intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Vai trò kinh tế của nhà nước trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

244
lượt xem
81
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ tiến tới công nghiệp hoá và hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với nhiệm vụ đặt ra hiện nay là xác định nội dung của thể chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết chúng ta phải nhận thức được vai trò của thị trường và quan hệ thị trường. Nó có tính quyết định đối với sản xuất kinh doanh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vai trò kinh tế của nhà nước trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Vai trò kinh tế của nhà nước trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
  2. Lời mở đầu Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ tiến tới công nghiệp hoá và hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với nhiệm vụ đặt ra hiện nay là xác định nội dung của thể chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết chúng ta phải nhận thức được vai trò của thị trường và quan hệ thị trường. Nó có tính quyết định đối với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy vai trò tích cực, hạn chế và ngăn ngừa tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Chúng ta đang đẩy nhanh, mạnh việc liên kết hợp tác giữa các nền kinh tế có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy hài hoà giữa sản xuất và nhu cầu; mở rộng, phục vụ các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, cân bằng và ổn định. Xây dựng vững chắc hệ thống pháp luật, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, đảm bảo phúc lợi cho toàn dân. Như vậy nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường đòi hỏi tăng cường chứ không làm giảm nhẹ vai trò quản lý của nhà nước bất luận là nhà nước tư bản chủ nghĩa hay nhà nước xã hội chủ nghĩa. Và thực tế đã chứng minh vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hết sức quan trọng, đặc biệt là trong những năm gần đây, sự quản lý vĩ mô của nhà nước đã và đang tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát huy mặt tích cực và khắc phục dần những mặt hạn chế. Do đó việc nghiên cứu “vai trò kinh tế của nhà nước trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” được đề ra hết sức nghiêm túc và cần thiết.
  3. Chương I Kinh tế Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 1. Quan niệm về Kinh tế Nhà nước: Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân sách ngân hàng nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước, cơ sở vật chất của quốc phòng, an ninh và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liêuh sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vị mô nền kinh tế. Cần nhận thức được rằng kinh tế Nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng khu vực kinh tế nhà nước để thực sự giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, tạo sức mạnh vất chất cần thiết để nhà nước có thực lực hữu hiệu làm chức năng định hướng. Phân biệt được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. Ngoài ra cũng cần phân biệt sở hữu Nhà nước với thành phần kinh tế nhà nước. Phạm trù sở hữu Nhà nước rộng hơn phạm trù thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế Nhà nước trước hết phải thuộc sở hữu Nhà nước, nhưng sở hữu nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng. Thí dụ: đất đai, Nhà nước đại biểu cho toàn dân sở hữu, nhưng kinh tế hộ, hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác sử dụng. Ngược lại, sở hữu Nhà nước không phải là kinh tế Nhà nước, chẳng hạn Nhà nước góp vốn cổ phần chiếm tỷ lệ thấp vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, thông qua liên doanh, liên kết gọi là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
