intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

155
lượt xem
47
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày 5-8-2003 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) ra Nghị quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử mở ra giai đoạn phát triển mới của thành phố. Nghị quyết nhấn mạnh: Hải Phòng là thành phố cảng công nghiệp hiện đại; đô thị trung tâm cấp quốc gia, đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, một cực tăng trưởng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 5-8-2003 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) ra Nghị quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử mở ra giai đoạn phát triển mới của thành phố. Nghị quyết nhấn mạnh: Hải Phòng là thành phố cảng công nghiệp hiện đại; đô thị trung tâm cấp quốc gia, đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc, một động lực phát triển kinh tế biển, một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục, y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ... Trong những năm đổi mới Hải Phòng đã có bước phát triển mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân thành phố được nâng lên rõ rệt. Các hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương mại, du lịch, dịch vụ, giáo dục, thông tin, văn hóa thể thao... diễn ra sôi động, thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư thành phố. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, có khu du lịch biển, đảo (Đồ Sơn, Cát Bà...) là những địa điểm rất thuận lợi cho việc khai thác, tổ chức các hoạt động văn hóa giải trí cho nhân dân. Bên cạnh đó, sự phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, sự đa dạng của hệ thống thiết chế văn hóa: Bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, cung văn hoá, nhà thi đấu TDTT, sự sôi động trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật... đã đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng của các tầng lớp nhân dân, góp phần giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được trong phát triển văn hoá, thành phố Hải Phòng cũng còn có những tồn tại, yếu kém trong hoạt động này:
  3. - Một số cấp, ngành thành phố chưa có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của văn hoá, văn hoá giải trí, còn quá coi trọng khía cạnh kinh tế trong lĩnh vực giải trí, coi nhẹ yếu tố văn hóa, cảnh quan, môi trường. - Quá trình đô thị hoá nhanh khiến diện tích đất dành cho các hoạt động giải trí công cộng (nhất là dành cho trẻ em) ngày càng bị thu hẹp lại. Một số cấp, ngành, đơn vị, đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến việc đẩy mạnh hoạt động văn hóa vui chơi giải trí cho người dân nên dẫn đến tình trạng thiếu điểm vui chơi giải trí và các nội dung hoạt động phù hợp, hoặc xuất hiện các loại hình trò chơi, cách chơi gây tổn hại tới sức khoẻ, tới kinh tế, tới việc hình thành nhân cách, ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội. - Với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài ra đời, số lượng công nhân lao động tăng nhanh nhưng tại nhiều doanh nghiệp, công nhân lao động phải làm việc trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt, thời gian lao động và cường độ lao động cao, thu nhập thấp, ít được quan tâm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần, nhu cầu vui chơi giải trí nhằm tái sản xuất sức lao động. Có thể nói văn hóa giải trí cho số công nhân lao động ở đây còn rất ít được quan tâm, chú ý. - Thành phố chưa phát huy hết các tiềm năng hiện có để phát triển lĩnh vực vui chơi giải trí như các tiềm năng trong du lịch, dịch vụ văn hoá công cộng, văn hoá nghệ thuật, phương tiện thông tin đại chúng... Chưa huy động được tốt các nguồn lực trong nước và nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực vui chơi giải trí. Những tồn tại nêu trên cần sớm được khắc phục nhằm thúc đẩy sự phát triển văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. Việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài "Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay" sẽ góp phần vào việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đưa văn hoá giải trí ở Hải Phòng trong thời gian tới tiếp tục phát triển
