intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn tốt nghiệp: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:169

107
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành tựu mới nhất của KH&CN vào...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành tựu mới nhất của KH&CN vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không biết tiếp thu và ứng dụng kịp thời thì khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa nước ta với các nước tiên tiến ngày một xa hơn, sự nghiệp xây dựng CNXH cũng khó khăn hơn nhiều. Nhận thức rõ vấn đề này, trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [25, tr. 112]. Với tư cách là chủ thể chính sáng tạo ra tri thức khoa học, đội ngũ trí thức Việt Nam chính là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho sự phát triển của đất nước. Cho nên, nước ta cần phải phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội) là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, trong những năm qua đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn vào đời sống chính trị, xã hội của đất nước: Tham gia chuẩn bị, góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; phổ biến kiến thức, khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; Tư
  3. vấn, phản biện, giám định xã hội về khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội. Vì vậy, để tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy hơn nữa vai trò của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, ngày 11 - 11 - 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 45 - CT/TW: Về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Sau bảy năm thực hiện Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành tựu trong một số lĩnh vực quan trọng, góp phần tạo tiền đề để KH&CN Việt Nam tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ này, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng và sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Để góp phần làm rõ vai trò, đặc điểm và nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tôi đã chọn đề tài : "Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ trí thức với nhiều khía cạnh, quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học đã đề cập đến các góc độ mà đề tài cần nghiên cứu tham khảo và kế thừa: - "Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước" (1995) - Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của Đỗ Mười về trí thức. Qua đó đã khẳng định quan điểm của Đảng ta về vai trò của trí thức và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước.
  4. - "Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng" (1995) - Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm hiện đại về "trí thức", trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của thế kỷ 20. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay. - "Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (2001) - GS. Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Trên cơ sở nghiên cứu khái quát tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ; tác giả đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH, làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. - "Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước" (1998) - PTS. Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch, Nxb Lao động, Hà Nội: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. - "Một số vấn đề về trí thức Việt Nam" (1998) - Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với tiến bộ xã hội; làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những phương hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế - xã hội đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới.
  5. Một số bài viết về trí thức như: "Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa" của Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995; "Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức', Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4/1996; "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2/2001; "Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999 "Bài học từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác về trí thức" trong cuốn "Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 của PGS.TS. Phan Thanh Khôi... Trong đó, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức... Bên cạnh đó, có một số Luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam như: "Vị trí và vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam" của Phạm Việt Dũng, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1988; "Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay " của Phan Thanh Khôi, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992; "Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường Đại học ở nước ta hiện nay" của Phạm Văn Thanh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới" của Trịnh Quang Cảnh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Đình Minh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2003; "Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp CNH, HĐH" của Nguyễn Xuân Phương, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2004... Ngoài ra, còn có nhiều công trình khoa học, bài viết được đăng trên các Tạp chí liên quan ít nhiều đến trí thức, đến khoa học - công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu
  6. nào đề cập đến đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam dưới góc độ luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, đề tài nghiên cứu của tôi không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ thực trạng chung của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Luận văn nêu lên những quan điểm và giải pháp để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: + Trình bày một cách khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phân tích những đặc điểm cơ bản của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. + Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, xu hướng vận động của đội ngũ này trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. + Đề xuất một số quan đ iểm và giải pháp chung nhằm xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. 4. Đ ối t ượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối t ượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học
  7. và Kỹ thuật Việt Nam, nhất là đ ặc đ iểm, vai trò của đ ội ngũ này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, H ĐH đất nước. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của đ ội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ở Trung ương. Thời gian từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), và nh ất là từ khi có Chỉ thị 45 -CT/TW (1998) cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên c ứu của luận v ăn - Th ực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện, Nghị quyết của Đ ảng ta về trí thức. Luận văn cũng kế thừa các nhân tố hợp lý của những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân v ăn liên quan đ ến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của c hủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp các ph ương pháp phân tích - t ổng hợp, lôgíc - lịch sử,... 6. Đóng góp mới về khoa học của luận v ăn - Làm rõ đặc điểm và vai trò của đ ội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa h ọc và Kỹ thuật Việt Nam. - Đề xuất một số quan đ iểm, giải pháp xây dựng và phát huy vai trò của đội n gũ này, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và đẩy mạnh CNH, H ĐH ở nước ta hiện nay. 7. ý nghĩa của luận văn
  8. - Góp phần làm luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. - Làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy những c huyên đ ề liên quan đ ến trí thức trong các môn lý luận chính trị Mác - Lênin. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  9. Chương 1 đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật việt nam - một bộ phận của trí thức việt nam hiện nay 1.1. khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 1.1.1. Khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay Trí thức ở nước ta được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Một số được đào tạo từ trước cách mạng Tháng Tám, số lượng này đến nay không nhiều. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã cử một số cán bộ đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài để chuẩn bị cho công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau này. Còn lại, phần lớn trí thức nước ta được đào tạo ở các nước XHCN trước đây và trong công cuộc đổi mới của đất nước. Trong thời kỳ mở cửa hội nhập với quốc tế, cơ hội học tập và nghiên cứu tại các nước trên thế giới được mở rộng. Vì vậy số lượng sinh viên Việt Nam đi du học ngày càng nhiều, lực lượng này đã bổ sung và làm phong phú hơn nguồn đào tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam. Hiện nay, nước ta có hơn 1,8 triệu người đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học, về cơ bản có thể xem đây là trí thức. Năm 2000 nước ta mới có 1,3 triệu trí thức, sau ba năm (từ năm 2000 đến năm 2003) số lượng trí thức tăng lên thành 1.870.315 người [70, tr. 149]. Điều đó cho thấy, ngành GD&ĐT nước ta đã có bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ trí thức Việt Nam còn bổ sung từ những người tự học vươn lên để có học vấn tương đương và trong thực tế có những đóng góp nhất định cho khoa học nước ta.