  4. 2. Vai trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nước: 2.1.Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong lịch sử : Nhà nước luôn là vấn đề trung tâm của nhưng cuộc đấu tranh chính trị. Mọi Đảng trong cương lĩnh hoạt động của mình bao giờ cũng hướng mục tiêu vào việc giành lấy chính quyền nhà nước. Trong lịch sử phát triển có nhiều cách giải quyết khác nhau về nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Theo quan điểm tôn giáo là quyền lực của Thượng Đế ở trần gian, khi giai cấp tư sản làm cách mạng đã lên án quan điểm này, họ cho rằng nhà nước xuất phát từ xã hội, họ lý giải các thành viên trong xã hội cần có tổ chức nhà nước đề điều khiển và quản lý xã hội. Theo quan điểm của Mác, ông thừa nhận nhà nước sinh ra từ xã hội nhưng không phải là khế ước của xã hội mà nó xuất phát từ những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Mâu thuẫn này dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để đi đến nhu cầu của xã hội là phải có một tổ chức quyền lực đủ mạnh để duy trì xã hội tồn tại trong một trật tự nhất định sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, tổ chức ấy chính là nhà nước. Như vậy nhà nước kà công cụ bạo lực để thống trị về mặt nhà nước. Nhà nước chính là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong lịch sử phát triển của mình các nhà nước đã có các phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. Nhà nước chủ nô - kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người chỉ bảo vệc cho quyền lợi của giai cấp chủ nô là giai cấp chiếm đoạt khối lượng của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ, đàn áp, thống trị họ bằng bạo lực. Trong thời đại phong kiến nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở hoang các vùng đất mới đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong sự khác biệt với các nhà nước phong kiến phương Tây, chức năng quản lý kinh tế được các nhà nước phong kiến phương Đông nhận thức sớm hơn. ở Trung Quốc từ học thuyết “Bình dân kinh tế chủ nghĩa”, Mạnh Tử cho rằng: chính sách kinh tế của nhà nước phong kiến phải hướng vào làm giàu cho
  5. dân. Dân giàu thì nước mạnh. Hơn nữa, cả Mạnh Tử và Ađam – Smit đều cho rằng về bản chất lợi ích cá nhân thống nhất lợi ích toàn xã hội, mọi người trong khi làm giàu cho mình cũng đồng thời làm giàu cho xã hội từ đó đặt lên vai trò cuả nhà nước là phải điều hoà, sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho sự xung đột lợi ích cá nhân không làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà ngược lại. ở Việt Nam tư tưởng nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cũng hình thành từ rất sớm. Trên thực tế nhà nước phong kiến đã can thiệp và thu được cả những thành công và không thành công, trong đó có sự can thiệp sớm nhất xuất hiện vào triều đại nhà Lý thế kỷ X trước công nguyên. Chế độ phong cấp ruộng đất của nhà Lý đã dẫn đến sự hình thành các thái ấp. “Việc ban cấp thái ấp tiến hành vào lúc nhà nước trung ương tập quyền đã phát triển vì vậy tất cả các thái ấp phải chịu sự kiểm soát của triều đình và phần lớn ruộng đất phong cấp vào thuộc quyền sở hữu của nhà nước phong kiến. Người được phong chỉ có quyền chiếm giữ và sử dụng. Đó là nguyên tắc phong cấp không triệt để nhằm bảo vệ chế độ sở hữu của nhà nước về ruộng đất và duy trì quyền lực của chính quyền trung ương. Tuy vậy, sự bóc lột của chủ thái ấp không phải là vô hạn độ mà về cơ bản vẫn chịu sự khống chế của nhà nước”. Như vậy, ngoài những đặc điểm chung với các nhà nước phong kiến phương Tây, nhà nước phong kiến Việt Nam ngay từ buổi đầu đã ý thức rất rõ về quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất nói riêng và của cải nói chung. Tuy nhiên, mặc dù nhà nước phong kiến đã có ý thức kiểm soát hoạt động trong các điền trang thái ấp của quý tộc quan lại, nhưng vẫn không sao kiểm soát nổi tình trạng cát cứ độc quyền và bóc lột hà khắc của quan lại đối với nhân dân trong các điền trang thái ấp. Chính vì vậy liên tiếp trong nhiều thế kỷ nhà nước phong kiến Việt Nam tiếp tục đưa ra nhiều biện pháp để kiểm soát, duy trì và củng cố quyền lực của nhà nước trung ương. Không chỉ dừng lại ở đó, trên thế giới kỳ này cho rằng: nền kinh tế phát triển càng cao, xã hội hoá sản xuất càng mở rộng, thị trường càng phát triển, càng cần có sự quản lý của nhà nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế.