  4. mạnh mẽ và đúng hướng, góp phần đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú của các tầng lớp nhân dân thành phố. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu văn hóa giải trí và các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí đã được một số nhà nghiên cứu, lý luận văn hóa, quản lý văn hóa quan tâm, đã có một số đề tài, công trình của các tác giả đi trước đề cập đến những vấn đề mà luận văn nghiên cứu. - Đề tài "Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí ở Hà Nội - thực trạng và giải pháp" do PGS.TS Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội là cơ quan chủ trì, thực hiện năm 2003 và công trình "Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn"do PGS.TS Phạm Duy Đức (chủ biên) [22] đã phân tích một số vấn đề lý luận về văn hoá giải trí, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở Hà Nội và đề xuất các giải pháp phát triển các hoạt động văn hoá giải trí ở Hà Nội nói riêng, ở đô thị nước ta nói chung. - Luận án tiến sĩ xã hội học của Đinh Thị Vân Chi, "Nhu cầu giải trí của thanh niên. Nghiên cứu khuôn mẫu giải trí của thanh niên và sự đáp ứng nhu cầu giải trí tại Hà Nội" [9] hoàn thành năm 2001 đã xác định quan niệm về giải trí và nhu cầu giải trí của thanh niên Hà Nội, các giải pháp đáp ứng nhu cầu giải trí trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Công trình, Vai trò của văn hóa dân gian trong các sân chơi trên truyền hình của PGS,TS. Trần Thị Trâm [49] đã khai thác các khía cạnh của văn hóa dân gian trong việc tổ chức các trò chơi giải trí trên truyền hình. Về xây dựng và phát triển văn hoá ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã có những kết quả nghiên cứu bước đầu. Luận văn thạc sỹ Văn hoá học " Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn hoá, Nhà văn hoá lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay" [7] hoàn thành năm 1998 và Luận án tiến sỹ Lịch sử " Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố văn hoá trong hoạt động
  5. doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" [8] của tác giả Nguyễn Văn Bính, hoàn thành năm 2003 đã lấy Hải Phòng làm đối tượng khảo sát chủ yếu. Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị - Học viện CTQG Hồ Chí Minh (khoá 2000 - 2004) của tác giả Hoàng Đình Thi đã nghiên cứu "Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" [45]. Công trình "Lễ hội truyền thống văn hoá tiêu biểu Hải Phòng" do tác giả Trịnh Minh Hiên (chủ biên) [24] đã đề cập đến một số lĩnh vực của văn hoá giải trí ở Hải Phòng như: Lễ hội dân gian, các phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá...Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một phần của bức tranh toàn cảnh về văn hóa và văn hoá giải trí của thành phố Hải Phòng, đến lượt mình, chúng tôi sẽ đi sâu hơn trong việc tái hiện bức tranh toàn cảnh về văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài * Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích bản chất, chức năng của văn hóa giải trí và vai trò của văn hoá giải trí, đề tài đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động văn hóa giải trí ở Thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa giải trí, góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy sự phát triển KT - XH, văn hoá của thành phố Cảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Phân tích bản chất của văn hóa giải trí, vai trò của văn hóa giải trí trong đời sống xã hội và sự phát triển, hoàn thiện con người. - Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn hóa giải trí hướng tới xây dựng con người Hải Phòng năng động, sáng tạo trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
  6. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng - Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa giải trí là một vấn đề rộng lớn. Vì vậy đề tài chỉ tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về văn hóa giải trí và phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay. Các phương hướng và giải pháp được đề xuất hướng tới năm 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê và điều tra xã hội học, phương pháp liên ngành (đô thị học, văn hoá học, xã hội học...). 6- Đóng góp mới về khoa học của đề tài - Làm sáng tỏ hơn khái niệm, đặc trưng, bản chất của văn hóa giải trí và vai trò của văn hoá giải trí đối với việc xây dựng, hoàn thiện con người và phát triển kinh tế - xã hội. - Phân tích thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua. - Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa giải trí ở Thành phố Hải Phòng trong những năm tới. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài * Về phương diện lý luận: - Nhận thức sâu sắc hơn quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới hiện nay. - Phân tích và làm sáng tỏ vai trò của văn hóa giải trí trong việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, phát triển KT - XH, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người trong thời kỳ đổi mới hiện nay. * Về phương diện thực tiễn :
