trong các kì thi 30 35,3 Hệ thống bài tập phần hidro cacbon trong SGK còn ít và dễ 59 69,4 Lí do khác... 0 0 Kết quả thăm dò trên chứng tỏ GV đánh giá động cơ của việc tự học phần hidro cacbon của các em HSG hóa học là tự giác cao có tính bền vững đúng đắn và lâu dài. Điều này có nghĩa là HS đã ý thức rất tốt về nhiệm vụ học tập, đặc biệt là vấn đề tự học. 1.2.5.3. Về tài liệu tham khảo để dạy HSG Khi soạn tài liệu để dạy HSG nói chung và chuyên đề hidro cacbon nói riêng, thầy cô thường tham khảo tài liệu lấy từ những nguồn nào? Mức độ sử dụng thế nào? (Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời ứng với các mức độ và thu được kết quả trong bảng dưới đây). Bảng 1.3: Kết quả điều tra về nguồn tài liệu tham khảo Các mức độ Rất thường Thường Trung bìnhÍt Không Ý kiến xuyên xuyên Số % Số % Số % Số % Số % lượng lượng lượng lượng lượng Mạng internet 70 82.4 10 11.8 5 5.9 0 0 0 0 Tạp chí 30 35.3 35 41.2 10 11.8 5 5.9 5 5.9 Sách tham khảo 30 35.3 50 58.8 5 5.9 0 0 0 0 Biến đổi 25 29.4 40 47.1 15 17.6 5 5.9 0 0 Tự xây dựng 0 0 16 18.8 17 20 50 58.8 0 0
  12. Kết quả điều tra cho thấy đa số giáo viên dạy hóa học rất chú trọng đầu tư và cập nhật kiến thức để dạy HSG ở nhiều nguồn khác nhau. Trên cơ sở bài tập có sẵn thầy cô đã biến đổi nhiều cách hoặc đổi số liệu để thành bài tập riêng cho mình. Đây là việc làm cần thiết của các giáo viên, đặc biệt là giáo viên trực tiếp bồi dưỡng HSG. Việc tự xây dựng bài tập thường thấy ở giáo viên dạy lâu năm có kinh nghiệm. Đối với giáo viên ít kinh nghiệm thì rất khó khăn và chưa đủ độ tin cậy. 1.2.5.4. Về phương pháp bồi dưỡng HSG Phương pháp bồi dưỡng HSG hóa học của thầy cô hiện nay là: (Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời ứng với các mức độ và thu được kết quả trong bảng dưới đây). Bảng 1.4: Kết quả điều tra về PP bồi dưỡng HSG Các mức độ Ý kiến Rất thường Thường Trung bình Ít Không xuyên xuyên Số % Số % Số % Số % Số % lượng lượng lượng lượng lượng Giảng lý thuyết, 49 57.6 31 36.5 5 5.9 0 0 0 0 cho bài tập Giảng lý thuyết, 33 38.8 23 27.1 21 24.7 5 5.9 3 3.5 giới thiệu sách Giảng lý thuyết, giới thiệu sách, 31 36.5 30 35.3 22 25.9 2 2.4 0 0 giao nhiệm vụ Giảng lý thuyết, giới thiệu sách có 25 29.4 28 32.9 20 23.5 10 11.8 2 2.6 hướng dẫn và kiểm tra lại Để HS tự đọc 6 7.1 7 8.2 8 9.4 22 25.9 42 49 sách theo ý muốn Kết quả thực sự phản ánh phương pháp truyền thống trong bồi dưỡng HSG đã tồn tại lâu nay. Các cách trên đều có thể đạt được hiệu quả nhất định với HS có tố chất tốt. Nếu kết hợp tất cả các cách trên lại thì kết quả cũng khá tốt. Tuy nhiên theo chúng tôi, nếu giáo viên soạn sẵn thêm tài liệu có yêu cầu rõ ràng, ngắn gọn, súc tích để HSG chuẩn bị trước ở nhà thì hiệu quả sẽ tăng lên đáng kể. Nếu làm được vậy thì ở trên lớp hoạt động của HS sẽ đóng vai trò chủ đạo còn giáo viên sẽ đỡ phải thuyết trình tất cả nội dung tài liệu mới. Đây chính là ý tưởng của đề tài. 1.2.5.5. Về những khó khăn khi bồi dưỡng HSG Những khó khăn khi bồi dưỡng HSG hóa học nói chung (phần hidro cacbon nói riêng) của giáo viên các trường THPT thường gặp hiện nay là:
