intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:161

139
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn tham khảo luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông sau đây để nắm bắt được những nội dung về thời đại Lý – Trần và Phật hoàng Trần Nhân Tông; đặc điểm nội dung và nghệ thuật thơ Trần Nhân Tông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Giang ĐẶC ĐIỂM THƠ TRẦN NHÂN TÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Giang ĐẶC ĐIỂM THƠ TRẦN NHÂN TÔNG Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kì một công trình nào khác. Họ và tên tác giả Nguyễn Thị Giang
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đoàn Thị Thu Vân – Người đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô trong khoa Ngữ văn, phòng Sau Đại học và thư viện trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian qua. Xin chân thành cảm ơn! Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 9 năm 2014 Tác giả Nguyễn Thị Giang
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1. THỜI ĐẠI LÝ – TRẦN VÀ PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG ................................................................................ 12 1.1. Thời đại Lý - Trần .................................................................................... 12 1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa – xã hội thời Lý – Trần ......................... 12 1.1.2. Văn học thời Lý – Trần ..................................................................... 18 1.2. Phật hoàng Trần Nhân Tông và thiền phái Trúc Lâm ............................. 22 1.2.1. Trần Nhân Tông – thân thế và sự nghiệp .......................................... 22 1.2.2. Thơ văn Trần Nhân Tông .................................................................. 27 1.2.3. Thiền phái Trúc Lâm và tư tưởng của Trần Nhân Tông................... 29 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ TRẦN NHÂN TÔNG ............. 37 2.1. Tình yêu và niềm tự hào về quê hương đất nước..................................... 37 2.1.1. Tình yêu mến, gắn bó sâu sắc với đất nước và con người Đại Việt ........................................................................................... 37 2.1.2. Niềm tự hào về đất nước, con người và văn hóa Đại Việt............... 40 2.2. Tâm hồn phong phú, mẫn cảm và dạt dào chất nhân văn ........................ 45 2.2.1. Mẫn cảm trước thiên nhiên ............................................................... 45 2.2.2. Mẫn cảm trong tình người................................................................. 54 2.3. Quan niệm sống phóng khoáng, tùy duyên của một người đạt đạo......... 60 2.3.1. Tinh thần nhập thế............................................................................. 60 2.3.2. Tinh thần an nhiên, tự tại .................................................................. 65 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ TRẦN NHÂN TÔNG ........ 72 3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 72
  6. 3.1.1. Đường luật......................................................................................... 72 3.1.2. Cổ phong ........................................................................................... 75 3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 78 3.2.1. Ngôn ngữ mang mĩ cảm thiền ........................................................... 78 3.2.2. Ngôn ngữ tượng trưng, ẩn dụ ............................................................ 81 3.3. Hình ảnh ................................................................................................... 88 3.3.1. Cách lựa chọn hình ảnh ..................................................................... 88 3.3.1.1. Hình ảnh mùa xuân .................................................................... 88 3.3.1.2. Hình ảnh trăng............................................................................ 91 3.3.1.3. Hình ảnh giấc mộng ................................................................... 94 3.3.2. Cách xây dựng hình ảnh.................................................................... 98 3.3.2.1. Cảnh vật được quan sát trong sự vận động theo thời gian và dòng cảm xúc ............................................................................ 98 3.3.2.2. Cảnh vật được quan sát trong sự vận động biện chứng giữa động và tĩnh, hư và thực ......................................................... 101 3.4. Giọng điệu .............................................................................................. 108 3.4.1. Giọng hào sảng, lạc quan ................................................................ 108 3.4.2. Giọng tự tình, sâu lắng .................................................................... 109 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 117 PHỤ LỤC THƠ