  7. Kết quả mà luận văn đạt được có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu hoạt động văn hoá giải trí, và công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa hiện nay ở Thành phố Hải Phòng. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết: Chương 1: Vai trò của văn hoá giải trí trong đời sống xã hội hiện đại. Chương 2: Thực trạng văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá giải trí ở Hải Phòng thời kỳ 2006 - 2010.
  8. Chương 1 vai trò của Văn hóa giải trí trong đời sống xã hội hiện đại 1.1. Quan niệm về văn hoá giải trí 1.1.1. Quan niệm về giải trí Giải trí là một từ Hán - Việt. "Từ điển Hán - Việt" của cụ Đào Duy Anh giải thích: Giải trí là khi làm việc rỗi, làm cho trí não được khoan khoái, gần nghĩa với giải trí là tiêu khiển, tiêu khiển là giải muộn, khuây sầu. Giải trí còn đồng nghĩa với vui chơi cho nên người ta thường nói vui chơi, giải trí. Hoạt động giải trí bắt nguồn từ nhu cầu (giải trí). Nhu cầu là đòi hỏi điều gì đó cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con người, của nhóm xã hội hoặc toàn XH nói chung; là nguồn thôi thúc nội tại của hành động. Nhu cầu không chỉ mang tính sinh học, nhằm đáp ứng những đòi hỏi sinh học của con người, nhu cầu còn mang tính xã hội, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, dù là của riêng mỗi cá nhân nhưng nhu cầu chỉ có thể được đáp ứng nhờ nền sản xuất xã hội, bị nền sản xuất đó quy định, và vì vậy chúng mang tính xã hội rõ nét. Các nền sản xuất khác nhau nên nhu cầu được thoả mãn theo sự quy định của nền sản xuất đó cũng khác nhau. Thứ hai, cũng những nhu cầu như nhau nhưng mỗi thời đại được đáp ứng theo những cách khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử và mức độ phát triển xã hội đó, C.Mác đã từng nói: Cùng là cái đói, nhưng cái đói được thoả mãn bằng dĩa và dao khác với cái đói ngốn ngấu thịt sống bằng bàn tay, móng tay và răng, và thứ ba, nhu cầu còn được đáp ứng trong khuôn khổ phong tục tập quán (văn hoá) của cộng đồng và bị quy định bởi văn hoá cộng đồng. Khi nghiên cứu về nhu cầu các tác giả đều thống nhất rằng, nhu cầu là nguồn gốc mọi hành động của con người. Khi một nhu cầu xuất hiện, sẽ hình thành trong con người một động cơ, thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu đó. Nhà phân tâm học nổi tiếng Freud khẳng định rằng mọi hiện tượng tâm lý (trong đó có nhu cầu) đều có nguồn năng lượng nuôi dưỡng, càng nhiều nhu cầu thì nguồn năng lượng
  9. trong cơ thể càng lớn. Nguồn năng lượng này tuân theo quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng cần được sử dụng hết. Nếu không được sử dụng hoặc bị dồn nén, năng lượng đó sẽ tìm cách giải toả trong giấc mơ, trong các hành động lố lăng, phá phách... Còn khi được sử dụng đúng cách, nó có thể thăng hoa và giúp các thiên tài làm nên những kiệt tác nghệ thuật. Và con người chỉ có thể phát triển toàn diện khi các nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ. Trong trường hợp ngược lại sẽ bị kìm hãm và không thể phát triển hoặc phát triển lệch lạc. Nhu cầu giải trí, với tư cách là một nhu cầu của con người, thể hiện trên hai khía cạnh: - ở khía cạnh sinh học: Sự thoả mãn nhu cầu giải trí là điều kiện để cơ thể phục hồi sức khoẻ sau quá trình lao động, lấy lại thăng bằng tâm - sinh lý để cơ thể tiếp tục làm việc. - ở khía cạnh xã hội: Con người giải trí không phải chỉ để giải trí. Mọi hoạt động của con người đều có mục đích, và bởi vậy, giải trí cũng mang lại cho họ sự phát triển về trí tuệ và nhân cách, sự thư thái, sảng khoái và những khoái cảm thẩm mỹ. Như vậy khi nhu cầu giải trí được đáp ứng thoả đáng thì trí não được thư giãn, tinh thần được thanh thản, tâm hồn thêm trong sáng, đời sống cảm xúc thêm phong phú với nhiều rung cảm thẩm mỹ, sự phát triển của con người trở nên toàn diện. Ngược lại, khi nhu cầu giải trí không được đáp ứng đầy đủ, đúng đắn sẽ có nguy cơ làm con người "tha hoá " trong hoạt động sống. Hoạt động giải trí thường diễn ra trong thời gian rỗi. Thời gian rỗi - đó là khoảng thời gian riêng - được dành cho các hoạt động cá nhân, trong đó có hoạt động giải trí. Theo C. Mác, quỹ thời gian của xã hội và cá nhân được phân chia thành thời gian lao động và thời gian tự do. Thời gian lao động là khoảng thời gian tất yếu mà mỗi cá nhân buộc phải thực hiện công việc lao động để bảo đảm sự sinh tồn. Thời gian tự do là khoảng thời gian còn lại ngoài thời gian lao động, dành cho những hoạt động mà cá nhân có quyền tự quyết định. Với C. Mác, khái niệm "thời gian rỗi" chưa xuất hiện, bởi khi đó các hoạt động giải trí chưa phong phú, công nghiệp giải trí chưa ra đời.
