X· héi häc thùc nghiÖm X· héi häc sè 1 (93), 2006 35<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Mét sè vÊn ®Ò vÒ b¶o trî x· héi t¹i ViÖt Nam<br />
tõ gãc ®é nh©n khÈu häc<br />
nguyÔn thanh liªm<br />
®Æng nguyªn anh<br />
<br />
<br />
1. Tình hình kinh tế - xã hội và nhu cầu bảo trợ xã hội<br />
Hơn bao giờ hết, bảo trợ xã hội đang ngày càng trở nên quan trọng và được quan<br />
tâm nhiều ở Việt Nam. Tầm quan trọng của bảo trợ xã hội bắt nguồn từ những nhu cầu<br />
thực tế trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đang diễn ra hết sức sôi động ở nước ta<br />
trong thời gian qua, đặc biệt từ khi thực hiện chính sách Đổi mới. Những chuyển biến tích<br />
cực của nền kinh tế trong suốt hai thập kỷ qua đã giúp Việt Nam đạt được những thành<br />
tựu đáng kể. Giai đoạn mười năm sau ngày thống nhất đất nước là một thời kỳ hết sức<br />
khó khăn: mức tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 5 năm sau thống nhất chỉ bằng nửa<br />
mức tăng trưởng dân số, sản lượng nông nghiệp chỉ đạt mức an ninh lương thực vừa đủ<br />
trong suốt thời kỳ đó đến giữa những năm 1980 (Dollar và Litvack, 1998; Bùi, 2000).<br />
Trong giai đoạn này, có thể nói Việt Nam vẫn chưa thể nghĩ đến bảo trợ xã hội vì trên<br />
thực tế tất cả mọi người dân trong xã hội đều rất cần được sự bảo trợ. <br />
Đại hội Đảng lần thứ VI đã tạo nên một bước ngoặt cho phát triển kinh tế xã hội<br />
với đường lối Đổi mới, chuyển đổi nền cơ chế kinh tế từ bao cấp sang thị trường theo<br />
định hướng xã hội chủ nghĩa. Song, chỉ đến đầu những năm 1990, những đổi mới chính<br />
sách mới có hiệu quả thực sự đối với tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 1992-1996,<br />
điều kiện sống của cả những hộ nghèo nhất cũng đã được cải thiện rõ rệt. Tăng trưởng<br />
GDP đạt mức trung bình 8,9% một năm, và đến năm 1996 lạm phát được kiềm chế ở mức<br />
4,5% (PWG, 1999). Tuy tốc độ phát triển có chững lại trong vài năm tiếp theo do ảnh<br />
hưởng của thiên tai và khủng hoảng tài chính khu vực châu Á, tăng trưởng kinh tế trong<br />
nước vẫn giữ ở mức cao.1 Bước sang thế kỷ 21, tăng trưởng được phục hồi và Việt Nam<br />
đang trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á.2<br />
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nước<br />
nghèo nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, cùng với những thành tựu đạt được trong công tác<br />
xoá đói giảm nghèo, bất bình đẳng có xu hướng ngày càng gia tăng (PWG, 1999; GSO,<br />
<br />
1<br />
Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này đạt 9,3% năm 1996; 8,2% năm 1997; 5,8% năm 1998; và 4,8%<br />
năm 1999 (GSO, 2000a)<br />
2<br />
Tăng trưởng kinh tế đạt 6,8% năm 2001 và 7,1% năm 2002 - tốc độ tăng trưởng cao thứ hai châu Á, chỉ<br />
sau Trung Quốc (WDI, 2003). Tốc độ tăng trưởng năm 2005 đạt 8,4% và nền kinh tế tiếp tục chuyển đổi<br />
theo hướng gia tăng tỉ trọng công nghiệp và xây dựng (GSO, 2005).<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
36 Mét sè vÊn ®Ò vÒ b¶o trî x· héi t¹i ViÖt Nam tõ gãc ®é nh©n khÈu häc<br />
<br />
2000b).3 Bất bình đẳng không chỉ xảy ra giữa các nhóm xã hội có thu nhập khác nhau mà<br />
còn xảy ra giữa các nhóm dân tộc, các nhóm xã hội có hoàn cảnh khác nhau, giữa các<br />
vùng, miền của đất nước. Khác biệt giữa nông thôn và thành thị gia tăng mạnh do tập<br />