  6. Các nhà kinh tế học cổ điển mà nổi bật là Ađam Smith (1723-1730) một kinh tế gia nổi tiếng người Anh - đa đưa ra thuyết “Bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào hoạt động của nền kinh tế. Ađam Smith cho rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối. Việc đề cao “bàn tay vô hình” và xem nhẹ “bàn tay nhà nước” đã thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn tự do cạnh tranh đã đem lại sự tăng trưởng nhất định trong kinh tế. Tuy nhiên với một thị trường tự do cạnh tranh hoạt động không có sự can thiệp của nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều khiếm khuyết như tình trạng độc quyền, ô nhiễm môi trường, hoạt động kinh tế chồng chéo triệt tiêu nhau và đặc biệt là các chu kỳ kinh tế thể hiện thông qua khủng hoảng kinh tế liên tục mà rõ nhất là thời kỳ đại suy thoái nên kinh tế tư bản chủ nghĩa (1929 - 1933). Hơn nữa trình độ xã hội sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào quá trình hoạt động kinh tế, điều tiết nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Anh Meynard Keynes (1884 - 1946) người được coi là đã cứu sống CNTB thì lập luận rằng “nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp gia tăng đó là nhà nước không can thiệp vào kinh tế hoặc can thiệp nhưng chính sách kinh tế lạc hậu bảo thủ”. Do vậy theo ông để hạn chế, ngăn chặn khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp thì phải can thiệp vào kinh tế bằng những chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô thích hợp ở tầm vĩ mô đó là các chính sách về tài chính tiền tệ lãi suất, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển ở tầm vĩ mô. Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ công cộng. Quan điểm này xuất phát từ chỗ cho rằng sự tăng lên của thu nhập sẽ làm tăng lên tiêu dùng so với tiêu dùng giới hạn nhưng sự tăng của tiêu dùng chậm hơn sự tăng của thu nhập dẫn tới cầu giảm điều này sẽ dẫn tới hàng hoá ế thừa từ đó sẽ dẫn tới tỉ suất lợi nhuận giảm. Nếu tỉ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì chủ doanh nghiệp sẽ không có lãi khi vay vốn đầu tư như vậy họ sẽ “tháo lui đầu tư”. Điều này đưa nền kinh tế vào tình trạng trì trệ khủng hoảng. Vì vậy theo Keynes nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế, can thiệp vào thị trường. Song khi đánh giá cao vai trò kinh tế của nhà nước ông lại bỏ qua vai trò của thị trường tự do, bỏ qua vai trò của bàn tay vô hình và cân bằng
  7. tổng quát. Hơn nữa, thêm vào đó là tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát xảy ra ngày càng trầm trọng. Điều này đã làm tăng sóng phê phán lý thuyết của Keynes và xuất hiện tư tưởng phối hợp “bàn tay vô hình” với nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế thị trường cũng như sự quản lý của nhà nước. Nổi bật là quan điểm “kinh tế hỗn hợp” của Paul Samuelson một nhà kinh tế học người Mỹ. ông lại cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường cũng như định vỗ tay bằng một tay. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế chỉ tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết yếu. Theo xu hướng “hỗn hợp” ngày nay các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả cơ chế thị trường cũng như sự quản lý của nhà nước. Khác hẳn với các thành phần kinh tế khác chủ nghia Mác Lênin dựa trên cơ sở sự sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất vì vậy nhà nước XHCN có vai trò kinh tế đặc biệt, nó không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất. Nó phải chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với quá trình kế hoạch hoá tập trung thống nhất quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức lao động và mức độ tiêu dùng (tổng cung và tổng cầu). Như vậy sẽ tránh được khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện được tốt các chính sách xã hội. Tuy nhiên với một bộ máy nhà nước quá cồng kềnh kế hoạch hoá quá sát sao đã dẫn đến tình trạng dựa dẫm ý lại, thiếu sáng tạo đối với cấp dưới, không khai thác và phát huy được hiệu quả cao nhất các nguồn lực như vậy nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng thấp. Do đó các nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung như Liên Xô (cũ) và các nước XHCN đã phải chuyển sang cơ chế thị trường và phải đổi mới cách thức quản lý của nhà nước. Trên thực tế qua các giai đoạn phân tích đánh giá các quan điểm của các trường phái, chúng ta rút ra được tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Nếu như chỉ thuần tuý sử dụng “bàn tay vô hình” hay “bàn tay nhà nước” thì đều không thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển lâu dài, muốn đạt được điều đó thì phải biết sử dụng chúng hoà hợp, cần thiết phải có cả “hai” cùng tham gia vào hoạt động kinh tế, đó là thị trường và nhà nước. Vì
