intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

263
lượt xem
77
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quá trình mở cửa, giao lưu hợp tác quốc tế đã tạo cho cán bộ lãnh đạo tiếp cận với văn hoá, văn minh của nhân loại, góp phần nâng cao hiểu biết, nâng cao sự nhạy cảm trong giao tiếp ứng xử và đánh giá các mối quan hệ và các sự kiện trong cuộc sống. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, văn hoá chính trị có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức và thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Khăm Muộn nói riêng và Cộng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình mở cửa, giao lưu hợp tác quốc tế đã tạo cho cán bộ lãnh đạo tiếp cận với văn hoá, văn minh của nhân loại, góp phần nâng cao hiểu biết, nâng cao sự nhạy cảm trong giao tiếp ứng xử và đánh giá các mối quan hệ và các sự kiện trong cuộc sống. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, văn hoá chính trị có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức và thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Khăm Muộn nói riêng và Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào nói chung. VHCT được xây dựng và phát triển sẽ giúp cho Đảng Nhân dân Cách mạng Lào với tư cách là Đảng cầm quyền nâng cao năng lực lãnh đạo, phát huy tiềm lực trí tuệ và tư tưởng của Đảng, làm cho Đảng vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ, nâng cao được uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong xã hội. Nhờ đó, Đảng có thể khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội. Bằng cách đó VHCT có tác dụng rất quan trọng để xây dựng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đồng thời vượt qua được những thách thức và nguy cơ để phát triển trong bối cảnh hiện nay. Do vậy, việc làm cho VHCT thấm sâu vào nội dung, phương pháp xây dựng Đảng về mọi mặt mà thực chất của quá trình này chính là hình thành và phát triển VHCT của Đảng, nhân cách của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo. Văn hoá chính trị với tác dụng và hiệu quả của nó còn góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả của quản lý nhà nước và hoạt động của hệ thống chính trị, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá xã hội, phát triển cơ sở xã hội của chế độ chính trị. Nhờ nâng cao VHCT mà các cán bộ lãnh đạo phát huy được những tiềm năng sáng tạo, đấu tranh chống quan liêu tham nhũng để bảo vệ Đảng, nhà nước và chế độ khỏi sự tha hoá, biến dạng. VHCT một khi thâm nhập vào đời sống và trở thành phổ biến, trước hết ở sự gương mẫu của cán bộ lãnh đạo về sự trong sạch của thể chế, sau đó là trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng, khả năng làm chủ và tham gia vào các hoạt động quản lý nhà
  3. nước, sẽ thể hiện được vai trò mục tiêu và động lực của nó đối với sự phát triển ở tỉnh Khăm Muộn. Thực tế ở tỉnh Khăm Muộn hiện nay: sau 23 năm thực hiện đổi mới ở Lào, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, V, VI, VII và các Nghị quyết khác, bằng mọi hình thức đã góp phần nâng cao tri thức chính trị của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, chẳng hạn như đào tạo ngắn hạn và dài hạn, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin cũng như đường lối, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên so với yêu cầu của thời đại, cán bộ lãnh đạo của Tỉnh còn thiếu về lý luận, trình độ lý luận còn thấp. Trong hoạt động chính trị thực tiễn có nhiều vấn đề bức xúc, một số bộ phận cán bộ ý thức tự học, phấn đấu giảm sút, ý thức tổ chức kỷ luật yếu, có tư tưởng phe phái, họ hàng, bạn bè cục bộ trong công việc. Những tri thức và kỹ năng lãnh đạo, quản lý của một số cán bộ ở cấp tỉnh đến huyện còn yếu, có tình trạng thiếu gương mẫu trong lối sống, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, giảm sút tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho. Do vậy, việc nghiên cứu, nhận thức về văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của tỉnh, trên cơ sở đó nâng cao trình độ VHCT cho đội ngũ này sẽ góp phần trực tiếp tới sự ổn định và phát triển của tỉnh Khăm Muộn, góp phần đảm bảo cho sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tới thắng lợi với những mục tiêu mà Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đặt ra. Với ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần nhận thức lại thực trạng VHCT ở tỉnh Khăm Muộn, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của văn hoá chính trị trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Văn hoá Chính trị là một nội dung khá mới trong khoa học xã hội và nhân văn nói chung cũng như trong chính trị học nói riêng. Từ khi ra đời, nó đã thu hút được mối quan tâm của các học giả, các nhà hoạt động chính trị - xã hội ở nhiều nước trên thế giới và ngày càng trở thành một chủ đề được tranh luận sôi nổi. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đề cập rất nhiều nội dung căn bản của VHCT. Hàng loạt các công trình nghiên cứu được công bố những năm gần đây thể hiện rõ điều này.