trung nguồn lực đầu tư ở khu vực thành thị, đặc biệt là các trung tâm đô thị lớn như thành<br />
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng (Bolay và đồng sự, 1997; UNDP,<br />
1998; GSO, 2001; Đặng and Meyer, 1999). So với bất bình đẳng tại khu vực nông thôn,<br />
bất bình đẳng ở đô thị là nguyên nhân chính dẫn đến bất bình đẳng xã hội nói chung. Các<br />
khác biệt theo vùng cũng được ghi dấu đậm nét: tỉ lệ hộ nghèo tại các tỉnh miền nam<br />
thường thấp hơn các tỉnh khác, vùng Đông Nam Bộ có thu nhập bình quân đầu người cao<br />
khoảng gấp đôi các vùng núi phía Bắc, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên là ba vùng<br />
có mức sống thấp nhất (Minot và Baulch, 2002; Dollar và Paul, 1998). Các số liệu chính<br />
thức được báo cáo cũng cho thấy 83% của gia tăng bất bình đẳng được tạo ra trong giai<br />
đoạn 1993-1998 là do sự khác biệt giữa các vùng và chỉ 17% còn lại được tạo ra do sự<br />
khác biệt trong nội bộ vùng (GSO, 2000b). Báo cáo PWG (1999) cũng chỉ ra rằng nghèo<br />
đói là một khái niệm phức tạp và các số liệu hiện có về nghèo đói ở khu vực đô thị có thể<br />
thấp hơn nhiều so với mức thực tế với lý do lao động và dân số di cư đến các khu vực đô<br />
thị vẫn chưa được tính đến trong các chỉ tiêu giảm nghèo (Đặng, 2005).<br />
Bối cảnh biến đổi mạnh mẽ nói trên đã đặt công tác bảo trợ xã hội lên một ví trí<br />
quan trọng như một công cụ điều chỉnh nhằm đảm bảo công bằng và ổn định xã hội - là<br />
mục tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước đã cam kết trong chính sách phát triển.<br />
Tuy nhiên, các chiều cạnh cũng như các vấn đề của bảo trợ xã hội trong hiện tại<br />
và tương lai còn chưa được xác định rõ ràng. Do quá trình biến đổi kinh tế xã hội tại nước<br />
ta trong thời gian qua diễn ra quá nhanh và do trước đây việc ưu tiên nhóm cần nhận<br />
được sự bảo trợ xã hội thời kinh tế bao cấp là không bức xúc cho nên Việt Nam chưa có<br />
được mô hình phù hợp về bảo trợ xã hội. Việc học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác và<br />
việc áp dụng các bài học kinh nghiệm quốc tế gặp phải những hạn chế lớn do những khác<br />
biệt đáng kể trong trình độ phát triển kinh tế, bản chất xã hội, cơ chế chính sách, và trình<br />
độ phát triển giữa nước ta và các nước khác. Chẳng hạn, dù biết rằng sớm hay muộn<br />
chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề già hóa dân cư và bảo trợ xã hội cho người cao tuổi<br />
giống như những gì đã và đang diễn ra ở các quốc gia công nghiệp phát triển, song chúng<br />
ta cũng còn chưa rõ liệu đây có phải là nhiệm vụ ưu tiên số một của bảo trợ xã hội hiện<br />
nay hay không?<br />
Là một trong những quốc gia có cơ cấu dân số trẻ với mức sinh cao trong quá<br />
khứ, với trên 50% dân số ở độ tuổi dưới 25 thì có lẽ bảo trợ cho người cao tuổi chưa thể<br />
trở thành ưu tiên hàng đầu trong nhu cầu bảo trợ xã hội hiện nay. Nếu vậy, các câu hỏi<br />
tiếp theo là đến thời điểm nào Việt Nam sẽ cần phải quan tâm đến bảo trợ người già? Và<br />
nếu không phải là người già thì các nhóm dân số nào khác cũng cần nhận được sự ưu tiên<br />
trong bối cảnh phát triển hiện nay? Tiếp cận nghiên cứu bảo trợ xã hội từ góc độ nhân<br />
khẩu học sẽ giúp xác định các nhóm đối tượng cần được ưu tiên trong bảo trợ xã hội qua<br />