  10. Tuy vậy C.Mác cũng đã từng coi thời gian tự do là khoảng thời gian dành cho sự thoải mái, cho giải trí, và mở ra một khoảng không cho những hoạt động tự do của con người [dẫn theo 9, tr 23]. Theo nhà nghiên cứu văn hoá Đoàn Văn Chúc [10, tr. 224 - 225] thì trong bất kỳ xã hội nào cũng có 4 dạng hoạt động mà con người phải thực hiện: - Những hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cá nhân và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người. - Những hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như nuôi dạy con cái, chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè... Đó là nghĩa vụ cá nhân của mỗi người. - Những hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn uống, nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân... đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu cá nhân của mỗi người. - Những hoạt động thuộc đời sống tinh thần của cá nhân như thưởng thức nghệ thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo...Đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu tinh thần của mỗi người. Dạng hoạt động thứ nhất được thực hiện theo quy tắc chung của xã hội không thể tuỳ tiện theo ý thích hoặc hoàn cảnh cá nhân. Nó được xác định một cách nghiêm ngặt và được diễn ra trong một khoảng thời gian dành riêng, với thời điểm và độ lớn được quy định chặt chẽ, mà C.Mác gọi là thời gian tất yếu. Ba dạng hoạt động còn lại cũng không thể thiếu, nhưng chúng được thực hiện một cách linh hoạt tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân. Chúng được diễn ra trong khoảng thời gian còn lại sau khi đã trừ đi thời gian tất yếu. Khoảng thời gian dành cho những hoạt động đó được gọi là thời gian tự do, nghĩa là thời gian mà xã hội dành cho cá nhân quyền tự do sử dụng. Trong ba hoạt động trên thì hoạt động thứ tư mang tính tự do hơn cả. Nó không gắn với sự thúc bách sinh học nào, cũng không hề mang tính cưỡng bức. Nó là hoạt động hoàn toàn tự do mà cá nhân có toàn quyền lựa chọn theo sở thích, trong khuôn khổ hệ chuẩn mực của xã hội. Nó là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa
  11. vụ, bổn phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời cũng là hoạt động không vụ lợi, nhằm mục đích giải toả căng thẳng thể chất và tinh thần để đạt tới sự thư giãn, thanh thản trong tâm hồn, và cao hơn nữa là đạt tới những rung cảm thẩm mỹ. Với tính chất đặc biệt như vậy, để phân biệt với các hoạt động trên, người ta gọi nó là hoạt động giải trí và thời gian dành cho hoạt động giải trí được gọi là thời gian rỗi. Thời gian rỗi được coi là khái niệm đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa là "phần thời gian ngoài lao động của cá nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã trừ đi chi phí thời gian cho những hoạt động cần thiết không thể thiếu" và "Thời gian rỗi là khoảng thời gian mà trong đó con người không bị thúc bách bởi các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi bất cứ nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động tự nguyện, theo sở thích của chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con ngườii (hoạt động giải trí)" [dẫn theo 9, tr.23]. Như vậy có thể thấy giải trí là một dạng hoạt động cơ bản của con người, đáp ứng những nhu cầu phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ. Giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng, xã hội. Giải trí - đó là sự giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt tới sự thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng hoạt động không vụ lợi, nó là hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người:Thư giãn,giải thoát sầu muộn, tìm trạng thái hưng phấn, vui thích. Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, người nông dân lao động theo thời vụ vì vậy các hoạt động giải trí thường diễn ra sau vụ thu hoạch hoặc trong lúc nông nhàn. Trong xã hội công nghiệp, giải trí thường gắn liền với các hoạt động trong thời gian rỗi. Cho nên các từ như Leisure (tiếng Anh) hay Docur (tiếng Nga) lúc đầu có nghĩa là thời gian rỗi, sau chuyển thành hoạt động trong thời gian rỗi (gọi tắt là hoạt động rỗi), tức là sự giải trí hay hoạt động giải trí.