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Văn học trung đại Việt Nam đã vận động và phát triển trong một quá trình lâu dài và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong đó, văn học Lý – Trần là một trong những đỉnh cao và mang nhiều nét riêng độc đáo. Với sự thâm nhập của Phật giáo vào đời sống tinh thần của dân tộc, phong vị thiền trong thơ đã góp phần làm cho văn học thời đại này phát triển rực rỡ và đi sâu vào tâm thức người Việt, đem đến những rung cảm tinh tế và mang lại những giá trị nhân văn sâu sắc. Trong dòng chảy của thơ văn Lý – Trần, tiêu biểu và đặc sắc là thơ thời thịnh Trần. Trong lịch sử dân tộc Việt, thời thịnh Trần là thời đại hoàng kim của cả dân tộc. Đó là thời đại có vua sáng tôi hiền, nhân dân đoàn kết trên dưới một lòng; vua quan cùng thần dân gắn bó, hành động vì lợi ích của quốc gia, xây dựng nên một nước Đại Việt vững mạnh, độc lập, tự chủ. Đó là thời đại cả dân tộc ta “tướng sĩ một lòng phụ tử”, hừng hực hào khí “sát Thát” làm nên ba lần chiến thắng Nguyên – Mông vang dội. Có thời đại ấy là nhờ có những con người anh hùng có nhân cách cao đẹp, có tấm lòng từ bi, có tài năng xuất chúng như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Huyền Quang,… Trong đó, Trần Nhân Tông nổi lên như một nhân vật kiệt xuất. Không chỉ rạng danh trên lĩnh vực chính trị, Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ độc đáo, độc đáo vì ông được “đốn tỉnh” ngay trong lúc làm vua. Vừa là một vị vua, vừa là một nhà sư, vừa là người đứng đầu của một Thiền phái, nên trong thơ của Trần Nhân Tông có sự pha trộn giữa chất thiền với chất thế sự, giữa đạo và đời. Thơ Trần Nhân Tông còn lại không nhiều, nhưng những “viên ngọc” hiếm hoi, quí giá ấy theo thời gian vẫn tỏa lên những ánh sáng lung linh khác thường. Với tư tưởng thiền nhập thế tích cực, Trần Nhân Tông đã sáng tác nên những bài thơ với một cảm quan nghệ thuật tinh tế khiến người
  8. 2 đọc phải lắng lòng suy ngẫm. Đặc biệt, ông còn là người rất yêu thiên nhiên. Trong thơ ông, lúc nào cũng thấy tràn ngập ánh trăng, bồng bềnh mây nước và say đắm với giấc mơ xuân. Mặc dù thơ Trần Nhân Tông dễ đi vào lòng độc giả và làm rung động trái tim những người yêu thơ nhưng cũng còn khá xa lạ với sách giáo khoa. Hơn nữa hầu hết các bài thơ đều viết bằng chữ Hán và bàng bạc chất Thiền nên gây không ít khó khăn khi tiếp nhận đối với phần đông độc giả. Mặt khác, những công trình nghiên cứu về thơ Trần Nhân Tông còn mang tính chất riêng lẻ, chỉ tập trung ở một vài khía cạnh, phương diện, chưa thực sự có một công trình nào đi nghiên cứu khái quát, toàn diện về Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này – Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông – nhằm góp phần đưa thơ ông đến gần với số đông người đọc, đồng thời bản thân người viết có thể tìm hiểu sâu về tài năng nghệ thuật và tâm hồn phong phú của nhà thơ, nhà triết học, vị tổ phái Thiền Trúc Lâm – một con người kiệt xuất của một thời đại hoàng kim. 2. Lịch sử vấn đề Trần Nhân Tông không chỉ là một vị vua anh minh, một Thiền sư đắc đạo, một nhà triết học lớn mà ông còn là một nhà thơ. Xét trên bình diện triết học, Trần Nhân Tông có một vị trí quan trọng đối với Phật giáo nước nhà. Ông là một triết gia lớn của Phật học Việt Nam. Với phái Thiền Trúc Lâm mà Trần Nhân Tông là người sáng lập, triết học Phật giáo Việt Nam thời Trần đã phát triển rực rỡ và mang đậm bản sắc dân tộc, thể hiện được đầy đủ trí tuệ Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam. Xét trên bình diện dân tộc, Trần Nhân Tông là một vị vua hiền minh, anh hùng, có lòng yêu nước thương dân, có tinh thần dân tộc cao cả. Với việc khuyến khích sử dụng chữ Nôm và đưa chữ Nôm vào sáng tác văn học, chúng ta càng cảm nhận được tinh thần dân tộc của bậc minh quân này. Bên cạnh đó, Trần Nhân Tông còn là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân tộc. Thơ ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan
  9. 3 thế sự. Với tầm quan trọng như vậy nên có nhiều công trình nghiên cứu đi vào tìm hiểu tư tưởng, thơ văn của ông. Những công trình nghiên cứu này có thể chia làm hai hướng như sau: 2.1. Trần Nhân Tông là một bộ phận của đối tượng nghiên cứu Nguyễn Lang trong quyển “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn Học Hà Nội, 1979) đi vào nghiên cứu các thiền phái: Tì ni đa lưu chi, Thảo Đường, Vô Ngôn Thông; nghiên cứu phật giáo thời Lý, Trần và một số Thiền sư: Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang,… Trong đó chương XII đi vào nghiên cứu Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm. Công trình đã nghiên cứu về Trần Nhân Tông qua các vấn đề: một ông vua xuất gia, ý nguyện xây dựng một nền hòa bình Chiêm – Việt lâu dài, xây dựng một giáo hội mới, và tư tưởng Thiền học. Công trình Lịch sử Phật giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên được nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội ấn hành vào năm 1991, đã nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của Phật giáo Việt Nam từ khi được du nhập từ Ấn Độ sang cho đến thế kỉ XIX. Trong Chương IX, tác giả đi vào nghiên cứu Phật giáo thời Trần, mà cụ thể là tìm hiểu Thiền phái Trúc Lâm và có đề cập ngắn gọn đến Trần Nhân Tông. Tác giả đã đi vào phân tích một số bài thơ để chứng minh tư tưởng của Trần Nhân Tông, và từ đó có sự so sánh với Tuệ Trung Thượng sĩ. Qua đó, tác giả nhận định: “Nhân Tông cũng thường dùng các hình ảnh, biểu hiện một tâm hồn thơ gần với Tuệ Trung, nhưng về nội dung thì không độc đáo, gây tác động mạnh như ở Tuệ Trung”. Trong công trình Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm của Trương Văn Chung (Luận án phó Tiến sĩ, bảo vệ năm 1996), tác giả cũng phân tích, tổng kết tư tưởng của thiền phái thông qua việc đi sâu phân tích tư tưởng của những nhân vật tiêu biểu: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung,.. Đặc biệt, tác giả đi sâu vào phân tích tư tưởng của người sáng lập ra Thiền phái là Trần Nhân Tông. Qua việc so sánh tư tưởng của Trần Nhân Tông với Trần
  10. 4 Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ, tác giả làm nổi bật những điểm khác biệt, điểm riêng của Trần Nhân Tông trong tư tưởng triết học và đi đến khẳng định: Ông đã kết hợp trong đời mình một người anh hùng võ công hiển hách với một đức phật từ bi, cốt cách thanh tao. Ông trở thành một ông vua triết gia, một phật tử có nhãn quan chính trị, ảnh hưởng lớn lao đến triều đình và toàn xã hội”, “Trần Nhân Tông chịu ảnh hưởng triết lí nhà Phật, song đó không phải là tư tưởng, chủ trương xuất thế đi tìm sự giải thoát ở cõi hư không, mà là tư tưởng Phật giáo có khả năng dung hợp cả Nho giáo, Lão giáo và truyền thống tinh thần của dân tộc. sự dung hợp đó tạo cho Phật giáo một dáng vẻ mới mang màu sắc Việt Nam với tinh thần nhập thế tích cực [9, tr.63]. Nguyễn Hùng Hậu trong quyển Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, từ khởi nguyên đến thế kỉ XIV (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002) cũng đi vào phân tích, tổng kết tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm qua việc phân tích tư tưởng qua các bài thơ của một số nhân vật tiêu biểu của Thiền phái như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Qua việc tìm hiểu, phân tích vai trò, tư tưởng của Trần Nhân Tông, tác giả khẳng định: Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị nhìn xa trông rộng mà còn là nhà quân sự có tài; không chỉ là nhà ngoại giao, mà còn là nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ; không chỉ là vị quân vương mà còn là nhà tu hành; không chỉ là nhà văn hóa mà còn là vị thiền sư lỗi lạc. Thời đại oanh liệt đã sản sinh ra ông, và ông đã làm cho thời Trần càng thêm oanh liệt [17, tr.130]. Trong những công trình kể trên, các tác giả chủ yếu đi vào nghiên cứu tư tưởng triết học, tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông. Ngoài những công trình này, cũng có rất nhiều công trình khác đi vào nghiên cứu Trần Nhân Tông như một tác giả văn học.