  8. vậy nhà nước giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế tự nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở đây chỉ là tầm vĩ mô. 2.2. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay: Nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế tồn tại, hoạt động đan xen lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển hoá trong quá trình phát triển. Thành phần kinh tế Nhà nước có vai trò mở đường dẫn dắt cho nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế, cần phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế Nhà nước lên nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu bền. Phát huy lợi thế nguồn vốn lớn từ ngân sách; lực lượng đào tạo chuyên sâu về trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật; trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại; quan hệ kinh tế rộng lớn trong và ngoài nước, kinh tế Nhà nước có chức năng tạo lập cơ sở vật chất hạ tầng, sản xuất các hàng hoá dịch vụ công cộng, hỗ trợ, chi phối các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên vai trò chủ đạo ở đây không có nghĩa là chiếm tỷ trọng lớn mà để giữ vai trò này thành phần kinh tế Nhà nước phải nắm được những ngành then chốt, những lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp nặng, giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng ... Trong hơn 10 năm đổi mới, thành phần kinh tế nhà nước thực sự trở thành thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, làm đầu tầu trong quá trình phát triển nền kinh tế nước nhà.
  9. chương II Thực trạng của thành phần Kinh tế Nhà nước ở Việt nam hiện nay. 1. Vai trò của kinh tế nhà nước trước thời kỳ đổi mới: Những năm trước giải phóng do điều kiện lịch sử lúc đó cho nên cơ chế quản lý kinh tế của nước ta được sao chép gần như nguyên vẹn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lý kinh tế của các nước XHCN với điển hình là Liên Xô cũ. Cơ chế quản lý kinh tế của nước ta trong giai đoạn này đề cao công cụ kế hoạch hoá, kế hoạch hoá mang tính pháp lệnh bắt buộc mọi ngành mọi cấp mọi cơ quan đơn vị và các nhân phải tuân theo thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch để quyết định tất cả các vấn đề kinh tế xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp mang những đặc điểm cơ bản: - Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều này được thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do Trung Ương giao bằng một hệ thống chi tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Các doanh nghiệp, xí nghiệp cố gắng hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra, lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù, không kinh tế. - Các cơ quan hành chính - kinh tế cấp trên can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. - Bỏ qua quan hệ hàng hoá tiền tệ, hiệu quả kinh tế quản lý và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó
  10. hoạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức bao cấp qua giá, bao cấp qua tièn lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất với người được cấp phát vốn. Đi từ những đặc điểm trên dẫn tới bộ máy quản lý rất cồng kềnh có nhiều cấp trung gian và kém năng động từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý thông thạo nghiệp vụ kinh doanh nhưng phóng cách thì quan liêu cửa quyền. Song trong thời kỳ chiến tranh cơ chế này đã động viên tích cực lượng tình nguyện lên đường chiến đấu, họ yên tâm hơn bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo mức lượng thực, họ vững tin vào sản xuất chiến đấu phục vụ sản xuất. Sau ngày chiến tranh kết thúc, áp dụng cơ chế này không còn phù hợp ở Việt Nam, điều này chúng ta chưa nhận ra nên trong suốt một thời gian dài cơ chế cũ đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta gây nhiều tác hại xấu cho cộng đồng. Do có sự bình quân về phân phối nên đã không khuyến khích được người sản xuất phát huy được khả năng sáng tạo, sự năng động hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì có sự bao cấp của nhà nước, bao tiêu sản phẩm nên sản phẩm sản xuất ra với chất lượng kém, làm ăn lãng phí, chi phí đầu ta cao nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp. Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu sự linh hoạt nhạy bén với thị trường dẫn đến tình trạng sản xuất không phù hợp với tiêu dùng. Công nghệ kỹ thuật chậm cải tiến, chi phí rất cao mà chất lượng rất thấp. Cung cách hoạch toán mang tính hình thức phô trương tình trạng “lãi giả, lỗ thật”. Tóm lại cơ chế cũ đã tích cực đóng góp những xu hướng tiêu cực làm nảy sinh sự trì trệ cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề được đặt ra đó là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới của nước ta được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đai hội Đảng VII khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Thực tế, nhiều chỉ thị, quyết
  11. định dần được ban hành: chế độ khoán sản phẩm đến tay người sản xuất đã được thực hiện, nhà nước điều chỉnh biểu thuế, giá thu mua nông sản của nông dân - Nhà nước trao quyền tự do về tài chính, sản xuất kinh doanh tự hoạch toán cho các cơ sở các xí nghiệp. 2. Những thành tựu của kinh tế Nhà nước đạt được trong hơn 10 năm đổi mới : Thực hiện hiện đúng đường lối chủ trương chỉ đạo qua các Đại hội Đảng VI ,VII, VIII và gần đây nhất là Đại hội Đảng XI, kinh tế Nhà nước nói chung, DNNN nói riêng đã được sắp xếp lại một bước khá căn bản, đã giảm quá nửa số doanh nghiệp (những doanh nghiệp nhỏ và yếu kém), những doanh nghiệp còn lại được củng cố một bước. Cơ chế quản lý được hình thành ngày càng hoàn thiện giúp các doanh nghiệp chuyển đổi và thích nghi dần với các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế. Từ 1990 đến nay nước ta đã tiến hành 3 lần tổ chức sắp xếp lại hệ thống DNNN. Lần thứ nhất (1990 - 1993), tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh với mục tiêu thay thế nền kinh tế kế hoạch mang tính hành chính bằng một nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết quả sắp xếp trong giai đoạn này về số lượng đã cắt giảm 1/2 số doanh nghiệp Nhà nước, về mặt kinh tế đã có sự thay đổi căn bản trong tư duy kinh tế: doanh nghiệp Nhà nước lấy lợi nhuận làm mục tiêu cơ bản, nhưng vẫn đảm nhận vai trò làm hình mẫu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cả hai khâu sản xuất và lưu thông phân phối; DNNN không còn bị bó hẹp kinh doanh theo ngành và lãnh thổ; DNNN bắt đầu biết đến khái niệm cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trên thị trường. Đổi mới DNNN lần thứ hai (1994-1997), Chính phủ tiến hành thành lập các DNNN với tổng vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước, đó là các tổng công ty 91, tổng công ty 90. Việc sắp xếp này đã hình thành các Tổng công ty Nhà nước chi phối được những ngành kinh tế quan
  12. trọng như điện năng, dịch vụ bưu chính viễn thông, hàng không, vận tải đường sắt, viễn dương, giao thông vận tải, xây dựng.... Một số tổng công ty đã trở thành hạt nhân của những tập đoàn kinh tế đa ngành. Cuộc đổi mới DNNN lần thứ ba, thực hiện hạ cấp sở hữu thông qua giao bán, khoán, cho thuê, chuyển thành công ty cổ phần đối với các DNNN không có vai trò then chốt cần Nhà nước nắm giữ, vốn sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh không có hiệu quả... Hiện nay doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được tổ chức lại theo hình thức và cơ cấu: 17 tổng công ty 91, 76 tổng công ty 90 và trên 4.000 doanh nghiệp Nhà nước độc lập. Đến năm 2000, cả nước đã sáp nhập hơn 3.000 doanh nghiệp, giải thể khoảng 3.500 doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), cổ phần hoá gần 400 doanh nghiệp Nhà nước. Nhờ vậy trình độ tích tụ và tập trung vốn trong DNNN được nâng lên. Số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm đáng kể và số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng tăng từ 10% lên 20% từ năm 1994- 1998; sản xuất kinh doanh phát triển và hiệu quả được nâng lên rõ rệt. Từ những kết quả mà nền kinh tế đạt được trong năm 2000 như : tăng trưởng GDP 7%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%, giá trị sản xuất các ngành công nghiệp tăng 14%, lạm phát giảm xuống mức không quá 5%... Trong đó, riêng khu vực kinh tế Nhà nước chiếm 40% GDP, đóng góp gần 40% tổng nộp Ngân sách nhà nước và trên 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thành phần kinh tế Nhà nước đã thực sự chứng tỏ vai trò chủ đạo, chi phối và thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển theo đúng quỹ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới đây là những số liêu thống kê về cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá trị hiện hành theo thành phần kinh tế Đơn vị: % STT Các thành phần 1995 1997 1998 1999 2000