  13. (Chúng tôi đã đưa ra hệ thống các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng tổng hợp dưới đây). Bảng 1.5: Những khó khăn khi bồi dưỡng HSG Đồng ý Không đồng ý Ý kiến Số % Số % lượng lượng Tài liệu tham khảo còn ít 29 34.1 56 65.9 Thời gian của chương trình còn hạn chế 67 78.8 18 21.2 Chính sách cho HSG chưa hấp dẫn 78 91.8 7 8.2 GV gặp khó khăn khi soạn giáo án dạy HSG 28 32.9 57 67.1 Thấy khó có giải khi thi HSG nên ngại tìm tòi 14 16.5 71 83.5 Kiến thức thi HSG là quá rộng và khó 59 69.4 26 30.6 Kinh phí dành cho bồi dưỡng HSG thấp 42 49.4 43 50.6 GV chưa sử dụng thành thạo các loại bài tập khó 9 10.6 76 89.4 HS không hào hứng với loại bài tập đó 13 15.3 72 84.7 Trang thiết bị cơ sở vật chất còn thiếu 7 8.2 78 91.8 Từ kết quả trên ta nhận thấy trong quá trình bồi dưỡng HSG hiện nay GV gặp khá nhiều khó khăn xuất phát từ lý do khách quan như: chính sách dành cho HSG chưa hấp dẫn, kinh phí dành cho bồi dưỡng và phần thưởng cho HSG không hấp dẫn, thời gian dành cho bồi dưỡng chưa thõa đáng. Điều đó dẫn tới HSG bây giờ không thiết tha vào đội tuyển, hoặc có vào thì học cầm chừng nên dẫn đến kết quả giảm sút hoặc số điểm đạt được thấp. Mặt khác yêu cầu của đề ngày càng khó, dài nên cả HS và GV cảm nhận thấy rất khó có giải khi thi. Một khó khăn nữa là việc lựa chọn và biên soạn tài liệu cho HSG gặp nhiều khó khăn hoặc là chưa thấy cách nào tốt nhất. Theo chúng tôi chúng ta nên soạn tài liệu tự học thật tốt và chất lượng cao thì sẽ kích thích sự tự học, sự tìm tòi sáng tạo của HS. Từ đó sẽ nâng cao chất lượng dạy và học. 1.3. TỰ HỌC 1.3.1. Xu hướng đổi mới PPDH trong giai đoạn hiện nay Chiến lược phát triển giáo dục đã chỉ rõ: Một trong những giải pháp thực hiện mục tiêu giáo dục là đổi mới PP giáo dục "Đổi mới và hiện đại hóa PP giáo dục, chuyển việc truyền đạt tri thức thụ động: Thầy giảng, trò ghi sang hướng người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học PP tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân tích tổng hợp phát triển được năng lực của mỗi cá nhân, tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của HS …". Như chúng ta biết: "Tự học, tự đào tạo là một con đường phát triển suốt đời của mỗi con người trong điều kiện kinh tế, xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau"; đó cũng là giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo
  14. dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học. Vì vậy một cuộc vận động tích cực, có kế hoạch và PP, kiên trì và khẩn trương, thường xuyên và rộng khắp nhằm từng bước chuyển đổi từ lối "dạy học thụ động, truyền thụ một chiều, thầy dạy trò ghi nhớ" phổ biến hiện nay thành "Thầy dạy - trò tự học" tạo ra năng lực tự học cho HS cùng phong trào toàn dân tự học, tự đào tạo, mang lại chất lượng đích thực và phát triển tài năng của mỗi người. Để thực hiện các yêu cầu trên không còn con đường nào khác là ngoài việc truyền đạt kiến thức người thầy phải khơi dậy và phát triển tối đa năng lực tự học, tự sáng tạo của HS. 1.3.2. Khái niệm tự học Tự học là hoạt động học không có sự hiện diện của GV, HS không có sự tiếp xúc trực tiếp với GV, là hình thức học tập hoàn toàn không có sự tương tác trực tiếp thầy trò, do đó HS phải tự lực thông qua tài liệu, qua hoạt động thực tế, qua thí nghiệm để chiếm lĩnh kiến thức. 1.3.3. Các hình thức tự học [30] 1.3.3.1. Tự học không có sự hướng dẫn trực tiếp của GV a. Tự học hoàn toàn (không có GV): thông qua tài liệu, qua tìm hiểu thực tế, học kinh nghiệm của người khác. HS gặp nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng kiến thức, HS khó thu xếp tiến độ, kế hoạch tự học, không tự đánh giá được kết quả tự học của mình... Từ đó HS dễ chán nản và không tiếp tục tự học. b. Tự học trong một giai đoạn của quá trình học tập: thí dụ như học bài hay làm bài tập ở nhà (khâu vận dụng kiến thức) là công việc thường xuyên của HS phổ thông. Để giúp HS có thể tự học ở nhà, GV cần tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả học bài, làm bài tập ở nhà của họ. c. Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa): HS được nghe GV giảng giải minh họa, nhưng không được tiếp xúc với GV, không được hỏi han, không nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó khăn. Với hình thức tự học này, HS cũng không đánh giá được kết quả học tập của mình. d. Tự học qua tài liệu hướng dẫn: Trong tài liệu trình bày cả nội dung, cách xây dựng kiến thức, cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần, nếu chưa đạt thì chỉ dẫn cách tra cứu, bổ sung, làm lại cho đến khi đạt được (thí dụ học theo các phần mềm trên máy tính). Song nếu chỉ dùng tài liệu tự học HS cũng có thể gặp khó khăn và không biết hỏi ai. e. Tự lực thực hiện một số hoạt động học dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của GV ở lớp: Với hình thức này cũng đem lại kết quả nhất định. Song nếu HS vẫn sử dụng SGK hóa học như hiện nay thì họ cũng gặp khó khăn khi tiến hành tự học vì thiếu sự hướng dẫn về phương pháp học. Qua việc nghiên cứu các hình thức tự học ở trên chúng ta thấy rằng mỗi hình thức tự học có những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định. Để nhằm khắc phục được những nhược điểm của các
  15. hình thức tự học đã có này và xét đặc điểm của HSG hoá học chúng tôi đề xuất một hình thức tự học mới: tự học theo tài liệu hướng dẫn và có sự giúp đỡ trực tiếp một phần của GV gọi tắt là "tự học có hướng dẫn". 1.3.3.2. Tự học có hướng dẫn Tự học là một hình thức học. Vậy hoạt động tự học cũng phải có mục đích, nội dung và phương pháp phù hợp. Hình thức tự học có hướng dẫn vừa phải đảm bảo thực hiện đúng quan điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS. Cần hiểu mối quan hệ giữa dạy và tự học là quan hệ giữa tác động bên ngoài và hoạt động bên trong. Tác động dạy của GV là bên ngoài hỗ trợ cho HS tự phát triển, chỉ có tự học của HS mới là nhân tố quyết định sự phát triển của bản thân HS. Hình thức tự học có hướng dẫn là hướng dẫn để HS tự học. Trong tự học có hướng dẫn, HS nhận được sự hướng dẫn từ hai nguồn: từ tài liệu hướng dẫn và trực tiếp từ GV. * Nguồn hướng dẫn qua tài liệu: Tài liệu SGK Hóa học thường chỉ trình bày kiến thức mà không có những chỉ dẫn về phương pháp hoạt động để dẫn đến kiến thức, để hình thành kĩ năng. Bởi vậy HS rất bị động, đọc đến dòng nào trong SGK thì biết đến dòng ấy không hiểu phương hướng bước đi kế hoạch như thế nào và sau khi học xong cũng không thể tự rút ra được điều gì về phương pháp làm việc để vận dụng cho các bài sau. Để khắc phục tình trạng đó tài liệu hướng dẫn tự học ngoài việc trình bày nội dung kiến thức, còn hướng dẫn cả cách thức hoạt động để phát hiện vấn đề, thu thập thông tin, xử lí thông tin, rút ra kết luận, kiểm tra và đánh giá kết quả... * Nguồn hướng dẫn trực tiếp của GV qua các giờ lên lớp: Hiện nay theo quy đinh của Bộ Giáo dục đào tạo, môn Hoá học trong các trường THPT có thời gian từ 2,5- 3 tiết/ tuần, thời gian đó nếu để giảng giải kiến thức thì quá ít và sẽ phiến diện nếu để HS hoàn toàn tự học thì cũng không được. Chúng tôi cho rằng có