  11. 5 Nguyễn Đăng Thục đã công bố một số công trình: Thiền học Việt Nam và Lịch sử tư tưởng Việt Nam (nhiều tập) bàn về Thiền Tông Việt Nam và tính kế thừa, phát triển của nó qua các thời kì. Đặc biệt, trong quyển Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập IV: Lịch sử tư tưởng Thời Trần (Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1998), tác giả đi tìm hiểu “Tâm lí nghệ thuật Thiền” của Trần Nhân Tông. Sau khi phân tích một số bài thơ, tác giả khẳng định “Cho nên ở Ngài, văn chương biểu hiện tâm hồn hết sức trung thực, tự nhiên, không chút dụng ý bó buộc, chỉ là theo đà cảm hứng bồng bột hồn nhiên mà phát biểu. Cảm hứng càng thâm sâu thì phát biểu càng sáng sủa.” Trong công trình Thơ thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Phạm Hùng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 1998), tác giả đi vào phân tích thơ của các Thiền sư để từ đó khái quát nên tư tưởng nghệ thuật mà họ gởi gắm. Trần Nhân Tông cũng được tác giả chú ý nhấn mạnh với nhận định: “Nhân Tông là người uyên bác, lịch lãm, là một nghệ sĩ có tài. Ông là một trong những thi sĩ Thiền tiêu biểu của thời này với những vần thơ đẹp đẽ, sâu sắc” [24, tr.164]. Đoàn Thị Thu Vân cũng đã công bố một số các công trình có liên quan như: công trình Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam thế kỉ X – thế kỉ XVI (Nxb Văn học và trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1996); Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại (Nxb Giáo dục, 2007), và một số các bài viết đăng trên Tạp chí Văn học như: Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ Thiền Lý Trần (2/1992, tr.35); Quan niệm về con người trong thơ Thiền Lý Trần (3/1993, tr.12). Trong các công trình và bài viết này, tác giả cũng đã trích dẫn một số bài thơ của Trần Nhân Tông để chứng minh các luận điểm của mình. Đặc biệt, trong công trình trình Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại (Nxb Giáo dục, 2007), tác giả dành một phần trong chương 3 để viết về những rung cảm tinh tế và nhạy bén trong tâm hồn Trần Nhân Tông.
  12. 6 Và để chứng minh, tác giả đi vào phân tích kĩ một số bài thơ của Trần Nhân Tông. Quyển Văn học trung đại Việt Nam do Lê Trí Viễn chủ biên (tài liệu lưu hành nội bộ của trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh năm 1985) và quyển Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX) do Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (Nxb Giáo Dục năm 2008) khi viết về văn học Lý – Trần, có trích dẫn một số câu thơ của Trần Nhân Tông để minh họa cho những luận điểm về nội dung và nghệ thuật. Hai công trình của tác giả Nguyễn Công Lý là Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền Tông thời Lý Trần (Nxb Văn hóa Thông tin, 1997) và Văn học Phật giáo thời Lý Trần – diện mạo và đặc điểm (Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2002) đã cung cấp cho độc giả cái nhìn toàn diện và hệ thống về diện mạo, đặc điểm và bản sắc dân tộc qua thơ văn Lý Trần. Để củng cố vững chắc các luận điểm, công trình đã trích dẫn sáng tác của các tác giả, trong đó có các sáng tác của Trần Nhân Tông. Năm 2008, luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Trần Lý Trai Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm đã đi vào phân tích và lí giải các tác phẩm của Trần Nhân Tông cùng những sáng tác của các tác giả thuộc Thiền phái như: Trần Thái Tông, Tuệ Trung,… về các phương diện: - Tư tưởng Thiền học với quan điểm Phật tại tâm, chủ thuyết “cư trần lạc đạo”, tinh thần tùy duyên, hành thiền tu chứng; - Các cảm hứng chính: Bản thể giải thoát, cảm hứng nhân văn – thế sự, cảm hứng quê hương đất nước, cõi thiên nhiên Phật nhiệm màu; - Giá trị nghệ thuật về các mặt: ngôn ngữ, thể loại, các thủ pháp nghệ thuật. Đối tượng chính của các công trình trên là tác phẩm văn học Phật giáo của cả thời đại, Trần Nhân Tông chỉ là một trong những gương mặt tiêu biểu của thời đại. Vì vậy, thơ văn của ông chưa được nghiên cứu, bàn bạc kĩ.