  12. Đặc trưng nổi bật của xã hội công nghiệp là sự năng động xã hội, lao động căng thẳng và diễn ra với tiết tấu nhanh, phân công lao động cụ thể, do vậy hoạt động giải trí trong xã hội công nghiệp có nhiều nội dung mới. Nếu như hoạt động vui chơi giải trí của xã hội nông nghiệp phần lớn thường nhẹ nhàng, tiết tấu chậm rãi và thường không sôi động lắm (đánh đu, thả diều, chọi chim, chọi gà, chọi dế...) thì các hoạt động vui chơi giải trí ở xã hội công nghiệp thường diễn ra hết sức sôi động với tiết tấu nhanh, mạnh (Bóng đá, các cuộc thi thể thao như điền kinh, bơi lội, quần vợt...các hoạt động giải trí tìm "cảm giác mạnh", phiêu lưu, mạo hiểm...). Những hoạt động này hoàn toàn phù hợp với xã hội công nghiệp, góp phần giải toả những căng thẳng tâm thần, lập lại thế cân bằng nội tại nhằm tái sản xuất sức lao động. Chúng ta biết rằng, giải trí là hoạt động diễn ra trong thời gian rỗi, nhưng không phải bất cứ hoạt động nào được thực hiện trong thời gian rỗi đều là giải trí. Trong thời gian rỗi người ta có thể làm nhiều việc khác nhau: Có người tranh thủ làm thêm để kiếm sống hoặc học thêm để nâng cao trình độ (khi đó thời gian rỗi đã bị biến thành thời gian lao động); cũng có người dùng thời gian rỗi để thực hiện những hoạt động không có tác dụng gì nhiều đối với sự phát triển toàn diện con người, thậm chí là vô bổ hoặc có hại (la cà hàng quán, rong chơi không mục đích hoặc sa vào các tệ nạn xã hội...) Những hoạt động lệch chuẩn như vậy không thuộc nội hàm khái niệm giải trí. Hoạt động giải trí là những hoạt động của con người nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần và phát triển toàn diện con người. Giải trí hoàn toàn không phải sự nghỉ ngơi thụ động của con người mà là những hoạt động mang tính chủ động. Nó là những hoạt động hoàn toàn tự do, do mỗi cá nhân tự lựa chọn và tham gia một cách chủ động. Nhân tố quyết định mang tính tiên quyết là sở thích cá nhân (với điều kiện phù hợp hệ chuẩn mực và hoàn cảnh thực tế khách quan của xã hội) Bởi vậy, sự nghỉ ngơi thụ động không phải là giải trí. " Nghỉ " là sự ngừng làm việc, ngừng hoạt động nhằm lấy lại sức lực vật chất, sự thăng bằng tâm sinh lý để có thể tiếp tục làm việc sau đó. Tất nhiên, lúc nghỉ có thể đọc báo, nghe nhạc... nhưng đó chỉ là phụ, điều chính yếu là để cơ thể không hoạt động (nhưng nghỉ cũng khác với ngủ vào ban đêm). Nghỉ thuộc dạng hoạt động thứ
  13. ba và mang tính thụ động, trong khi giải trí thuộc dạng thứ tư (nằm trong phạm vi hoạt động tinh thần) mang tính chủ động và tích cực. Vui chơi giải trí là nhu cầu văn hoá cơ bản của con người (cá nhân và cộng đồng) nhằm giải toả những căng thẳng, mệt mỏi do lao động đưa lại, bù đắp những thiếu hụt và mất mát về sức khoẻ và tinh thần, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, tình cảm thẩm mỹ, thoả mãn nhu cầu tinh thần ngày càng cao của con người. Trong vòng đời của con người, vui chơi giải trí gắn bó suốt đời người. Lịch sử phát triển của loài người đã cho thấy các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người và xã hội ngày càng phát triển, các hoạt động vui chơi giải trí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Không một dân tộc nào, dù trình độ phát triển cao thấp đến đâu, lại không có các hoạt động vui chơi giải trí. Sử sách đã nói nhiều về tính chất đam mê kỳ diệu của các lễ hội, dù đó là hội Fiesta - đấu bò tót hàng năm tại thành phố Pamplona ở miền Bắc nước Tây Ban Nha, là lễ hội Carnavan mê say, điên cuồng thâu đêm ở Italia hay Braxin, là lễ hội Thai Pusam của người Đơ - ra - vi -điêng (Đravidiens) ở miền Nam ấn Độ, hoặc như lễ hội nhảy múa của cư dân Châu Phi. Người da đen châu Phi thường đắm mình trong những điệu múa rực lửa, ngây ngất như hoà điệu với tiết tấu của vũ trụ...Góp vào tiếng nói đam mê của lễ hội, có thể kể đến những ngày hội đâm trâu ở vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, ở hội "chọi trâu" Đồ Sơn (Hải Phòng), ở những đêm quan họ thâu đêm ở làng Lim (Bắc Ninh), hay những cuộc "đua trải" sôi động vùng sông nước Nam Bộ. Bước sang xã hội công nghiệp, các hoạt động vui chơi giải trí không hề giảm đi mà còn phát triển rầm rộ cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế. Đuy -ma - dơ-đi-ê - nhà xã hội học người Pháp coi giải trí như là sự biến đổi về chất của xã hội công nghiệp, từ chỗ bị bóc lột thô bạo bằng việc kéo dài thời gian lao động, người công nhân đã có quyền nghỉ ngơi mà vẫn hưởng lương. Ông tiên đoán về triển vọng của xã hội hậu công nghiệp sẽ là một " xã hội giải trí", trong đó thời gian lao động được rút ngắn một cách tối thiểu, thời gian rỗi được tăng lên, mối quan tâm của xã