thể tận dụng thời gian tiếp xúc giữa GV và HS để GV tổ chức, hướng dẫn và rèn luyện cho HS những kĩ năng tự học cụ thể. Rất nhiều HS từ trước đến nay vẫn học tập một cách thụ động, ghi chép học thuộc, áp dụng máy móc, chỉ dựa vào lời giảng của GV, hầu như không có thói quen tự học, thậm chí đọc xong một đoạn trong SGK, không thể tự tóm tắt được nội dung chính, đặc biệt là không thể rút ra phương pháp chung để thực hiện một loại hoạt động nào đó, thí dụ: nghiên cứu một định luật hóa học phải làm những gì? Rèn luyện kĩ năng tự học cho HS là một quá trình lâu dài phức tạp và luôn luôn được củng cố, nâng cao và bổ sung thêm, bởi vậy tốt nhất là nên dành thời gian tiếp xúc giữa GV và HS ở trên lớp để thực hiện công việc đó. Hoạt động tự học của HS có nhiều khâu, nhiều bước, được tiến hành thông qua các hoạt động học tập của chính bản thân họ. Đây là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học
  16. bằng hành động của chính mình hướng tới những mục đích nhất định. Vì vậy, quá trình tổ chức dạy học phải làm cho hoạt động học của HS chuyển từ trạng thái bị động sang chủ động. HS biết tự sắp xếp, bố trí các công việc sẽ tiến hành trong thời gian tự học, biết huy động các điều kiện, phương tiện cần thiết để hoàn thành từng công việc, biết tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả hoạt động tự học của chính mình. Như vậy khái niệm tự học ở đây được hiểu là hoạt động tự lực của HS để chiếm lĩnh tri thức khoa học đã được qui định thành kiến thức học tập trong chương trình và SGK với sự hướng dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp của GV thông qua các phương tiện học tập như tài liệu tự học có hướng dẫn, tài liệu tra cứu, giáo án điện tử,... HS không dùng SGK phổ thông mà sử dụng tài liệu viết riêng cho họ tự học. Tài liệu tự học có hướng dẫn cung cấp cho HS nội dung kiến thức và phương pháp học nội dung kiến thức đó. 1.3.4. Năng lực tự học 1.3.4.1. Khái niệm năng lực tự học Năng lực tự học là năng lực hết sức quan trọng vì tự học là chìa khoá tiến vào thế kỉ XXI, một thế kỉ với quan niệm học suốt đời, xã hội học tập. Có năng lực tự học mới có thể học suốt đời được. Vì vậy, quan trọng nhất đối với HS là học cách học. Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương tự với chất lượng cao. Để bồi dưỡng cho HS năng lực tự học, tự nghiên cứu, cần phải xác định được các năng lực và trong quá trình dạy học, GV cần hướng dẫn và tạo các cơ hội, điều kiện thuận lợi cho HS hoạt động nhằm phát triển các năng lực đó. 1.3.4.2. Các năng lực tự học cần bồi dưỡng và phát triển cho HS [30] - Năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề Trong dạy học truyền thống, theo kiểu “bình quân - đồng loạt”, HS được “ru êm” bằng những bài thuyết trình của giáo viên suốt từ học kì này sang học kì khác của năm học. HS ít khi được phát hiện vấn đề mới, mà thường lặp lại hoặc phát hiện lại vấn đề đã được GV đưa ra. Kiểu học như vậy kéo dài góp phần làm thui chột khả năng tự tìm kiếm, tự phát hiện của HS, trái với quan niệm về việc học “là sự biến đổi bản thân mình trở nên có thêm giá trị, bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lĩnh những giá trị mới lấy từ bên ngoài” là “một hành trình nội tại, được cắm mốc bởi kiến thức, phương pháp tư duy và sự thực hiện tự phê bình, để tự hiểu bản thân mình” (Jacques Delors-Learing: The Treasure Within, UNESCO, Pari 1996).