  4. Tiêu biểu là các tác phẩm: - “Phương pháp luận về vai trò của văn hoá trong phát triển”, GS Vũ Khiêu chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993. - “Văn hoá và đổi mới”, Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. - “Vai trò của văn hoá trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay”, GS.TS Trần Văn Bính chủ biên, Nxb Lao động, Hà Nội, 1996. - “Văn hoá Chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay”, PGS.TS Phạm Ngọc Quang chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Xu thế chung của các nhà khoa học gần đây là nhấn mạnh vai trò tác động của văn hoá đối với sự phát triển của các quốc gia, các dân tộc, trước hết là tác động đến hoạt động chính trị của hệ thống chính trị. Có thể nói rằng: tác phẩm bàn sâu vào lĩnh vực văn hoá chính trị ở Việt Nam là tác phẩm: “Văn hoá chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” do PGS.TS Phạm Ngọc Quang chủ biên, 1995. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập khá toàn diện khái niệm, cấu trúc, chức năng, đặc điểm của VHCT, đồng thời khái quát thực trạng VHCT hiện nay ở Việt Nam và tác động của VHCT đối với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay. Ở CHDCND Lào, các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã bàn về nội dung liên quan đến VHCT ở Lào, đó là các tác phẩm của ông Cay Xỏn Phôm Vi Hản: “Nước Lào đang tiến bước trên con đường vẻ vang của thời đại”, Nxb Neo Lào Hắc Xạt, 1975; “Đất nước Lào, lịch sử và văn hoá” của GS. Lương Ninh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; “Tính dân tộc của văn hoá Lào” của Bua Ban Vola Khun, 1998 và tác phẩm “Sự hình thành của các dân tộc Lào” của Bun Mi Thệp Si Mương, 2006. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều nội dung khác nhau của văn hóa chính trị, Văn hóa chính trị Việt Nam, Văn hóa chính trị Lào. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu về văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo Lào nói chung và văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn nói riêng. Vì vậy, trên cơ sở tiếp nhận, kế thừa các thành tựu nghiên cứu của các tác giả Việt Nam và Lào, tác giả đi sâu vào nghiên cứu “Văn hoá chính trị của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn hiện nay”.
  5. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Luận văn nhận diện những đặc trưng, thực trạng VHCT của cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn, đồng thời đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao VHCT của đội ngũ cán bộ này. * Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tiến hành thực hiện các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hoá lý luận chung về VHCT. - Phân tích thực trạng VHCT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở tỉnh Khăm Muộn và yêu cầu đặt ra trong điều kiện hiện nay. - Xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng VHCT của người cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Luận văn chỉ tập trung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị trung, cao cấp trong các tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở tỉnh Khăm Muộn. - Giới hạn thời gian nghiên cứu được xác định theo tiến trình đổi mới đất nước (từ 1986 đến nay). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp logic - lịch sử, phương pháp thống kê và so sánh, phân tích và tổng hợp. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Góp phần xác lập những tiêu chí khoa học trong cấu trúc văn hoá chính trị của người cán bộ lãnh đạo tỉnh Khăm Muộn.
  6. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng cao VHCT của chủ thể chính trị này. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập trong các chuyên ngành khoa học như: Chính trị học, Văn hoá học, Nhà nước pháp luật ở Việt Nam và Lào. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương, 8 tiết.
  7. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ 1.1. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ Để tiếp cận được khái niệm VHCT một cách cơ bản, bản chất nhất, chúng ta cần phải hiểu các khái niệm văn hoá, chính trị. Khái niệm văn hoá Thuật ngữ “văn hoá” xuất hiện từ lâu trong ngôn ngữ của nhân loại, xuất phát từ chữ Latinh “Cultus”, nghĩa gốc là “trồng trọt”, được dùng theo hai nghĩa “Cultus agri” là “trồng trọt ngoài đồng” và “Cultus animi” là “trồng trọt tinh thần”. Như vậy, nguồn gốc thuật ngữ văn hoá có liên quan đến lao động, hoạt động tích cực cải tạo con người, tức là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người, “trồng người”. Dựa vào sự phân tích quá trình hoạt động thực tiễn của xã hội loài người trong lịch sử, A.I. Ácnônđốp cho rằng: Văn hoá là hiện tượng phức tạp và đa diện. Nó bao gồm cả hoạt động sáng tạo, tức là toàn bộ quá trình sản xuất ra tư tưởng và vật chất hoá các tư tưởng đó; cả những tính cách của con người như một chủ thể hoạt động; và cả bản thân nội dung những giá trị vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình hoạt động ấy. Một định nghĩa thoả đáng về văn hoá cần phải bao hàm tất cả các mặt trên cơ sở đó, A.I. Ácnônđốp đưa ra một định nghĩa khái quát sau đây. Văn hoá là hoạt động sáng tạo tích cực của con người (cá thể, nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung) thực hiện trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần, nhằm nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất, bảo quản, phân phối, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa xã hội. Đồng thời nó là một tổng hợp chính những giá trị đã vật thể hoá hoạt động sáng tạo đó của người [8, tr.33] với cái nhìn bao quát các nền văn hoá, các giá trị văn hoá trên thế giới. Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor quan niệm: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế hệ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [9, tr.32].