  10. Bên cạnh đó, còn hơn 300.000 trí thức Việt Kiều - một bộ phận của trí thức dân tộc Việt Nam. Phần lớn họ đang sinh sống ở các nước phát triển, được tiếp cận với tri thức KH&CN hiện đại của thế giới. Trong đó, có nhiều người có trình độ cao, hiện đang làm việc tại các Viện nghiên cứu, các trường đại học lớn trên thế giới. Ngoài ra, nước ta có một số lượng khá đông sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học trên toàn quốc. Sinh viên chính là nguồn bổ sung vào lực lượng trí thức trong tương lai. Chính vì vậy, thông qua phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học, đã có một số lượng công trình của đội ngũ này được ứng dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội không nhỏ. Số lượng trí thức tăng lên trong những năm qua là thành quả to lớn của sự nghiệp giáo dục và đào tạo Việt Nam trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, so với số dân hiện nay của nước ta với khoảng hơn 80 triệu người, tỷ lệ trí thức trong tổng số dân còn rất thấp, chiếm khoảng hơn 2% dân số của cả nước. Về trình độ, trong số 1,8 triệu người tốt nghiệp cao đẳng, đại học; có hơn 25.000 thạc sĩ, tiến sĩ; 5531 giáo sư, phó giáo sư và 519 tiến sĩ khoa học [70, tr. 149]. Trong ba năm (từ năm 2000 - 2003) trình độ của đội ngũ trí thức ở nước ta không ngừng được nâng cao. Năm 2000, nước ta mới chỉ có 10.000 thạc sĩ, 13.500 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, số người được phong hàm giáo sư là 927, phó giáo sư là 3.419 người [3, tr. 18]. Đội ngũ trí thức ở nước ta có tiềm năng trí tuệ và khả năng sáng tạo cao. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất thông qua sản phẩm tinh thần của đội ngũ này. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được bạn bè, đồng nghiệp quốc tế đánh giá cao và có nhiều công trình được ứng dụng đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước. Ngoài ra, số lượng các công trình đạt những giải thưởng lớn và có uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ, Văn học
  11. và Nghệ thuật và gần đây là Giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam đã phần nào chứng minh chất lượng cũng như sức sáng tạo không nhỏ của đội ngũ trí thức nước ta. Đội ngũ trí thức nước ta có lòng yêu nước và gắn bó với nhân dân lao động, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự đóng góp to lớn của đội ngũ này vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thể hiện rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đội ngũ trí thức ngành khoa học xã hội đã góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong khoa học tự nhiên, các kết quả nghiên cứu của đội ngũ trí thức về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã góp phần cung cấp những luận cứ cho Đảng và Nhà nước đưa ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và làm chủ những công nghệ mới như chế tạo vật liệu, những tiến bộ về di truyền học, sinh học, khoa học thông tin... Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ chủ yếu hướng hoạt động nghiên cứu của mình vào đổi mới công nghệ trong các ngành sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả của sản xuất. Do đó, đã có nhiều thành tựu về khoa học công nghệ mới được ứng dụng góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đặc biệt trong nông nghiệp với việc ứng dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại, công nghệ sinh học, di truyền... đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức khoa học công nghệ đã có những cống hiến to lớn cho nền công nghiệp Việt Nam: tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam đã tạo cơ sở để nền công nghiệp nước ta có bước phát triển mạnh, chuyển dần theo hướng hiện đại hóa. Đặc biệt có nhiều lĩnh vực đã bước đầu tiếp cận với công nghệ tiên tiến của thế giới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ laser, công nghệ xây dựng
  12. cầu, chế tạo thiết bị bưu chính viễn thông, công nghệ gen, công nghệ sinh học... Như vậy, với những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước đã thể hiện tiềm năng trí tuệ to lớn đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố vững chắc hơn khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Tuy nhiên, Đội ngũ trí thức của nước ta còn có những hạn chế, trình độ của đội ngũ trí thức chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chủ yếu là tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Đội ngũ trí thức có trình độ sau đại học ở nước ta hiện nay có khoảng hơn 30.000 người (chiếm hơn 1,6% tổng số trí thức Việt Nam). Về cơ cấu lứa tuổi, tuổi bình quân của cán bộ khoa học công nghệ nước ta hiện nay là 40,2 (nam: 42,7 tuổi, nữ: 37,0 tuổi). Số trí thức có trình độ sau đại học tuổi khá cao, cụ thể: tuổi bình quân của người có trình độ cao đẳng là 38,2 tuổi; đại học: 40,9 tuổi; thạc sĩ: 42,6 tuổi và tiến sĩ là 52,5 tuổi. Số cán bộ khoa học công nghệ ở độ tuổi dưới 25 chỉ chiếm 9,06%, trong khi số cán bộ này ở độ tuổi trên 55 lên tới 13,55% [3, tr.19]. Đặc biệt, số trí thức có trình độ cao như tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư và cán bộ đầu ngành có tuổi rất cao. Sự chênh lệch về độ tuổi giữa các trình độ là khá cao, phản ánh sự thiếu hụt lực lượng của đội ngũ trí thức trẻ có trình độ cao trong việc kế cận các thế hệ trí thức cha anh. Về cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức, trong số 23 ngành đào tạo, giáo viên chiếm vị trí hàng đầu trong tổng số trí thức KH&CN (34,6%), tiếp theo là ngành kinh doanh và quản lý (19,3%), thứ ba là ngành kỹ thuật (8,1%), ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm vị trí thứ bảy (4,41%), còn ngành chế tạo - chế biến ở vị trí thứ 17 (0,52%) [3, tr. 19]. Qua đó cho thấy, cơ cấu ngành của đội ngũ trí thức nước ta còn bất hợp lý, phần lớn là trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các ngành thuộc khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ rất thấp. Chính vì vậy, nước ta đi lên xây dựng CNXH từ một