  14. hội không phải là làm gì để sống, mà là làm thế nào để giải trí tốt hơn [dẫn theo 9, tr.24]. Có thể hiểu được Đumagdier thông qua dự đoán của C Mác, rằng trong xã hội tương lai, lao động không còn là cực nhọc, mà là lao động sáng tạo, lao động mang lại niềm vui và trở thành một hình thức giải trí. Nhờ có những tiến bộ của khoa học công nghệ mà năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động ngày càng cao, tạo điều kiện cho con người thoát khỏi sự nặng nhọc, vất vả của lao động, thời gian rỗi nhiều hơn, con người có nhiều hơn các hoạt động giải trí nhằm phát triển nhân cách hài hoà và toàn diện. Vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, xuất phát từ những tham vọng muốn đạt lợi nhuận tối đa, các nhà tư bản đã thúc ép công nhân gia tăng cường độ làm việc, khiến họ bị suy kiệt cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, đã xuất hiện các phong trào đấu tranh của công nhân đòi được giảm giờ làm và tăng thời gian giành cho hoạt động nghỉ ngơi, giải trí. Năm 1883, Pôn La -phac-gơ - con rể của C.Mác viết cuốn sách "Quyền được hưởng nhàn" (Le droit à la paresse) để ủng hộ cuộc đấu tranh của những người lao động. ở Pháp, vào năm 1900 có Luật Min-lơ-răng (Millerand) thiết lập chế độ ngày làm việc 10giờ. Năm 1906 mới đề ra chế độ nghỉ bắt buộc 1 ngày trong tuần. Năm 1910 có luật hưu trí đối với công nhân. Cũng vào thời gian này, quốc tế XHCN phát động cuộc đấu tranh với khẩu hiệu: 8 giờ lao động, 8 giờ nghỉ ngơi và 8 giờ giải trí. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi, bắt đầu từ đây, người lao động mỗi ngày làm việc 8 giờ [dẫn theo 22, tr.17]. Tuy nhiên, trong 8 giờ giải trí, người ta còn phải làm một số công việc tất yếu như: nấu ăn, tắm rửa, săn sóc con cái... Các công việc trên đã tiêu tốn hết 4 - 5 giờ/ngày, còn lại 3 - 4 giờ/ngày gọi là thời gian tự do. Đây mới thực là thời gian dành cho các hoạt động giải trí. Đương thời, C.Mác rất quan tâm đến khái niệm "thời gian tự do" của người lao động. Ông cho rằng: Tiết kiệm thì giờ lao động là tăng thêm thì giờ tự do, tức là thì giờ dành cho sự phát triển toàn diện cá nhân, sự phát triển tác dụng trở lại sức
  15. lao động và làm tăng sức lao động, về phương diện sự sản xuất trực tiếp, thì giờ tiết kiệm được có thể coi là dùng để sản xuất ra vốn cố định, một vốn cố định làm nên con người [dẫn theo 22, tr.18]. Năm 1936 thoả ước Ma-ti-nhông (Matignon) ra đời, quy định mỗi tuần làm việc 40 giờ, cuối tuần có hai ngày nghỉ. Trong xã hội xuất hiện từ ("Week end" - Những ngày nghỉ cuối tuần, như một phong tục mới, ra đời và vận hành tại một số nước công nghiệp phát triển). Từ đó, người ta bắt đầu ý thức về phương thức sử dụng vốn thời gian tự do của mỗi con người. Các nhà xã hội học đã chia ra như sau: - Thời gian tự do cấp ngày: 3 - 4 giờ. - Thời gian tự do cấp tuần: 2 ngày nghỉ. - Thời gian tự do cấp năm: những ngày nghỉ phép và những ngày nghỉ vào dịp lễ, tết. - Thời gian tự do cấp đời người: Số năm về hưu sau khi đã hết tuổi làm việc. ở nước ta, tuy năng suất lao động chưa thật cao, ngân sách nhà nước cũng còn nhiều khó khăn, nhưng từ năm 1999 Chính phủ đã có quyết định cán bộ, công chức, viên chức mỗi tuần làm việc 5 ngày (40 giờ), nghỉ cả ngày thứ bẩy và chủ nhật. Cùng với việc tăng lượng thời gian rỗi cuối tuần, Nhà nước đã giành những khoản ngân sách lớn cho việc xây dựng các khu công viên, các khu du lịch, các trung tâm văn hoá - thể thao và các thiết chế văn hoá giải trí khác. Nhà nước cũng đã gia tăng mức lương tối thiểu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức... Đến thời điểm tháng 10/2006 mức tăng đã là 450.000đ. Những việc này đã góp phần cải thiện và nâng cao hơn về mức sống của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí. Có thể nói, vui chơi giải trí hiện nay đã trở thành một hoạt động xã hội khá phổ biến, hơn thế, nó còn trở thành một hướng đi đầy triển vọng trong hoạt động kinh tế của đất nước... Chính vì vậy, hoạt động vui chơi giải trí đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thích đáng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và
  16. nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện, phòng đọc, điểm bưu điện - văn hoá xã, khu vui chơi, giải trí... [19, tr.106 - 107]. Như vậy, có thể nói rằng: Giải trí là một dạng hoạt động xã hội của con người, diễn ra trong thời gian rỗi nhằm giải toả những căng thẳng về trí não, thể lực; đáp ứng các nhu cầu về thể chất, trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ..., tạo ra sự cân bằng tâm-sinh lý, nâng cao năng lực tinh thần và thể chất cho con người. 