  8. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hoá gắn liền với sức sáng tạo và năng lực của con người và sức sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Theo Mác, căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người khai thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hoá chung của con người. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, văn hoá cũng được hiểu theo nhiều góc độ nhau: văn hoá là toàn bộ hiểu biết của con người tích luỹ được trong quá trình hoạt động thực tiễn - lịch sử, được đúc kết lại thành các giá trị và chuẩn mực xã hội, gọi chung là hệ giá trị xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hoá và hệ thống ứng xử văn hoá của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con người sống trong cộng đồng xã hội. Văn hoá là một trong bốn lĩnh vực hoạt động sống của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Như thế, văn hoá là một bộ phận của đời sống con người - lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Văn hoá là một hệ thống giá trị xã hội, biểu hiện và phát triển những năng lực bản chất của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên - xã hội và làm chủ bản thân. Những năng lực ấy được thể hiện trong hoạt động sáng tạo của con người và trong những kết quả của hoạt động đó, nhằm thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của cá nhân và xã hội theo hướng Chân - Thiện - Mỹ. Với nghĩa rộng của thuật ngữ văn hoá, trong thời gian qua nhiều tác giả đã nêu lên những quan niệm và có những cách diễn đạt riêng, song tựu trung lại có thể khái quát thành 4 nội dung cơ bản như sau: + Văn hoá theo nghĩa rộng bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. + Văn hoá hiểu theo nội dung bao gồm cả khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn hoá nghệ thuật. + Văn hoá đặt trong phạm vi nếp sống, lối sống, đạo đức, xã hội, văn hoá nghệ thuật. + Văn hoá xét từ vai trò của nó vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của sự phát triển xã hội, nó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước.
  9. Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, văn hoá được nghiên cứu từ luồng chuyển dịch cư dân Malay O - Pôlinêsian qua đất Lào. Nhưng những dấu tích còn lại đều cho biết từ khoảng thế kỷ VIII về trước. Nền tảng văn hoá ở Lào là nền tảng văn hoá của cư dân Môn - Khơme? Trên một nền tảng văn hoá Môn - Khơme, người Lào - Thái đã đem tới đây kỹ thuật trồng lúa nước và một thiết chế xã hội hết sức n ăng động, thiết chế bản - mường - liên mường, thêm vào đó là nét bao dung, tính ch ất hoà đồng của Phật giáo. Khi xem xét nền văn hoá của các tộc người Lào, các nhà nghiên cứu thường đặc biệt lưu ý đến ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo trong quá trình hình thành và phát tri ển văn hoá của n ước này. “ Phật giáo giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Lào”. Ngôi chùa có một vị trí rất quan trọng trong đời sống của cộng đồng bản (làng). Chùa là trường học, là bệnh viện, là nơi tu thân tích cực, là nơi hội hè đình đám, là nơi bảo tồn và phát triển văn hoá của cộng đồng. Các nhà nghiên cứu Lào nhấn mạnh : “Văn hoá là tổng hoà của sự kết nối giao tiếp và trí tuệ mà được xã hội đó kế thừa” [43, tr.3]. Trong quá trình phát triển, văn hoá Lào đã tiếp biến và giao lưu với các nền văn hoá khác. Thông qua các quốc gia của người Môn - Khơme, vương quốc Lạn - xạng của Lào đã tiếp nhận những yếu tố văn hoá Ấn Độ và ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa do chính dân cư Lào - Thái mang lại để xây dựng nên một nền văn hoá dân tộc độc đáo và đa dạng. Nhờ so sánh với văn hoá Việt Nam và các nước trong khu vực, các nhà nghiên cứu của Lào đã phát hiện ra cơ tầng Đông Nam Á trong văn hoá Lào và quá trình tích hợp văn hoá tộc người nhất là cư dân Môn - Khơ me và Lào Thái, những nhân tố cơ bản để hình thành nhà nước Lạn - xạng trong sự tiếp tục với văn hoá Ấn Độ tạo thành một nền văn hoá quốc gia dân tộc có cấu trúc gồm hai dòng: văn hoá bác học chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ trên biểu tầng qua người Môn, người Khơ me và văn hoá dân gian là dòng đã bảo lưu được những yếu tố bản địa dưới cơ tầng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng để tạo nên sắc thái riêng biệt của nền văn hoá Lào khác với người đồng tộc của họ ở Thái Lan.