  13. Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 1 Kinh tế nhà nước 40,18 40,48 40,00 38,74 38,98 2 Kinh tế tập thể 10,06 8,91 8,90 8,84 8,53 3 Kinh tê tư nhân 3,12 3,38 3,41 3,37 3,30 4 KTế cá thể tiểu chủ 36,02 34,32 33,83 32,39 32,03 5 Kinh tế hỗn hợp 4,32 3,84 3,83 3,89 3,90 6 KTế có vốn đtư NN 6,30 9,07 10,03 13,24 13,25 Từ những số liệu cụ thể trên chứng tỏ thành phần kinh tế Nhà nước thực sự có vai trò chi phối, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển đúng quỹ đạo, góp phần vào việc tăng cường vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam. 2. Những tồn tại và hạn chế của kinh tế Nhà nước. Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc vượt qua khủng hoảng triền miên kéo dài hàng chục năm, từ năm 1991 đến nay nền kinh tế bắt đầu có sự tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước. Tuy nhiên khó khăn và thách thức vẫn đang còn lớn, điển hình là nền kinh tế nước ta vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé,kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, năng suất, chất lượng và hiệu quả còn rất thấp. Biểu hiện cụ thể ở những mặt sau: - Sự phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước còn nhỏ bé về quy mô và dàn trải về ngành nghề. Nhiều doanh
  14. nghiệp cùng loại hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong chính khu vực kinh tế nhà nước với nhau. Doanh nghiệp Nhà nước còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, du lịch, dịch vụ gây tình trạng phân tán, manh mún về vốn trong khi vốn đầu tư nhà nước rất hạn chế, gây chi phối, xé lẻ các nguồn lực kể cả hoạt động quản lý nhà nước, không thể tập trung vào những ngành, lĩnh vực chủ yếu, then chốt. - Trình độ kỹ thuật, khoa học công nghệ còn lạc hậu dẫn đến năng lực cạnh tranh kém và thua thiệt trong hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc tế. Hầu hết trong khu vực kinh tế Nhà nước mà đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước có máy móc, thiết bị nhập khẩu từ nhiều nước, thuộc nhiều thế hệ, chủng loại khác nhau. Có nhiều ý kiến cho rằng nhiều hệ thống dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị của nước ta lạc hậu so với khu vực và thế giới từ 10 - 30 năm. - Cơ chế thị trường đang ở giai đoạn sơ khai mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý của Nhà nước còn thấp và chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vì vậy nên khả năng tự ý thức chưa cao, bởi lệ thi hành chưa nghiêm túc. Công tác kế hoạch hoá còn yếu kém, hệ thống Ngân hàng còn tiêu cục, chế độ phân phối chưa hợp lý, thực hiện tuỳ tiện chưa thống nhất. - Trong khu vực kinh tế Nhà nước đang tồn tại hiện tượng thiếu việc làm, số lao động dư thừa lớn. Thực trạng hoạt động các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số các doanh nghiệp Nhà nước, số doanh nghiệp còn lại liên tục lỗ trong nhiều năm, hoặc có lãi mang tính chất tượng trưng về số liệu, lãi giả lỗ thật. Một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước tạo được tỷ lệ lợi nhuận thấp hơn so với đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tỷ lệ tăng trưởng đóng góp của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vào GDP tăng không đáng kể trong thời gian vừa qua trong khi đó ngân sách Nhà nước liên tục phải cấp vốn cho đầu tư xây dựng, cấp bổ sung vốn lưu động, bù lỗ, hỗ trợ giảm bớt khó khăn về tài chính