  13. 7 2.2. Trần Nhân Tông là đối tượng chính của công trình nghiên cứu Lê Mạnh Thát có Toàn tập Trần Nhân Tông (Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2000). Trong công trình này, tác giả chia làm hai phần: Phần đầu giới thiệu tổng quát về sự nghiệp của Trần Nhân Tông từ thời trẻ cho đến vai trò của vua trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, trong việc sử dụng tiếng Việt và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử; phần thứ hai, cung cấp các sáng tác của Trần Nhân Tông từ thơ, phú, văn xuôi, bài giảng cho đến các văn thư ngoại giao. Trong khi bàn về vị trí văn học của Trần Nhân Tông, tác giả khẳng định: Vua Trần Nhân Tông là người mở đầu cho một giai đoạn văn học mới của lịch sử văn học Việt Nam, đó là giai đoạn văn học mà tiếng Việt là chủ ngữ. Không những thế, với những vần thơ chữ Hán và những tác phẩm văn xuôi sắc sảo, vua Trần Nhân Tông đã cống hiến cho ta những cảm thụ mới mẻ về những vấn đề muôn đời của con người [41, tr.297]. Bài viết Trần Nhân Tông và tầm vóc một thời đại của Nguyễn Huệ Chi và Trần Thị Băng Thanh, đã đánh giá Trần Nhân Tông ở cả ba phương diện: nhà vua, nhà thiền học, nhà thơ. Thơ Trần Nhân Tông được đánh giá là “thanh nhã, sâu sắc nhưng không kém phần hào hùng” [8, tr.146], “cảm hứng thế tục và cảm hứng thiền hòa quyện với nhau” [8, tr.169]. Bản thân vua Trần Nhân Tông được xem là một cây bút có phong cách và cũng là một đỉnh cao trong thơ ca thịnh Trần. Năm 2008, hội thảo khoa học về vua Trần Nhân Tông diễn ra tại Quảng Ninh. Tại hội thảo này các học giả cũng có nhiều tham luận đánh giá một cách sâu sắc và toàn diện về vị vua thứ ba nhà Trần (đăng trên trang http://www.thuvienhoasen.org). Tiêu biểu có thể kể đến các bài viết: Trần Nhân Tông – đức vua sáng tổ một dòng thiền của Nguyên Giác, Vua Trần Nhân Tông và tinh thần “bụt ở trong nhà” của Thích Hải Ấn, Phật hoàng nước Việt của Thích Nhật Quang, Phật hoàng Trần Nhân Tông – vị minh quân và thiền sư vĩ
  14. 8 đại của Việt Nam của Thích Nhật Từ, Trần Nhân Tông – vị anh hùng dân tộc khai sáng tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Trần Lưu,… Tất cả các bài viết này đều ca ngợi tài năng, phẩm chất của đức vua – thiền sư Trần Nhân Tông. Năm 2011 Bùi Huy Du bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Triết học Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông. Trong công trình này, tác giả đi vào nghiên cứu nội dung tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông về các mặt: - Thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông: Quan niệm về bản thể và mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng - Nhân sinh quan và triết lí đạo đức trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông: Quan niệm của Trần Nhân Tông về cuộc đời con người và vai trò của con người trong cuộc sống; quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề rèn luyện tinh thần đạo đức, trí tuệ, giải thoát. Sau khi đi vào tìm hiểu nội dung triết học của Trần Nhân Tông, tác giả khái quát đặc điểm và giá trị lịch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. Như vậy, tác giả công trình đã đem đến cho người đọc một cái nhìn hệ thống, toàn diện và đầy đủ về tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu tập trung vào vấn đề tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông chứ chưa nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc và có hệ thống các sáng tác của Trần Nhân Tông, đặc biệt là ở mảng thơ, để làm nổi bật vị trí, đặc điểm riêng của thơ ông trong dòng chảy của thơ văn thời Lý – Trần. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu là các sáng tác thơ của Trần Nhân Tông. Qua thơ Trần Nhân Tông, luận văn hướng đến làm rõ những nét cơ bản trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện của các sáng tác, đồng thời góp phần khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao quí của tác giả. Tài liệu khảo sát chủ yếu của luận văn là toàn bộ sáng tác thơ của Trần Nhân Tông (gồm 32 bài và 6 đoạn phiến) trong tập văn bản: Toàn tập Trần