1.1.2. Quan niệm văn hoá giải trí Khái niệm văn hoá đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại và ngừng được mở rộng cả về nội hàm cùng ngoại diên của nó. Theo người Trung Hoa cổ đại thì “văn hoá" là sự kết hợp giữa "vẻ đẹp” và "giáo hoá " đựơc dùng để chỉ một triều đại có sự thống trị "đẹp đẽ" dùng "văn trị” và "giáo hoá", tức là sự thống trị dựa trên sự giáo dục, thuyết phục con người. Còn ở Hy Lạp cổ đại thì thuật ngữ "cultus " tức là gieo trồng, ban đầu có nghĩa gieo trồng ngoài đồng ruộng, (cultus agree) sau được dùng với nghĩa là gieo trồng tinh thần (cultus animi - tức là văn hoá) chỉ sự nâng niu, nuôi dưỡng bản chất, phẩm giá của con người theo những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ, cái văn minh... Định nghĩa về văn hoá ngày càng trở nên hết sức phong phú. Năm 1952 A.L Kroeber và C.L Kluckhohn đã trích lục được khoảng ba trăm định nghĩa văn hoá của các tác giả ở nhiều nước khác nhau. Đến nay đã có thêm hàng trăm định nghĩa nữa về văn hoá. Nhưng hầu như tất cả đều quan niệm văn hoá gắn liền với bản chất, năng lực của con người, với con người, nói cách khác, hệ thống các giá trị tinh thần và giá trị vật chất do con người sáng tạo ra - văn hoá, trở thành một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội. "Từ điển triết học" của Rôdentan đã đưa ra định nghĩa: "Văn hoá - toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trrình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa
  17. hẹp hơn, người ta vẫn quen nói về văn hoá vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất...) và văn hoá tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn hoá, triết học, đạo đức, giáo dục...). Văn hoá là một hiện tượng lịch sử, phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội" [35, tr.656]. Tổ chức Văn hoá, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) nhìn nhận văn hoá với ý nghĩa rộng rãi nhất, như một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng: "Văn hoá là tổng thể những biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng... Văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai...) theo cộng đồng ấy" [dẫn theo 44, tr.14]. Đại Bách khoa thư Xô Viết [16] đã coi văn hoá là: Trình độ phát triển về mặt lịch sử của xã hội và con người trong các dạng thức tổ chức đời sống và hoạt động của con người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Khái niệm văn hoá dùng để phân định trình độ phát triển vật chất và tinh thần của các thời đại lịch sử nhất định, các hình thái kinh tế - xã hội hay một xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (chẳng hạn văn hoá cổ đại, văn hoá xã hội chủ nghĩa, văn hoá Maya...) cũng như chỉ một đặc thù hay lĩnh vực của đời sống (văn hoá lao động, văn hoá nghệ thuật, văn hoá đời sống ...) Theo nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ “văn hoá "chỉ liên quan tới lĩnh vực đời sống tinh thần của con người. ở Việt Nam, từ năm 1942 -1943, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hoá như sau: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [30, tr.431].
  18. Chúng ta đã biết rằng: Giải trí là một nhu cầu, một hoạt động văn hoá của con người. Giải trí mang ý nghĩa bao trùm là các hình thức vui chơi, thưởng thức. Hơn thế nữa, cái đích cuối cùng của giải trí là giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt tới sự thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh và bổ ích của con người. Có những hoạt động thoạt nhìn có vẻ là giải trí nhưng vì lý do nào đó mà không đạt được tới mục đích trên, đều không phải (hoặc không còn là) giải trí. Ví dụ, hoạt động chơi bài, nếu đó là hoạt động không vụ lợi, chỉ để tiêu khiển, giải toả căng thẳng tinh thần hoặc thể chất thì là hoạt động giải trí. Nhưng nếu lại gắn với mục đích kinh tế (ăn tiền) hoặc vụ lợi (cá cược) thì không còn là giải trí nữa. Như vậy, hoạt động giải trí là những hoạt động tạo cho cá nhân một đời sống tinh thần trong sáng, lành mạnh, phấn chấn... giúp họ phát triển toàn diện. Giải trí là những hoạt động thuộc đời sống văn hoá - tinh thần. Như vậy có thể coi " Văn hoá giải trí" (văn hoá vui chơi giải trí) là một trong những yếu tố của cấu trúc chỉnh thể của văn hoá cộng đồng. Nói "văn hoá giải trí" cũng tức là “văn hoá vui chơi", "văn hoá vui chơi giải trí" cũng có thể hiểu là hoạt động vui chơi, giải trí có văn hoá, bằng các hoạt động và sản phẩm văn hoá và thông qua hoạt động giải trí nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người. ở đây, ta có thể phân loại các hoạt động văn hoá giải trí theo nhiều tiêu chí khác nhau: + Theo chức năng của các hoạt động: Có hoạt động giải toả căng thẳng thể chất (thể dục thể thao...) hoạt động giải toả căng thẳng tinh thần (nghe nhạc, dạo chơi, giao tiếp...), hoạt động nhằm đạt khoái cảm thẩm mỹ (thưởng thức nghệ thuật). + Theo chủ thể tổ chức hoạt động: Có hoạt động cá nhân (nghe nhạc, làm thơ, đọc sách báo...) hoạt động trong nhóm hạn chế (giao lưu với bạn bè, tham gia các hoạt động cùng với họ ) hoạt động tập thể (hoạt động cùng các bạn đồng nghiệp hoặc trong một tổ chức đoàn thể nào đó ), hoạt động công cộng ngoài xã hội.