  17. Năng lực nhận biết, tìm tòi, phát hiện vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi người, đặc biệt HSG. Nhờ năng lực này HS vừa tự làm giàu kiến thức của mình, vừa rèn luyện tư duy và thói quen phát hiện, tìm tòi,… Năng lực này đòi hỏi HS phải nhận biết, hiểu, phân tích, tổng hợp, so sánh sự vật hiện tượng được tiếp xúc; suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ sở những lí luận và hiểu biết đã có của mình; phát hiện ra các khó khăn, mâu thuẫn xung đột, các điểm chưa hoàn chỉnh cần giải quyết, bổ sung, các bế tắc, nghịch lí cần phải khai thông, khám phá, làm sáng tỏ,… Để phát hiện đúng vấn đề, đòi hỏi người học phải thâm nhập, hiểu biết khá sâu sắc đối tượng, đồng thời biết liên tưởng, vận dụng những hiểu biết và tri thức khoa học của mình đã có tương ứng. Trên cơ sở đó, dường như xuất hiện “linh cảm”, và từ đó mạch suy luận được hình thành. Phải sau nhiều lần suy xét thêm trong óc, vấn đề phát hiện được nói lên thành lời, hiện lên rõ ràng, thúc bách việc tìm kiếm con đường và hướng đi để giải quyết. - Năng lực giải quyết vấn đề Trong cuộc sống của mỗi người bao gồm một chuỗi các vấn đề khác nhau được giải quyết. Nhờ vào việc đối mặt và giải quyết các vấn đề, mỗi người ngày càng trưởng thành và thích nghi hơn với cuộc sống, xây dựng cho mình cuộc sống có chất lượng ngày càng phát triển. Năng lực giải quyết vấn đề bao gồm khả năng trình bày giả thuyết; xác định cách thức giải quyết và lập kế hoạch giải quyết vấn đề; khảo sát các khía cạnh, thu thập và xử lí thông tin; đề xuất các giải pháp, kiến nghị các kết luận. Kinh nghiệm thực tế cho thấy nhiều HS thu thập được một khối lượng thông tin phong phú nhưng không biết hệ thống và xử lí như thế nào để tìm ra con đường đến với giả thuyết. Điều này đòi hỏi sự hướng dẫn cẩn thận và kiên trì của các GV ngay từ những hoạt động đầu của giải quyết vấn đề. Nếu nói rằng trong dạy học đối với HSG, quan trọng nhất là dạy cho HS cách học, thì trong đó cần coi trọng dạy cho HS kĩ thuật giải quyết vấn đề. Với kĩ thuật này, HS có thể áp dụng vào rất nhiều trường hợp trong học tập cũng như trong cuộc sống để lĩnh hội các tri thức cần thiết cho mình. Nên xem kĩ thuật giải quyết vấn đề vừa là công cụ nhận thức, nhưng đồng thời là mục tiêu của việc dạy học cho HS phương pháp tự học. - Năng lực xác định những kết luận đúng (kiến thức, cách thức, con đường, giải pháp, biện pháp…) từ quá trình giải quyết vấn đề Đây là một năng lực quan trọng cần cho người học đạt đến những kết luận đúng của quá trình giải quyết vấn đề, hay nói cách khác, các tri thức cần lĩnh hội sau khi giải quyết vấn đề sẽ có được một khi chính bản thân HS có năng lực này.