  15. 9 Nhân Tông của tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb Tp. Hồ Chí Minh (có khảo sát và đối sánh văn bản với các tập văn bản sau: Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Nxb Khoa học xã hội 1988 ; Thơ văn Lý – Trần của tác giả Lê Bảo (tuyển chọn), Nxb Giáo dục (tái bản lần 2), năm 2001). 4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp và thao tác sau: 4.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp Để rút ra được những đặc điểm nổi bật của thơ Trần Nhân Tông cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật, người viết đi sâu phân tích các sáng tác của nhà thơ. Trên cơ sở đó sẽ có cái nhìn đầy đủ hơn, sâu hơn, chính xác hơn về những đặc điểm đáng lưu ý. Từ sự phân tích đó, người viết tìm ra đặc điểm chung (dựa vào tần suất xuất hiện) để có thể khái quát thành những luận điểm chung mang tính chất đặc trưng riêng. Đặc điểm về nội dung cũng như nghệ thuật của một tác giả thường trải dài trong suốt quá trình sáng tác, và Trần Nhân Tông cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy, cần có cái nhìn khái quát để thấy được những đặc trưng nổi bật cũng như những đóng góp của ông. 4.2. Phương pháp so sánh – đối chiếu Để làm nổi bật đặc điểm riêng của thơ Trần Nhân Tông, không thể tách tác giả khỏi dòng chảy của thơ văn thời đại. Chỉ khi đặt nhà thơ trong quan hệ so sánh với các bậc tiền bối, cũng như thế hệ các tác giả cùng thời thì mới thấy được điểm riêng của ông. Vì vậy, trong quá trình phân tích, chứng minh, người viết có so sánh, đối chiếu về một số vấn đề với các nhà thơ khác. 4.3. Phương pháp loại hình Thơ Trần Nhân Tông là thơ cổ điển, chủ yếu được viết bằng chữ Hán, nên mang những đặc điểm chung của thơ chữ Hán (hàm súc, cô đọng, “ý tại ngôn ngoại”,…). Luận văn sử dụng phương pháp loại hình nhằm xác định những điểm
  16. 10 gặp gỡ về nghệ thuật thể hiện của thơ Trần Nhân Tông so với thơ chữ Hán, và những nét độc đáo, sáng tạo riêng của tác giả. 4.4. Thao tác thống kê Tuy sử dụng không nhiều, song đây là thao tác cần thiết để tạo nên những cơ sở nhận định mang tính khoa học, khách quan. Ngoài ra, luận văn cũng đã sử dụng phương pháp bổ trợ: phương pháp văn hóa lịch sử (nghiên cứu những ảnh hưởng của thời đại, các yếu tố văn hóa đến nội dung sáng tác và nghệ thuật biểu hiện của thơ Trần Nhân Tông) để làm nổi bật vấn đề. Thật ra, việc phân chia, liệt kê các phương pháp như trên chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế, các phương pháp luôn được vận dụng trong thế kết hợp, đan xen nhau trong quá trình trình bày. Tất cả đều nhằm giải quyết tốt nhất những yêu cầu về mục đích mà đề tài đã đặt ra. 5. Mục đích và đóng góp của luận văn 5.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu đặc điểm thơ Trần Nhân Tông để từ đó thấy được những nét đặc trưng riêng trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó, có một cái nhìn toàn diện, bao quát và cụ thể về thơ Trần Nhân Tông. 5.2. Đóng góp của luận văn Bằng việc phân tích, tìm hiểu, lí giải các tác phẩm thơ cụ thể, luận văn cố gắng đưa ra cái nhìn hoàn chỉnh, bao quát và có hệ thống về những đặc điểm chính của nội dung và những đặc sắc về nghệ thuật trong thơ Trần Nhân Tông. Từ đó, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và tài năng nghệ thuật của Trần Nhân Tông. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: + Chương 1: Thời đại Lý – Trần và Phật hoàng Trần Nhân Tông
  17. 11 Chương này đi vào giới thiệu bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội cũng như thơ văn thời Lý – Trần. Bên cạnh đó, cũng giới thiệu về thân thế, con người, tư tưởng của Trần Nhân Tông, để từ đó thấy được sự tác động của thời đại và thân thế đến tư tưởng, tình cảm của ông trong thơ. + Chương 2: Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông – nhìn từ góc độ nội dung Chương này tập trung phân tích và chỉ rõ những đặc điểm chính về nội dung của thơ Trần Nhân Tông, từ đó khám phá những nỗi lòng, tâm trạng của một vị vua, một thiền sư đắc đạo. + Chương 3: Đặc điểm thơ Trần Nhân Tông – nhìn từ góc độ nghệ thuật Chương này tìm hiểu những đặc điểm về nghệ thuật trong thơ Trần Nhân Tông dựa trên các phương diện: Thể thơ, ngôn ngữ và giọng điệu. Việc phân tích những đặc điểm nghệ thuật ở đây cùng với việc chỉ ra những đặc điểm về nội dung ở chương trước sẽ góp phần làm sáng tỏ con người và tài năng nghệ thuật Trần Nhân Tông.