  10. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã vạch ra đường lối văn hoá mới, nhằm xây dựng văn hoá có bản sắc dân tộc, nhân dân và tiến bộ “lịch sử bản sắc văn hoá Lào đã tồn tại và phát triển trong tiến trình gìn giữ và cải thiện đất nước qua nhiều thế hệ…” Tình đoàn kết của nhân dân các bộ tộc Lào đã trở thành văn hoá của người Lào, là chân lý không thể tách rời được. Trên cơ sở tổng hợp những quan niệm nêu trên, có thể hiểu về văn hoá như sau: Văn hoá là toàn bộ những thành quả hoạt động sáng tạo của con ng ười trong quá khứ và hiện tại, biểu hiện thành hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Hệ thống giá trị có khả n ăng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy. Các lĩnh vực đặc thù của đời sống hay của hoạt động con người cũng được thể hiện bằng các khái niệm văn hoá khác nhau, chẳng hạn, văn hoá lao động, văn hoá giao tiếp, văn hoá pháp quyền, văn hoá dân chủ… VHCT cũng được đề cập từ phương diện này. Khái niệm chính trị Chính trị xuất hiện từ khi xã hội phân chia thành giai cấp và hình thành nhà nước. Thuật ngữ chính trị xuất phát từ tiếng Hy Lạp “Politica” có nghĩa là những công việc liên quan tới nhà nước, là nghệ thuật cai trị nhà nước, là phương pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu của quốc gia. Trong lịch sử phát triển của xã hội, chính trị đã từng là lĩnh vực hoạt động, công cụ của những nhóm xã hội thống trị để buộc những người bị trị phải phục tùng và thực hiện lợi ích của họ. Chính trị được coi là đặc quyền của tầng lớp “bên trên”, thậm chí là của một “thiên tử”. Sau đó, do sự phát triển của tư tưởng dân chủ, chính trị trở thành công việc của đông đảo quần chúng. Mọi công dân đều có quyền tham gia vào chính trị, tham gia vào công việc của nhà nước và công việc quản lý xã hội. Mức độ và trình độ tham gia còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và công dân của từng nước. T ừ thời cổ đ ại cho đ ến nay, nhiều nhà t ư tư ởng đ ã đ ưa ra nhi ều quan niệm khác nhau về phạm trù chính trị. Platon, nhà triết học cổ đ ại Hy Lạp, đ ã xem
  11. c hính tr ị là “nghệ thuật cung đ ình”, liên k ết trực tiếp các chuẩn mực của ng ư ời a nh hùng và s ự thông minh, s ự l iên k ết đ ó đư ợc thực hiện bằng sự thống nhất t ư t ư ởng và tinh thần á i h ữu. Cũng theo ông, chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị b ằng sức mạnh là đ ộc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đ ích th ị là chính trị. Theo M ax W eber, n hà xã h ội học Đ ức đ ầu thế kỷ XX, chính trị là khát vọng tham gia vào quy ền lực hay ảnh h ư ởng đ ến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên t rong qu ốc gia, giữa các tập đ oàn ngư ời trong một quốc gia. Chính trị là những mong mu ốn và những t ương tác khác h quan c ủa cộng đ ồng ngư ời đ ối với quyền l ực, không phải là hoạt đ ộng đ eo đu ổi quyền lực. Xuất phát từ quan đ i ểm này, một số học giả khác hiểu chính trị là sự khôn khéo, khả n ăng đ ạt đ ư ợc sự phân c hia ch ức n ăng mà vẫn đ ảm bảo duy trì sự tác đ ộng qua lại củ a chúng. Tác gi ả c ủa cuốn: “Chính tr ị và Kinh tế Nhật Bản ” xem chính tr ị là hoạt đ ộng tìm kiếm n h ững khả n ăng áp đ ặt quyền lực chính trị. Các quan niệm trên, tuy có chứa một s ố nhân tố hợp lý nhất đ ịnh nh ưng chưa nêu đư ợc nội dung c ơ b ản nhất của p h ạm trù c hính tr ị. Chính trị là một thực thể tồn tại trong đ ời sống với những c ấp đ ộ khác nhau (cá nhân, cộng đ ồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) liên quan đ ến công việc nhà n ư ớc. Quan niệm đúng đắn và khoa học về chính trị là quan niệm của C.Mác và V.I.Lênin. Theo C.Mác, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp, giai cấp nào muốn nắm được chính quyền, xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, trước hết phải giành lấy chính quyền: Giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị, ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của giai cấp vô sản, thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu [7, tr.48]. C.Mác đã viết rằng: Tuyệt đối từ bỏ chính trị là không thể được; tất cả các tờ báo chủ trương từ bỏ chính trị cũng đều làm chính trị. Vấn đề chính là làm chính trị như thế
  12. nào và làm loại chính trị gì. Thực tiễn trong cuộc sống hiện đại, sự áp bức chính trị của chính phủ hiện tồn đối với công nhân nhằm mục đích chính trị cũng như xã hội đều buộc giáo dục công nhân dù muốn hay không cũng phải làm chính trị. Cổ vũ họ bỏ chính trị, có nghĩa là đẩy họ vào vòng tay của chính trị tư sản. Như vậy, bản chất giai cấp của hoạt động chính trị đã được C.Mác xác định rõ ràng: chính trị là hoạt động thực hiện lợi ích giai cấp. Nh ưng lợi ích giai cấp khác nhau thì mục tiêu chính trị cũng khác nhau. Theo V.I. Lêni n: “Chính trị có tính logic khách quan của nó, không phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của Đảng này hay Đảng khác” [16, tr.246]. Đây là một quan niệm khẳng định chính trị không phải hình thành theo ý muốn của mỗi người, mỗi Đảng, mà là gắn với điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Theo V.I.Lênin: phạm trù chính trị được biểu hiện ở các phương diện sau: Thứ nhất, chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết vì lợi ích giai cấp. Thứ hai, cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền, quyền lực nhà nước, là sự tham gia vào công việc nhà nước, định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước. Thứ ba, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước về kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Thứ tư, văn hoá là cơ sở để xây dựng nền chính trị tiến bộ. Thứ năm, chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Từ đó, có thể rút ra kết luận: chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các quốc gia trong vấn đề giành giữ, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà n ước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả n ăng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra. Đây là quan niệm tiếp cận chính trị từ hai phương diện cơ bản: chính trị với tư