  13. nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, nhưng với số lượng cán bộ có trình độ đại học thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 4,41%. Do đó khó đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Để thực hiện CNH, HĐH thì cần tăng số lượng trí thức trong các ngành kỹ thuật, nhất là một số ngành công nghệ mới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học… Mặt khác, nếu theo các cấp đào tạo thì một số ngành có số lượng trí thức ít nhưng trình độ của đội ngũ này lại cao hơn những ngành khác. Số người có trình độ sau đại học chủ yếu ở các ngành Kinh doanh và quản lý, Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật, Y tế. (Xem bảng 1). Bảng 1.1: Cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ và thứ tự xếp hạng các ngành đào tạo theo các cấp đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ. Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ STT Ngành đào tạo Cơ Cơ cấu Thứ Cơ cấu Thứ Thứ cấu (%) hạng (%) hạng hạng (%) 1 Khoa học tự nhiên 2,6 10 6,4 7 15,9 1 2 Kỹ thuật 9,3 3 7,3 6 14,7 2 3 Kinhdoanh và quản lý 25,3 1 15,3 1 10,3 3
  14. 4 Nhân văn 6,1 5 11,9 3 10,2 4 5 Y tế 7,5 4 14,7 2 8,4 5 6 Nông, Lâm, Ngư nghiệp 5,9 7 4,8 8 7,6 6 7 Khoa học sự sống 0,5 21 2,3 11 7,0 7 8 Khoa học xã hội và Hành 4,3 8 9,8 4 6,0 8 vi 9 Toán và thống kê 0,9 15 3,7 10 5,8 9 10 Xây dựng và Kiến trúc 6,0 6 4,5 9 3,9 10 11 Khoa học GD&ĐT 17,2 2 7,7 5 2,7 11 Nguồn :[3, tr. 21]. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng đồng bằng. Theo số liệu thống kê về tình hình lao động việc làm ở Việt Nam năm 2003, số trí thức tập trung nhiều nhất là đồng bằng sông Hồng (chiếm 33,95% tổng số người tốt nghiệp cao đẳng, đại học của cả nước), thứ hai là vùng Đông Nam Bộ (23,12%), tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (10,55%), Đông Bắc (9,41%), Bắc Trung Bộ (8,19%), Duyên hải Nam Trung Bộ (9,18%), Tây Nguyên (3,83%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (1,77%) [70, tr. 135]. Sự phân bố trí thức không đồng đều giữa các vùng là một trong những yếu tố làm chậm quá trình
  15. thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, trình độ phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước. Trong khi các vùng đồng bằng có điều kiện thuận lợi và tiềm năng trí tuệ lớn có tốc độ phát triển, thì ngược lại ở các vùng trung du, miền núi có điều kiện khó khăn thì lại càng ít cơ hội vươn lên phát triển do nguồn lực trí tuệ tập trung không nhiều. Nhìn chung, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta còn khó khăn, sự phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam những năm qua là một thành quả đáng tự hào. Trước những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta, cần phải khắc phục những hạn chế trên, nhất là về trình độ, số lượng, độ tuổi. Đồng thời cũng cần cân đối lại cơ cấu ngành nghề và sự phân bố đội ngũ trí thức giữa các vùng, miền của cả nước. 1.1.2. Trí thức Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nước ta tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện thế giới có nhiều sự biến động. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại một mặt tạo ra những thời cơ, tiền đề thuận lợi để đất nước ta phát triển, mặt khác nó cũng đem lại nhiều thách thức to lớn, nhất là trong điều kiện trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn lạc hậu. Chính vì vậy, CNH, HĐH đất nước được Đảng ta coi là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ này là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đất nước. Nhằm cụ thể hóa tinh thần của Đại hội, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) đã nêu rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
  16. sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [19, tr. 65]. Như vậy, thực chất của quá trình CNH, HĐH đất nước là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao dựa trên nền tảng của KH&CN. Cũng chính tại Hội nghị này, Đảng ta đã nêu ra quan điểm chỉ đạo đối với quá trình CNH, HĐH như sau: - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với nước ngoài, kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh. Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. - CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. - Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
  17. - Khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. - Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn. Trên cơ sở tổng kết mười năm đổi mới và năm năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII), trước bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng một lần nữa đã xác định: nước ta đang đứng trước thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và đã đề ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tiếp tục khẳng định đường lối mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần có và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức [25, tr. 91]. Như vậy, chủ trương phát triển "rút ngắn" của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn
  18. có thể thực hiện được trong điều kiện lịch sử hiện nay. Với những thành tựu về KH&CN mà nhân loại đạt được đã mở ra cho chúng ta cơ hội thực hiện bước "nhảy vọt", để "đi tắt", đón đầu theo kịp với trình độ phát triển của các nước mà không cần tiến hành CNH, HĐH theo trình tự truyền thống mà các nước tư bản chủ nghĩa trước đây đã trải qua. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề nan giải về vốn, công nghệ, đặc biệt là trình độ của người lao động. Để thực hiện được những mục tiêu trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách hợp lý để phát triển KH&CN, GD&ĐT, trước hết là với đội ngũ trí thức trong lĩnh vực này. Đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cho nên, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của loài người, C.Mác đã đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự tiến bộ của xã hội. Kế thừa những t ư tưởng của C.Mác về trí thức, trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực, V.I. Lênin đã khẳng định: Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản đã đạt được [46, tr. 217]. Khi nói về vai trò của trí thức đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc", "Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều" [62, tr. 235]. Trên thực tế, đội ngũ trí thức nước ta đã có những đóng góp hết sức to lớn, cùng
  19. với giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước những năm qua cũng có phần công sức không nhỏ của đội ngũ này. Đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay, đội ngũ trí thức của nước ta ngày càng giữ vai trò quan trọng, thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau: - Thứ nhất, trí thức là người góp phần nghiên cứu, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [25, tr. 83]. Kiên định theo con đường XHCN, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học, mà đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu lý luận, trí thức khoa học Mác-Lênin đã góp phần làm rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cung cấp những luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nước ta hoạch định các chủ trương, chính sách về CNH, HĐH không mắc phải sai lầm của việc vận dụng rập khuôn, máy móc. Hơn nữa, xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện CNH, HĐH thành công, ngoài lý luận khoa học, Đảng và Nhà nước ta cần phải có các kết quả nghiên cứu về tình hình thực tế, đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực, ngành nghề... làm căn cứ khách quan. Đây chính là nguồn tư liệu quý giá, phong phú giúp cho việc đưa ra các chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ đạt kết quả cao, không rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Với tư cách là nhà khoa học, trí thức nước ta đã tham mưu cho Đảng và Nhà
  20. nước những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, vừa đảm bảo phát triển đúng định hướng XHCN, đồng thời đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. - Thứ hai, trí thức Việt Nam là lực lượng quan trọng trong việc tuyên truyền những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đến nhân dân, đưa những chủ trương đó vào cuộc sống. Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn thể nhân dân lao động, nó phải được thực hiện thông qua hoạt động tự giác của đông đảo quần chúng có ý thức giác ngộ về CNXH và CNCS. Do đó, công tác giáo dục tư tưởng, tuyên truyền lý luận cách mạng phải đi trước một bước. Bản thân lý luận không thể làm biến đổi hiện thực, nhưng nó có thể trở thành "lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [57, tr. 580]. Trong quá trình CNH, HĐH của nước ta, để thành công thì những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phổ biến sâu rộng, làm cho nhân dân nhận thức được sự cần thiết, lợi ích cũng như vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó thôi thúc mọi người dân tham gia một cách tự giác, tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Khi ấy, CNH, HĐH từ lý luận mới trở thành sức mạnh vật chất làm thay đổi sản xuất và đời sống xã hội. Với chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá kiến thức, trí thức Việt Nam, nhất là những người trực tiếp công tác trong ngành văn hóa, tư tưởng là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ này. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo viết, báo nói, báo hình) và các chương trình tập huấn, họ đã góp phần triển khai các nghị quyết, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước về CNH, HĐH nhanh chóng tuyên truyền đến mọi người dân, khắp các vùng miền của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, giúp nhân dân hiểu, tích cực và chủ động tham gia vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngoài ra, việc đưa những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2