  18. 12 Chương 1 THỜI ĐẠI LÝ – TRẦN VÀ PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG 1.1. Thời đại Lý – Trần 1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa – xã hội thời Lý – Trần Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã đưa đất nước ta thoát khỏi ách đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, bước đầu thiết lập nhà nước quân chủ độc lập và chuyển sang một giai đoạn mới: thời trung đại. Các triều đại phong kiến ra đời, ngày càng phát triển hùng mạnh. Các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đã dần dần củng cố và hoàn thành thống nhất quốc gia. Những thành tựu phục hồi và bước đầu xây dựng kinh tế – văn hóa Đại Cồ Việt của nhà Đinh và nhà Tiền Lê đã tạo thành những nền tảng cơ bản cho hai vương triều Lý, Trần xây dựng nhà nước độc lập và đưa nước Đại Việt phát triển đến đỉnh cao trong lịch sử dân tộc. Có thể nói thời đại Lý – Trần là thời đại hào hùng, oanh liệt và rực rỡ nhất trong lịch sử nước nhà. Trước hết, thời Lý – Trần là thời đại phục hưng, phát triển, ổn định và thống nhất đất nước. Ngay khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ vùng đất Hoa Lư về Đại La (1010) và đặt tên kinh đô mới là Thăng Long. Quyết định dời đô về Thăng Long cho thấy đất nước đã ổn định và phát triển, địa thế núi non hiểm trở để phòng ngự ở Hoa Lư tỏ ra nhỏ hẹp, không còn thích hợp để đóng đô mà thế đô phải là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Với những yêu cầu mới trước sự vững mạnh của đất nước, Thăng Long “xứng đáng là đế đô muôn đời cho con cháu mai sau” [1, tr.420]. Cùng với việc dời đô, vua Lý Thái Tổ đã đổi tên nước là Đại Việt. Đây là niềm tự hào của cả đất nước, và nó đã trở thành quốc hiệu được sử dụng lâu dài trong lịch sử của chế độ phong kiến ở nước ta dưới thời trung đại. Để củng cố triều đại, nhà Lý bắt đầu xây dựng một triều đình theo lối chính qui. Đứng đầu là vua với danh xưng Hoàng đế. Vua giữ quyền quyết định trong tất cả mọi việc. Bên cạnh nhà vua còn có các quan văn, quan võ. Để giúp vua
  19. 13 phụ trách các mặt về chính trị, quân sự, nhà vua đã đặt thêm một số cơ quan chuyên trách. Đến triều Trần, bộ máy nhà nước trung ương tập quyền được tăng cường về mọi mặt. Nhà Trần cũng đặt thêm nhiều cơ quan chuyên trách mới để đáp ứng những yêu cầu cho việc phát triển bộ máy hành chính. Các vua Trần đặt ra lệ nhường ngôi sớm cho con, tự xưng là Thái thượng hoàng, cùng con trông nom việc nước để tập dượt cho vua con quen dần với việc trị nước. Đây là điều hoàn toàn khác với triều Lý. Nhìn chung, bộ máy quan lại của nhà Trần cũng gồm có ba bậc như thời Lý nhưng có qui củ và đầy đủ hơn. Có một điều đặc biệt và khác với thời Lý là các chức quan cao cấp ở thời Trần đều nằm trong tay của giới quí tộc tôn thất nhà Trần. Để giữ vững triều đình, hai triều Lý, Trần rất quan tâm đến phương diện lập pháp. Nhà Lý có bộ Hình thư, nhà Trần có Quốc triều thống chế và Hình luật thư. Pháp luật thời Trần chủ yếu dựa trên pháp luật của thời Lý, nhưng có bổ sung thêm một số yếu tố để đề cao uy quyền của nhà vua và địa vị thống trị. Vì vậy, so với pháp luật thời Lý, pháp luật thời Trần hoàn chỉnh, qui củ và nghiêm khắc hơn. Tiếp nối sự nghiệp thống nhất dân tộc