  15. cho các DNNN. Đồng thời, Nhà nước còn phải miễn giảm thuế, xoá nợ, khoanh nợ, miễn giảm lãi cho các doanh nghiệp Nhà nước. Theo đánh giá hiện nay chỉ có 40% doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kinh doanh thực sự hiệu quả, 40% chưa hiệu quả, khi lỗ khi lãi, không ổn định, còn lại 20% hoạt động thực sự chưa hiệu quả, thua lỗ liên tục. Những hạn chế đó là do những nguyên nhân chủ yếu sau: - Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được xoá bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại không thể giải quyết trong một sớm một chiều. - Nhận thức chưa thống nhất và chưa đầy đủ về chủ trương sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Nhiều vấn còn đề chưa rõ, chưa được tổng kết thực tiễn để có giải pháp kịp thời và nhất quán như: quyền quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước; quyền chủ sở hữu nhà nước; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và chủ động kinh doanh của doanh nghiệp ... - Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, người lao động trong DNNN nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. - Cải cách hành chính tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn kém, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. - Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp Nhà nước nói chung còn chưa đáp ứng với yêu cầu, một bộ phận không nhỏ kém năng lực, phẩm chất và tinh thần thiếu trách nhiệm, thêm vào đó công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế còn nhiều điều bất cập.
  16. - Sự thiếu kiên quyết trong việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong đổi mới và phát triển thành phần kinh tế Nhà nước. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, hạ cấp sở hữu thông qua giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước còn chậm. Vẫn còn tồn tại hàng nghìn doanh nghiệp có vốn sở hữu rất nhỏ, còn rất nhiều doanh nghiệp “chết mà chưa chôn” đã làm trì trệ nền kinh tế. Từ một số lý luận cơ bản về kinh tế nhà nước và thực trạng thành phần kinh tế nhà nước tại nước ta hiện nay trên cơ sở đó đáng giá chung về thành tựu cũng như hạn chế nguyên nhân của thực trạng đó, phần sau của tiểu luận đề cập tới một số giải pháp cơ bản nhẵm tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường chương III Quan điểm và một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo Kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với thành phần kinh tế Nhà nước. Tại Hội nghị lần III Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta đã khẳng định phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế Nhà nước mà đặc biệt là hoạt động của các DNNN. Phân tích sâu sắc những mặt tích cực và những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân của tình hình qua thực tiễn sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước ta cần phải hiểu và nắm rõ : - Kinh tế Nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong đó DNNN ( gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối) phải không
  17. ngừng được đổi mơí, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế . - Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu nhưng không nhất thiết là phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. - Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. - Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp. - Nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn trước mắt là hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu lại và đổi mới hoạt động DNNN hiện có, phân định rõ các loại doanh nghiệp để có chính sách giải pháp phù hợp; thực hiện sáp nhập, khoán kinh doanh, cho thuê hoặc giao, bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp Nhà nước quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài không cổ phần hoá được và Nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, bảo đảm việc làm, thu nhập, quyền lợi hợp pháp của người lao động. - Đổi mới kinh tế Nhà nước theo phương hướng trên một mặt phải đảm bảo khắc phục sự trì trệ, kém hiệu quả của nền kinh tế, mặt khác tránh tình trạng tư nhân hoá tràn lan nền kinh tế, không kiểm soát. 2. Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo Kinh tế Nhà nước: Với thực tế hiện nay, kinh tế Nhà nước chưa thật sự đáp ứng được vai trò này trên các mặt hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý tổ chức cũng như phương thức phân phối. Đồng thời, việc đổi mới, phát triển kinh tế Nhà nước chưa