  18. Năng lực này bao gồm các khả năng khẳng định hay bác bỏ giả thuyết, hình thành kết quả và đề xuất vấn đề mới, hoặc áp dụng (nếu cần thiết). Trên thực tế có rất nhiều trường hợp được đề cập đến trong lúc giải quyết vấn đề, nên HS có thể đi chệch ra khỏi vấn đề chính đang giải quyết hoặc lạc với mục tiêu đề ra ban đầu. Vì vậy hướng dẫn cho HS kĩ thuật xác định kết luận đúng không kém phần quan trọng so với các kĩ thuật phát hiện và giải quyết vấn đề. Các quyết định phải được dựa trên logic của quá trình giải quyết vấn đề và nhắm đúng mục tiêu. - Năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn (hoặc vào nhận thức kiến thức mới) Kết quả cuối cùng của việc học tập phải được thể hiện ở chính ngay trong thực tiễn cuộc sống, hoặc là HS vận dụng kiến thức đã học để nhận thức, cải tạo thực tiễn, hoặc trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có, nghiên cứu, khám phá, thu nhận thêm kiến thức mới. Cả hai đều đòi hỏi người học phải có năng lực vận dụng kiến thức. Việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đặc biệt trong các trường hợp mới, lại làm xuất hiện các vấn đề đòi hỏi phải giải quyết. Như vậy kĩ năng giải quyết vấn đề lại có cơ hội để rèn luyện và kết quả của việc giải quyết vấn đề giúp cho người học thâm nhập sâu hơn vào thực tiễn. Từ đó hứng thú học tập, niềm say mê và khao khát được tìm tòi, khám phá, áp dụng kiến thức và kinh nghiệm tăng lên, các động cơ học tập đúng đắn càng được bồi dưỡng vững chắc. Giải quyết các vấn đề thực tiễn mới làm nảy sinh nhu cầu nghiên cứu tài liệu, trao đổi, hợp tác với bạn bè, đồng nghiệp. Các kĩ năng về giao tiếp, cộng tác, huy động nguồn lực được rèn luyện. Kết quả của hoạt động thực tiễn vừa làm giàu thêm tri thức, vừa soi sáng, giải thích, làm rõ thêm các kiến thức được học từ SGK, tài liệu. HS thấy tự tin, chủ động hơn, đồng thời họ lại phải có thái độ dám chịu trách nhiệm về các quyết định mình đã lựa chọn và có kĩ năng lập luận, bảo vệ các quyết định của mình. - Năng lực đánh giá và tự đánh giá Dạy học đề cao vai trò tự chủ của HS (hay tập trung vào người học), đòi hỏi phải tạo điều kiện, cơ hội và khuyến khích (thậm chí bắt buộc) HS đánh giá và tự đánh giá mình. Chỉ có như vậy, họ mới dám suy nghĩ, dám chịu trách nhiệm và luôn luôn tìm tòi sáng tạo, tìm ra cái mới, cái hợp lí, cái có hiệu quả hơn. Mặt khác, kết quả tất yếu của việc rèn luyện các kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kết luận và áp dụng kết quả của qui trình giải quyết vấn đề đòi hỏi HS phải luôn đánh giá và tự đánh giá. HS phải biết được mặt mạnh, hạn chế của mình, cái đúng sai trong việc mình làm mới có thể tiếp tục vững bước tiếp trên con đường học tập chủ động của mình. Không có khả năng đánh giá, HS khó có thể tự tin trong phát hiện, giải quyết vấn đề và áp dụng kiến thức đã học.