của các triều đại trước, thời Lý – Trần, triều đình rất chú ý quan tâm đến các dân tộc thiểu số, đặc biệt là các dân tộc vùng biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, đưa ra nhiều biện pháp nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc và thống nhất quốc gia. Mặc dù đất nước đã được độc lập nhưng nguy cơ ngoại xâm vẫn còn vì bọn phương Bắc luôn luôn dòm ngó. Do đó, để củng cố nền thống trị và sẵn sàng ứng phó với nạn ngoại xâm, việc xây dựng quân đội rất được nhà nước chú trọng. Quân đội được chia làm hai loại: quân cấm vệ và quân các lộ. Khi có chiến tranh, nhà nước sẽ tuyển lính dựa vào sổ quân, khi hòa bình thì quân lính được luân phiên nhau về làm ruộng và ở lại quân ngũ để canh gác. Đây là chính sách “ngụ binh ư nông” có cơ sở từ thời Tiền Lê và được hoàn chỉnh ban hành dưới hai triều Lý, Trần. Dưới thời Trần, quân đội chủ yếu được xây dựng theo phương châm “quân cốt tinh nhuệ, chứ không cốt nhiều”, tức là chú ý đến chất lượng hơn là số lượng, trang bị cũng đầy
  20. 14 đủ hơn so với thời Lý: ngoài gươm, giáo, còn có cả súng ống. Nhìn chung, quân đội đạt trình độ huấn luyện và tổ chức khá cao, trang bị cũng khá đầy đủ. Bên cạnh việc xây dựng quân đội, nhà nước cũng rất chú trọng đến việc phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển nông nghiệp. Triều đình đã đề ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp: tiến hành khẩn hoang, xây dựng các công trình thủy lợi với qui mô lớn; bảo vệ sức kéo và sức lao động trong nông nghiệp bằng cách cấm bán hoàng nam làm tư nô, trừng phạt nặng tội trộm cắp trâu bò và hạn chế việc giết thịt trâu bò để ăn; nông dân được nhận ruộng cày cấy, được giảm thuế vào những năm mất mùa. Với những chính sách khuyến nông như trên, sức sản xuất nông nghiệp có tiến bộ đáng kể. Ngoài việc trồng lúa, nhân dân còn trồng hoa màu khác, trồng dâu nuôi tằm, cây ăn quả phong phú. Sản xuất thủ công nghiệp cũng có nhiều bước tiến bộ đáng kể, tuy nhiên vẫn còn sản xuất riêng lẻ theo lối cá thể. Nhà nước đã mở rộng việc giao lưu buôn bán giữa các vùng và thậm chí, mở rộng việc buôn bán với một số nước Ấn Độ, Malaixia, Trung Quốc,... Giao thông thuận lợi làm cho việc giao lưu buôn bán cũng khá phát triển. Kinh thành Thăng Long trở thành trung tâm thương nghiệp lớn. Đặc biệt, nhà nước cho ban hành chế độ tiền tệ thống nhất nhằm đẩy mạnh trao đổi kinh tế. Với những chính sách tích cực trong phát triển kinh tế, nền kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu. Sự phát triển về kinh tế không chỉ góp phần củng cố thêm cơ sở vật chất của Đại Việt, tăng thêm sức mạnh quốc phòng cho đất nước mà còn nâng cao đời sống nhân dân, khẳng định thêm sự vững mạnh, tự chủ của đất nước. Đây còn là thời đại của ý thức độc lập, tự chủ và đoàn kết toàn dân. Đứng trước sự đe dọa của ngoại xâm, tinh thần dân tộc, ý thức về chủ quyền quốc gia, tinh thần đoàn kết quyết chiến bảo vệ đất nước được dâng cao. Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn chính là bản tuyên ngôn về chủ quyền của quốc gia và là lời hiệu triệu kêu gọi tinh thần đoàn kết chống giặc. Chính do nhu cầu về đoàn kết toàn dân để tạo nên sự vững mạnh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2