  13. cách là quan hệ đặc biệt của các chủ thể chính trị liên quan tới vấn đề quyền lực chính trị và chính trị với tư cách là hoạt động xã hội đặc thù của các chủ thể chính trị có liên quan tới vấn đề nhà nước. Cùng với sự phát triển của hiện thực chính trị, những kinh nghiệm chính trị được tích luỹ ngày càng phong phú và sâu rộng. Người ta thấy rằng, một trong những động lực quan trọng tạo cho xã hội phát triển chính là văn hoá. Văn hoá là động lực của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển hiện thực chính trị. Nhu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động chính trị đã khái quát hoá kinh nghiệm chính trị thành lý luận chính trị, từ đó tạo điều kiện cho sự tìm tòi tiếp cận đúng về quan niệm văn hoá chính trị. Quan hệ văn hoá với chính trị Văn hoá và chính trị là hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu của xã hội loài người và có quan hệ hữu cơ với nhau, từ đó nảy sinh vấn đề chính trị trong văn hoá, chính trị với văn hoá và văn hoá trong chính trị. Thứ nhất, vấn đề chính trị trong văn hoá: văn hoá và tư tưởng là cặp phạm trù sinh đôi, mà chính trị là mặt trực tiếp của hệ tư tưởng. Như vậy, chính trị là bộ phận đặc thù trong văn hoá, phản ánh một lĩnh vực hoạt động phức tạp của xã hội thông qua sự in đậm dấu ấn của mình vào văn hoá theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào sự tiến bộ, cách mạng hoặc lạc hậu, phản động của chính trị. Sự biểu hiện nổi bật của chính trị trong văn hoá chính là sự tác động của chính trị vào cơ cấu văn hoá của cá nhân hay xã hội. Nó qui định tính giai cấp của các hoạt động và các hiện tượng văn hoá. Như vậy, văn hoá không thể không mang dấu ấn chính trị đặc biệt là khi xã hội còn phân chia giai cấp, còn đấu tranh dân tộc gắn liền với đấu tranh giai cấp. Xác định rõ đặc trưng này, trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tư tưởng và hoạt động cách mạng của mình đã khơi dậy và tạo được sự phát triển mạnh mẽ trong văn hoá Việt Nam, làm thay đổi về chất và nền tảng văn hoá Việt Nam thông qua việc xác lập các quan hệ giai cấp trong xã hội và xây dựng lại ý thức chính trị trong văn hoá theo hệ tư tưởng khoa học và cách mạng – đó là hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin. Có thể nói, xét trong mối quan hệ với văn hoá (chính trị trong văn hoá, chính trị với văn hoá) thì chính trị có vai trò kim chỉ nam, mà kim của nó luôn chỉ về sự sáng tạo và nhân văn.
  14. Cũng như ở Việt Nam, phương hướng phấn đấu, xây dựng nền văn hoá ở Lào phải hướng trực tiếp về nhân dân, là xây dựng nền văn hoá của dân, do dân, vì dân. Chính trị trong văn hoá chính là ở khía cạnh này. Chỉ khi giai cấp và đấu tranh giai cấp mất đi thì đấu tranh dân tộc mới mất đi, và khi ấy chính trị cũng sẽ không còn, sẽ chỉ còn sự khác biệt về dân tộc trong sự đa dạng và phong phú về văn hoá của nhân loại. Thứ hai, vấn đề văn hoá trong chính trị, văn hoá với chính trị: Mọi quan điểm và đường lối chính trị, công nghệ chính trị và nhân cách chính trị đều là sự thể hiện trình độ văn hoá của một giai cấp, một tổ chức, một cá nhân trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong sự phát triển của mình, chính trị chỉ được xem là văn hoá khi gắn với trình độ, năng lực sáng tạo tích cực của con người trong chính trị, thúc đẩy sự phát triển tiến bộ xã hội. Cùng với sự phát triển xã hội, văn hoá trong địa hạt chính trị đã được định hình như một vấn đề của nhận thức và thực tiễn khi nhà n ước bước vào giai đoạn hiện đại của nó. Ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, ngay từ những n ăm đầu hoạt động cách mạng và cho đến ngày nay, nhiều giá trị v ăn hoá của nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã và luôn là bó đ uốc soi đường, làm sáng tỏ nhận thức cách mạng Lào. Những con ng ười cách mạng với lý tưởng xã hội giải phóng áp bức, bóc lột đã hành đ ộng và ứng xử hoàn toàn khác với nền văn hoá phong ki ến và t ư sản. Văn hoá tạo khả năng cho các dân tộc bị áp bức xây dựng tình đoàn kết, vùng dậy với sức mạnh, khả năng sáng tạo và lòng dũng cảm để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để ai cũng hiểu và thấm nhuần lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do, phải làm thế nào cho toàn thể quốc dân có tinh thần vì n ước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Đồng thời, phải giúp cho nhà lãnh đạo quản lý và người cầm quyền thực thi quyền lực thông qua các giá trị văn hoá, đảm bảo các giá trị nhân văn thẩm thấu trong lãnh đạo cầm quyền, trong ứng xử với quần chúng nhân dân, đảm bảo cho chính trị và quyền lực chính trị không bị tha hoá, không bị biến dạn g… Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ chí Minh nói rằng: “Văn hoá nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà phải trong kinh tế và chính trị” [ 23, tr.368 - 369].