  19. + Theo địa điểm hoạt động: Có hoạt động giải trí tại gia đình, hoạt động giải trí tại nơi làm việc, hoạt động giải trí ngoài xã hội. + Theo hình thức hoạt động: Có những hoạt động chơi (chơi các trò chơi, dạo chơi...) hoạt động TDTT, tham quan, du lịch, những hoạt động thoả mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật (xem phim, ca nhạc, sân khấu...) những hoạt động sáng tạo nghệ thuật (tham gia các CLB năng khiếu hoặc các hoạt động nghệ thuật nghiệp dư ); những hoạt động thoả mãn nhu cầu giao tiếp (gặp gỡ bạn bè, trò chuyện, tâm sự...) những hoạt động thoả mãn nhu cầu niềm tin (tham gia các sinh hoạt tôn giáo, tham gia các lễ hội hoặc các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng khác...). Để thấy rõ hơn rõ khái niệm “văn hoá giải trí" hay “văn hoá vui chơi giải trí” cần nhận thức hơn về nội dung bản chất của vui chơi giải trí. Trò chơi - đó là hoạt động mang tính tự nguyện nhưng có ý nghĩa xã hội. Trong các hoạt động giải trí của con người, hoạt động vui chơi chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Phân tích sự chơi theo lý thuyết hoạt động, nhận thấy có ít nhất 4 dạng hoạt động chơi là: Hoạt động chơi không đối tượng - là hoạt động ngẫu hứng, chơi một mình, đối tượng của sự chơi là nhằm vào bản thân người chơi như "đi dạo”, "du xuân”, "câu cá ""đánh cờ một mình ", đối thoại với bản thân mình. Hoạt động chơi với đối tượng là đồ vật hoặc động vật. Ví dụ: chơi đàn ghi ta, trẻ em chơi búp bê, người già chơi cây cảnh, chơi chim... Chơi với đối tượng là máy điện tử. Gọi là “trò chơi ảo”, nin-ten-đo, chơi trên máy vi tính, chơi trên mạng... là thuộc dạng này. Chơi với đối tượng là con người - một hay nhiều người: Ví dụ: Chơi cờ, chơi bóng chuyền, bóng đá... đây là sự chơi bằng trò chơi - một hình thức phát triển đa dạng nhất trong lĩnh vực giải trí của con người. Nếu như ba dạng trên là chơi một mình, thì dạng thứ tư là chơi tập thể (giao tiếp tập thể), cuộc chơi có nội dung thi đấu, nên phải xây dựng thể chế và có trọng tài điều khiển.
  20. Hoạt động chơi về bản chất là mang tính vô tư, đặc điểm của nó là ngẫu hứng, bất ngờ và đôi khi nghịch lý, nó chống lại tính máy móc trong cuộc sống thường nhật và sự áp đặt của tập quán xã hội. Hoạt động chơi còn nhằm rèn luyện, tập dượt con người. Nó rất cần thiết để con người vượt qua những trở ngại, khó khăn, nó còn là bài học về chữ "nhẫn ", "thắng không kiêu, bại không nản", nó làm cho con người trầm tĩnh, thư thái hơn. Khía cạnh quan trọng nhất của nhu cầu chơi là nhằm bù đắp những cái mà con người không thể tìm thấy trong đời sống thực tiễn. Chẳng hạn như, khi con người có nhu cầu sống với quá khứ tổ tiên thì không gì hơn là tham gia vào vai diễn của các nhân vật lịch sử... Các giá trị mà mỗi cuộc chơi mang lại là sự công bằng, bình đẳng và minh bạch (công khai). Sự công bằng biểu thị ở chỗ mọi người tham gia cuộc thi đều có thể thắng, hoặc có thể thua, không hề có sự ưu tiên cho bất cứ đối tượng nào. Sự bình đẳng trong cuộc chơi biểu hiện ở chỗ mọi người tham gia cuộc chơi đều có điều kiện ngang nhau trong cuộc tranh tài. Trong cuộc đua tranh quyết liệt này, người giỏi sẽ thắng, người kém sẽ thua; đối với những trò chơi có sự may rủi thì: vận may sẽ thắng, vận rủi sẽ thua, không có ngoại lệ. Đây là một chân lý hiển nhiên mà mọi người trong cuộc chơi đều thừa nhận. Sự minh bạch ở đây còn là sự giám sát xã hội. Những người được cử ra làm "trọng tài” cho cuộc chơi phải thật “công tâm”, mọi xử lý phải trình ra công khai trước sự chứng kiến của mọi người. Sự khuất tất sẽ làm cho cuộc chơi trở nên mất hết ý nghĩa. Tóm lại, trong cuộc chơi những người tham gia chơi hết mình theo đúng luật chơi, những người trọng tài xử lý công tâm theo luật định, các “Fan” (khán giả) cổ vũ “vô tư”, làm cho cuộc chơi đạt tới giá trị công bằng, bình đẳng và minh bạch. Đó là cái đẹp vĩnh hằng, làm cho ấn tượng của cuộc chơi sống mãi trong lòng mọi người. Có thể hình dung hoạt động của mỗi cuộc chơi giống như hoạt động của một hội thu nhỏ, ở đó các nguyên tắc công bằng, bình đẳng và minh bạch như những chân lý bình dị, đã được thực thi một cách nghiêm túc.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2