  18. thật sự có những chuyển biến đáng kể. Hiện nay kinh tế Nhà nước đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Quán triệt tinh thần Nghị quyết cảu Đại hội Đảng IX đề ra đó là cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đổi mới, phát triển kinh tế Nhà nước, phân loại, sắp xếp lại hệ thống DNNN, tìm ra giải pháp, phương hướng đổi mới kinh tế Nhà nước nhằm tăng cường vai trò chủ đạo Kinh tế Nhà nước đang là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu, giải quyết. Sau đây là một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò chủ đạo Kinh tế Nhà nước như sau: 2.1.Định hướng phát triển và chấn chỉnh lại một bước việc phân loại DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh. - Xác định lại các doanh nghiệp công ích cần thiết hoạt động không vì mục đích lợi nhuận là chính, dù thua lỗ vẫn cần duy trì tồn tại để có chính sách cơ chế phù hợp bù lỗ, tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được đầu tư, đảm bảo mục tiêu chính trị – xã hội, định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong từng thời kỳ Nhà nước xem xét, điều chỉnh định hướng phân loại cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. - Đối với các doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận cần tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động, hình thành những doanh nghiệp mạnh toàn diện, làm nòng cốt cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước như dầu khí, điện, than, hàng không, ngân hàng...Các doanh nghiệp này đi đầu về bảo đảm xã hội, phát huy giúp đỡ các thành phần kinh tế và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội bằng tính chất xã hội chủ nghĩa của mình, tạo ra sự biến chuyển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Thực hiện giải pháp này nhằm mục đích tập trung nguồn lực để chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: bưu điện, điện lực, ngân
  19. hàng, tài chính, bảo hiểm, các trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ lớn... làm lực lượng chủ đạo để đảm bảo các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô; cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự than gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại. Trước mắt thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng ... Đây đang là giải pháp có tính chất bước ngoặt để nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế Nhà nước. 2.3. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể, phá sản DNNN. - Đẩy mạnh hơn nữa công tác cổ phần hoá DNNN theo nhiều mức độ, thực hiện đa dạng hoá sở hữu tạo động lực cho các chủ thể kinh tế, tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Song cổ phần hoá DNNN không được biến thành tư nhân hoá DNNN. - Đối với các DNNN nhỏ, những DNNN không có vai trò quan trọng, làm ăn thua lỗ, cần dứt điểm xử lý như chuyển hình thức sở hữu, bán, giao, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể hoặc phá sản theo luật phá sản công ty. 2.4.Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và sửa đổi bổ sung về cơ chế chính sách.
  20. - Cần xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn, sự điều tiết của Nhà nước có tính chất độc quyền, hoặc cơ quan chức năng ổn định thị trường, giá cả để đảm bảo công bằng, tạo môi trường cạnh tranh, phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế. Nghiên cứu, áp dụng các hình thức tổ chức quản lý trong các DNNN. Tăng cường hoạt động của kinh tế Nhà nước trong phân phối lưu thông, xây dựng văn minh thương nghiệp và đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. - Phân định rõ quyền của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với DNNN - Đào tạo nguồn nhân lực trong khu vực kinh tế Nhà nước cần có cơ chế, chính sách và đầu tư thoả đáng cho công tác đào tạo và đào tạo lại, tuyển dụng và đãi ngộ hợp lý để sớm hình thành độ ngũ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý lãnh đạo doanh nghiệp giỏi, năng động, sáng tạo đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hoạt động kinh doanh trong môi trường quốc gia và quốc tế luôn biến động. - Từng bước bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách, hình thành khung pháp lý đồng bộ, tạo lập môi trường kinh tế bình đẳng trong cơ chế thị trường cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó DNNN phát huy được đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, lành mạnh tài chính doanh nghiệp, giải quyết cơ bản nợ tồn đọng không có khả năng thanh toán và lao động dôi dư, đổi mới và hiện đại hoá một bước quan trọng công nghệ và quản lý của đại bộ phận DNNN.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2