  15. Nói tóm lại, văn hoá với chính trị có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Văn hoá phục vụ chính trị, văn hoá đi vào chính trị với tính cách là động lực và mục tiêu của hoạt động chính trị; chính trị lãnh đạo văn hoá, chính trị gắn liền với văn hoá và sự tồn tại của chính trị khi nó còn là mặt hợp lý trong văn hoá; văn hoá và chính trị thống nhất hữu cơ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Khái niệm văn hoá chính trị Văn hoá chính trị là một bộ phận, một phương diện văn hoá, xuất hiện trong lịch sử cùng với sự xuất hiện xã hội có giai cấp. Tuy nhiên, khái niệm văn hoá chính trị mới được bàn luận nhiều ở thời kỳ hiện đại với tư cách là một khái niệm khoa học. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá chính trị. Điều đó có nguyên nhân là do văn hoá chính trị vốn là một hiện tượng xã hội đa diện, phong phú, phức tạp. Mặt khác, các nhà nghiên cứu lại nhìn nhận văn hoá chính trị ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Khi đưa đạo đức trở thành vấn đề trung tâm học thuyết chính trị của mình, Nho giáo đã mở đầu cho truyền thống tiếp cận văn hoá chính trị trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Mệnh đề “việc chính trị cốt ở chính tâm của người trị dân” [17, tr.429] là mệnh đề bất hủ của Khổng Tử. Khổng Tử rất tin ở sức hấp dẫn và sự tác động của đạo đức. Lòng tin ấy còn biểu hiện rõ ở câu: “Dùng đức là làm chính (chính trị) cũng ví như ngôi sao Bắc cực, ở yên trên vị trí của mình mà các tinh tú đều châu vào” [20, tr.6]. Người Trung Hoa hay nói “văn trị”, tức muốn nói đến chính trị phải gắn với văn hoá, chính trị cai trị bằng “văn” hướng đến cách cai trị đẹp. Tiếp nối truyền thống đó, Mạnh Tử đề ra tư tưởng “văn trị giáo hoá” (chính trị gắn với giáo dục) “chính giỏi không thể tranh thủ được dân bằng giáo giỏi. Chính giỏi thì dân sợ, giáo giỏi thì dân yêu. Chính giỏi thì được của cải của thiên hạ, của dân; giáo giỏi thì được lòng dân” [19, tr.308]. Khi đề cao đạo đức, Nho giáo đồng thời cũng trao vinh dự và trách nhiệm cao nhất cho những người “bên trên”, những người “quân tử” “hiền” “trí” “lao tâm”. Đó là những người đưa đường chỉ lối cho thiên hạ, làm mẫu mực, nêu gương sáng cho “bên dưới”, cho những “tiểu nhân” “lao lực”. Để làm tròn trách nhiệm và xứng đáng với danh dự ấy. Nho giáo yêu cầu “kẻ cai trị” phải phát huy đúng đắn vai trò của mình đối
  16. với bên dưới bằng hai cách chủ yếu, một là giáo, hai là chính trong một thể thống nhất của hoạt động chính trị. N gày n ay, các học giả hiện đại coi Platon, Arixtot là nh ững người mở đầu cho cách tiếp cận văn hoá chính trị trong truyền thống v ăn hoá phương Tây, “khi các ông đ ều coi các quan điểm, thái đ ộ cơ b ản của con người đối với quyền lực, đối với việc làm thế nào để quản lý các mối quan hệ xã hội và đối với vai trò của chính thể với người dân là hết sức quan trọng” [ 1 8 , tr.364]. Học thuyết chính trị - xã hội của Platon đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhà nước cùng với nó là các nhà triết học với tư cách là những người cầm quyền. Theo ông, con người chỉ có thể hoàn thiện nhân cách trong một nhà nước được tổ chức một cách hợp lý. Mục đích của triết học là xây dựng một nhà nước lý tưởng và hoàn thiện trong đó những nhà triết học đóng vai trò quan trọng. Theo Platon, đó là những con người mà lý tính đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động. Họ luôn hướng tới cảm thụ cái đẹp và trật tự các ý niệm, khát vọng vươn tới phúc lợi tối cao, tới sự thật và công lý. Họ có thể đảm nhận được vai trò lãnh đạo, trị vì xã hội trong nhà nước lý tưởng. Arixtot coi con người là “động vật chính trị”, muốn nói đến vai trò chính trị trong việc xác định tư cách tồn tại của con người và cũng vì thế mà mục đích cao nhất của chính trị là làm sao để mọi người có thể sống và sống tốt hơn. Sứ mệnh của nhà nước, của những nhà cầm quyền không chỉ bảo đảm cho mọi người sống bình thường, mà còn phải làm sao để cho con người sống hạnh phúc. “Mục đích của nhà nước là cuộc sống phúc lợi…, bản thân nhà nước là sự giao thiệp của các gia tộc và dân cư nhằm đạt được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập” [17, tr.207], tức là đạt được một cuộc sống ưu việt, mà theo ông không chỉ về phương diện của cải vật chất mà còn là đảm bảo công lý. Alexis de Tocqueville được xem là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu về văn hoá chính trị ở Mỹ và các nước phương Tây hiện đại khi ông đưa các giá trị và văn hoá lên vị trí hàng đầu trong sự phân tích nổi tiếng của mình về dân chủ ở nước Mỹ. A.Tocqueville xem tục lệ như là “toàn bộ tình trạng đạo đức và trí tuệ của mỗi người” và ông đã đặc biệt quan tâm đến các tục lệ chính trị, những “thói quen tình cảm” và “thói quen tinh thần” đã giúp cho việc hình thành nên hành vi chính trị của người Mỹ.