  19. Năm năng lực trên vừa đan xen nhưng vừa tiếp nối nhau, tạo nên năng lực tự học ở HS. Các năng lực trên cũng chính là năng lực của người nghiên cứu khoa học. Vì vậy, rèn luyện được các năng lực đó, chính là HS đặt mình vào vị trí của người nghiên cứu khoa học, hay nói cách khác, đó là sự rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu. Cũng chính việc học như vậy, đòi hỏi việc dạy học không phải là truyền thụ kiến thức làm sẵn cho HS mà người GV phải đặt mình vào vị trí người hướng dẫn HS nghiên cứu. 1.3.5. Hệ thống kĩ năng tự học Tuỳ theo môn học mà HS có những kĩ năng phù hợp. Một cách chung nhất, đối với HS cần phải được rèn luyện các kĩ năng tự học cơ bản sau:[30] - Biết đọc, nghiên cứu giáo trình và tài liệu học tập, chọn ra những tri thức cơ bản, chủ yếu, sắp xếp, hệ thống hoá theo trình tự hợp lí, khoa học. - Biết và phát huy được những thuận lợi, hạn chế những mặt non yếu của bản thân trong quá trình học ở lớp, ở nhà, ở thư viện, ở phòng thí nghiệm, ở cơ sở thực tế. - Biết vận dụng các lợi thế và khắc phục các khó khăn, thích nghi với điều kiện học tập (cơ sở vật chất, phương tiện học tập, thời gian học tập...). - Biết sử dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp học tập cho phép đạt hiệu quả học tập cao. - Biết xây dựng kế hoạch học tập trong tuần, tháng, học kì, cả năm, cả khoá học. - Biết và sử dụng có hiệu quả các kỉ thuật đọc sách, nghe giảng, trao đổi, thảo luận, tranh luận, xây dựng đề cương, viết báo cáo, thu thập và xử lí thông tin. - Biết sử dụng các phương tiện học tập, đặc biệt là công nghệ thông tin. - Biết lắng nghe và thông tin trí thức, giải thích tài liệu cho người khác. - Biết phân tích, đánh giá và sử dụng các thông tin. - Biết kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập của bản thân và bạn học. - Biết vận dụng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng. 1.3.6. Điều tra về khả năng tự học của HS các trường thực nghiệm Chúng tôi đã tổng hợp điều tra 284 HS học ở 8 lớp 11 tại 4 trường THPT thuộc 4 tỉnh khác nhau về tình hình tự học và thu được kết quả cụ thể như sau (xem phụ lục 1): 1.3.6.1. Vai trò và lý do của việc tự học +Vai trò của việc tự học đối với các kì thi: Khi tham gia một kì thi, đặc biệt là thi HSG để đạt hiệu quả cao thì theo các em, yếu tố tự học tự nghiên cứu của mình là:
  20. Bảng 1.6: Kết quả điều tra về về vai trò của tự học đối với các kỳ thi Rất cần thiết Cần thiết Có hay không Không cần Hoàn toàn không cũng được thiết cần thiết Số lượng 261 23 0 0 0 % 91.9 8.1 0 0 0 Kết quả trên chứng tỏ tất cả các em đã ý thức tốt được vai trò của tự học. + Về lí do các em cần phải tự học ở nhà: Lý do các em HSG cần phải tự học ở theo các em là vì: (chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây) Bảng 1.7: Lý do HS cần phải học phần hidro cacbon ở nhà Ý kiến Lựa chọn Số lượng % Giúp HS hiểu bài trên lớp sâu sắc hơn 225 79.2 Giúp HS nhớ bài lâu hơn 209 73.6 Phát huy tính tích cực của HS 189 66.5 Kích thích hứng thú tìm tòi nâng cao mở rộng kiến thức 202 71.1 Tập thói quen tự học và tự nghiên cứu suốt đời 191 67.3 Rèn luyện thêm khả năng suy luận logic 185 65.1 Nội dung phần hidro cacbon thường đề cập trong các kì thi 169 59.5 Lí do khác... 0 0 Kết quả trên chứng tỏ đa phần các em đã biết rõ tác dụng của việc tự học. 1.3.6.2. Về vấn đề học tập của HS ở các lớp 11 chuyên, chọn hóa học (Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây). Bảng 1.8: Kết quả điều tra về việc tự học ở nhà của HSG hóa học Ý kiến Lựa chọn Số lượng % Chỉ cần học trên lớp là đủ 29 10.2 Tự mình nghiên cứu là chính 19 6.7 Dành nhiều thời gian tự học có sự hướng dẫn của thầy cô 236 83.1 Số liệu cho thấy ở các trường THPT, các em HS phải nắm bắt một lượng kiến thức lớn để có thể tham gia tốt các kì thi, vì vậy chỉ học trên lớp là chưa đủ, hàng ngày các em phải dành nhiều thời gian cho việc tự học. Tuy nhiên việc tự học của các em cần có sự định hướng, chỉ dẫn nội dung tự học của GV. 1.3.6.3. Về sử dụng thời gian tự học (Chúng tôi đã đưa ra các câu trả lời và thu được kết quả trong bảng dưới đây). Bảng 1.9: Việc sử dụng thời gian tự học ở nhà của HSG hóa học Ý kiến Lựa chọn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2