  17. Thậm chí ông đã viết rằng: “Pháp luật sẽ luôn bị lung lay khi không được các tục lệ hỗ trợ”. Việc nghiên cứu văn hoá chính trị như một lĩnh vực nghiên cứu tương đối độc lập bắt đầu từ những năm 1950 của thế kỷ XX. Thuật ngữ văn hoá chính trị lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1956. Công lao của việc tách riêng lĩnh vực nghiên cứu này và nâng nó lên sự thừa nhận khoa học thuộc về hai nhà chính trị học người Mỹ là G. Almond và S.Verba. Các ông chú trọng vào việc nghiên cứu hành vi hoạt động chính trị và gắn liền quá trình chính trị với hành vi của con người. Hành vi chính trị là một phần của hành vi xã hội cho nên khi phân tích hành vi chính trị phải gắn chặt với sự xem xét các nhân tố văn hoá, tâm lý của cá nhân và toàn xã hội. Xuất phát từ hành vi chính trị của các cá thể, ông định nghĩa: “Văn hoá chính trị là tập hợp các lập trường và xu hướng cá nhân của những người tham gia một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa” [11, tr.216]. Năm 1961, khi biên soạn Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế, nhà chính trị học người Anh L. Pye đã đưa ra định nghĩa về văn hoá chính trị: “văn hoá chính trị là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm, nó đem lại ý nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ bản và qui tắc chế ước hành vi của hệ thống chính trị; nó bao gồm lý tưởng chính trị và qui phạm vận hành của một chỉnh thể” [11, tr.218] và theo L.Pye: “văn hoá chính trị là sản phẩm bao gồm lịch sử tập thể của một hệ thống chính trị và cả lịch sử đời sống của các cá thể trong hệ thống đó, do đó nó bắt rễ sâu xa trong lịch sử các sự kiện chung và lịch sử cá nhân” [11, tr.220]. Nhà nghiên cứu chính trị học Nga, giáo sư E.A Đôđin không đồng tình với các học giả phương Tây khi qui văn hoá chính tr ị về các khuôn mẫu nào đó. Vì theo ông, điều đó thường mang tính chủ quan của nhà nghiên cứu, rất dễ bị nhầm lẫn về bản chất bởi những hiện tượng bề mặt. Theo ông: “văn hoá chính trị là quá trình xã hội hoá chính trị, suy cho cùng là quá trình phổ cập những giá trị và những qui tắc chính trị nhất định” và “quá trình xã hội hoá trong chừng mực nào đó đưa đến sự ra đời các thiết chế xã hội, các giá trị và những chuẩn mực hành vi phù hợp với tiến trình phát triển” [9, tr.64-65].
  18. Do sự khác nhau về cách tiếp cận, các nhà chính trị học mác-xít đã đưa ra nhiều định nghĩa về văn hoá chính trị. Trong T ừ điển chính trị rút gọn của Liên xô (trước đây) tác giả cho rằng: văn hoá chính trị là trình độ và tính chất của những hiểu biết chính trị, những nhận định, những hành vi của công dâ n, cũng như nội dung, chất lượng của những giá trị xã hội, những chuẩn mực xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội [10, tr.228 - 229]. Từ đây, văn hoá chính trị còn được xác định bởi nhu cầu, thói quen tham gia một cách tự giác, chủ động vào các hoạt động chính trị xã hội. Nó còn thể hiện ở sự tham gia của cá nhân vào các sinh hoạt chính trị - xã hội để góp phần hình thành dự luận xã hội, tích cực đấu tranh chống lại các hành vi gây tổn hại đến lợi ích chung của đời sống cộng đồng. Các nhà nghiên cứu Việt Nam những năm gần đây tích cực vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng một quan điểm đầy đủ về văn hoá chính trị. Đặc biệt, những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xã hội xã hội chủ nghĩa thực sự có ý nghĩa xuất phát điểm cho quá trình tìm tòi, nghiên cứu đó, song cũng cần thấy đây vẫn còn là một vấn đề mới và phức tạp cả về lý luận cũng như nhận thức. Quan niệm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá chính trị là xã hội mới phải có con người mới đại diện cho nó: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa. Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa” [25, tr.228]. Xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa là xác lập cơ sở bền vững của văn hoá chính trị mới. Đây là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá chính trị. Văn hoá chính trị cũng là loại hình văn hoá hướng con người làm việc thiện, gắn với các lợi ích kinh tế, chính trị, nhưng nó phải là sự hài hoà, sự liên hiệp giữa cộng động và cá nhân, giữa truyền thống với hiện đại, giữa kinh tế và văn hoá, giữa giá trị vật chất và giá trị phi vật chất, giữa bản sắc văn hoá dân tộc với sự tiếp biến văn hoá quốc tế, trên nền tảng giá trị chân, thiện, mỹ. Trên cơ sở quan niệm trên, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt về khái niệm văn hoá chính trị. Trong đó, một khái niệm văn hóa chính có tính khái quát chung là:
  19. Văn hoá chính trị là một phương diện văn hoá trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức sâu sắc quan hệ chính trị hiện thực để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của xã hội phù hợp với sự phát triển lịch sử. Văn hoá chính trị được phản ánh trong hệ ý thức chính trị, trong các thiết chế chính trị và trong các giá trị vật chất cũng như tinh thần do hoạt động chính trị sáng tạo ra [25, tr.29]. Tổng hợp các cách tiếp cận khác nhau về VHCT, chúng ta thấy rằng VHCT là một bộ phận của văn hoá dân tộc, phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá dân tộc và hoạt động chính trị của các giai cấp; nó chỉ ra tác động của một loại hình văn hoá xã hội nhất định đối với hệ thống chính trị và hành vi chính trị của công dân (bao gồm dân chúng và những người lãnh đạo nhà nước). VHCT thể hiện qua sự hiểu biết chính trị, tình cảm chính trị, giá trị chính trị, niềm tin và thái độ chính trị của các công dân đối với các hiện tượng chính trị và hệ thống chính trị. VHCT còn biểu hiện khả năng, mức độ điều chỉnh các quan hệ chính trị phù hợp với truyền thống và những chuẩn mực xã hội do nền văn hoá dân tộc tạo ra. VHCT phản ánh năng lực sáng tạo vươn tới các giá trị nhân văn trong hoạt động chính trị. Các hoạt động này thể hiện ở hệ quan điểm lý luận chính trị, lý tưởng và tình cảm chính trị, hệ thống thiết chế và thể chế cùng với cá nhân và cộng đồng tham gia vào đời sống chính trị. Tinh thần cốt lõi của VHCT là các giá trị nhân văn trong xử lý chính trị. Chính trị có văn hoá hay xử lý chính trị nhân văn là chính trị giải phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội, phấn đấu để ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đó chính là VHCT được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với việc kế thừa các giá trị trong quan niệm về VHCT của các nhà nghiên cứu lý luận gần đây, có thể khái quát lại, xét về bản chất VHCT là tổng hoà những giá trị chính trị (cả giá trị vật chất và tinh thần), hoạt động chính trị thực tiễn của con người sáng tạo ra trong xã hội có giai cấp.
  20. Tóm lại, VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hoá trong xã hội có giai cấp, nói lên chất lượng tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là các giá trị chính trị nhân văn được con ngư ời sáng tạo và sử dụng trong thực tiễn chính trị, để thực thi trong quan hệ về quyền lực chính trị, quyền lực nhà n ước nhằm thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển lịch sử. VHCT phản ánh trình độ trưởng thành nhân cách chính trị của các chủ thể chính trị trong đời sống xã hội. 1.2. CẤU TRÚC, ĐẶC ĐIỂM VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HOÁ CHÍNH TRỊ 1.2.1. Cấu trúc của văn hoá chính trị Cấu trúc của VHCT bao gồm những yếu tố, những phương diện hợp thành sau đây: * Tri thức và những hiểu biết về chính trị Đây là mặt nhận thức, ý thức chính trị của chủ thể. Tri thức bao gồm cả tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm, là trình độ học vấn và những kinh nghiệm được thu nhận, tích luỹ trong quá trình tham gia các sinh hoạt, các hoạt động chính trị của mỗi cá nhân. Vốn học vấn càng rộng và càng sâu bao nhiêu thì càng thuận lợi bấy nhiêu để con người đến với hoạt động chính trị một cách tự giác, có lý trí. Song chính trị không chỉ cần đến những tri thức lý thuyết mà quan trọng h ơn là sự tham gia trực tiếp vào hoạt động trong các phong trào chính trị, trong đời sống chính trị thực tiễn. Do đó, kinh nghiệm chính trị, vốn sống, sự thực hành trực tiếp các công tác chính trị sẽ đem lại cho mỗi người những hiểu biết thực chất về chính trị. Tri thức lý luận chính trị có vị trí đặc biệt trong tổng số những tri thức mà con ng ười nắm đ ược, thâu thái được, bởi nó giúp ích trực tiếp cho con người hiểu biết, giác ngộ về chính trị, hình thành học vấn về chính trị, phẩm chất năng lực của cá nhân trong hoạt động chính trị. Tích luỹ tri thức phải gắn liền với tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn. C hỉ như vậy tri thức mớ i giúp cho sự hình thành phương pháp và trau dồi bản lĩnh sáng tạo của cá nhân, đặc biệt ở những cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. * Tình cảm và đạo đức cách mạng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2