từng giai đoạn cũng như đưa ra một số vấn đề cần quan tâm trong bảo trợ xã hội.<br />
<br />
3<br />
Trong giai đoạn 1993-1998, hệ số Gini tăng lên đáng kể từ 0.330 lên 0.354 (GSO, 2000b).<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
NguyÔn Thanh Liªm & §Æng Nguyªn Anh 37<br />
<br />
Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm tìm hiểu các tác động của biến động dân số<br />
lên nhu cầu bảo trợ xã hội. Cụ thể, chúng tôi sẽ phân tích và tìm câu trả lời cho hai câu<br />
hỏi cơ bản sau: 1) Bảo trợ cho ai hay chính xác hơn là ai cần được bảo trợ trong xã hội?<br />
và 2) Nhu cầu bảo trợ là gì hay đâu là các vấn đề cần được ưu tiên trong bảo trợ xã hội?<br />
Để trả lời được hai câu hỏi này từ góc độ nhân khẩu học, trước hết cần đánh giá được bối<br />
cảnh biến động dân số. Đây là nội dung của phần đầu bài viết. Các hệ quả chính sách và<br />
hướng cần triển khai để làm rõ thêm mối quan hệ giữa hai biến số này sẽ được trình bày<br />
trong phần cuối của bài viết.<br />
2. Biến động dân số ở Việt Nam<br />
Có thể nói, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác dân số<br />
trong điều kiện của một nước nghèo nàn và lạc hậu. Quá độ dân số tại nước ta đã đi vào<br />
thời kỳ cuối mà ở đó mức chết đã rất thấp và mức sinh đã gần đạt mức sinh thay thế.<br />
C¸c kÕt qu¶ nghiªn cøu vÒ t×nh h×nh tö vong trong d©n sè cho thÊy tû lÖ tö vong ®·<br />
gi¶m ®Õn møc thÊp vµ kh¸ æn ®Þnh. Tû suÊt chÕt s¬ sinh cña c¶ n−íc lµ 17,8 phÇn ngh×n vµ tû<br />
suÊt chÕt th« lµ 5,3 phÇn ngh×n (Tæng côc Thèng kª, 2005a) - vµo lo¹i thÊp trªn thÕ giíi<br />
(NguyÔn, 2003). Tuy nhiªn ë n«ng th«n, tû suÊt nµy cßn cao gÊp 1,4 lÇn thµnh thÞ. So víi c¸c<br />
n−íc trong khu vùc, n−íc ta thuéc nhãm n−íc cã møc ®é chÕt gi¶m nhanh, chØ chËm h¬n so<br />
víi tèc ®é cña Th¸i Lan vµ In-®«-nª-xia.<br />
Tû suÊt chÕt trong d©n sè gi¶m nhanh chñ yÕu lµ do chÕ ®é dinh d−ìng ®−îc n©ng<br />
cao, ®iÒu kiÖn sèng ®−îc c¶i thiÖn. Tr×nh ®é y tÕ, m¹ng l−íi kh¸m ch÷a bÖnh ë céng ®ång,<br />
ch¨m sãc søc khoÎ sinh s¶n cã chÊt l−îng sÏ t¹o kh¶ n¨ng gi¶m tö vong trong d©n c−. C«ng<br />
t¸c tiªm chñng vµ c¸c ho¹t ®éng y tÕ dù phßng ®· h¹n chÕ ®−îc nh÷ng nguy c¬ tö vong do<br />
dÞch bÖnh g©y ra. Bªn c¹nh ®ã, c¸c ch−¬ng tr×nh nh»m c¶i thiÖn chÕ ®é dinh d−ìng, cung cÊp<br />
l−¬ng thùc, thùc phÈm cßn h−íng ®Õn ®èi t−îng trÎ em, ng−êi nghÌo song song víi c¸c nç lùc<br />
c¶i thiÖn ®iÒu kiÖn y tÕ, kh¸m ch÷a bÖnh. TrÎ em, ng−êi cao tuæi, phô n÷ mang thai lµ nh÷ng<br />
®èi t−îng lu«n cÇn cã sù quan t©m ®Æc biÖt trong c¸c ch−¬ng tr×nh.<br />
Các đánh giá tổng quan gần đây về tình hình thực hiện chiến lược dân số (Knowles,<br />
2005; Haub và Phuong, 2003) cho thấy mức sinh ở nước ta đang trên đường suy giảm bền<br />
vững. Theo nh÷ng kÕt qu¶ míi nhÊt cã ®−îc tõ cuéc §iÒu tra BiÕn ®éng d©n c− n¨m 2005,<br />
møc sinh ë n−íc ta tiÕp tôc gi¶m theo xu h−íng tõ h¬n 10 n¨m qua (Tæng côc Thèng kª,<br />
2005a). TÝnh ®Õn thêi ®iÓm hiÖn nay, tû suÊt sinh chung ®· gÇn nh− ®¹t møc thay thÕ (2,11<br />
con tÝnh trung b×nh cho mét phô n÷). So víi c¸c n−íc trong khu vùc, møc sinh cña ViÖt Nam<br />
thÊp h¬n nhiÒu so víi møc sinh cña khu vùc §«ng Nam ¸ (2,7 con) vµ hiÖn chØ ®øng sau<br />
Singapore (1,3 con) vµ Th¸i Lan (1,7 con) lµ c¸c n−íc qu¸ ®é d©n sè diÔn ra ®· tõ l©u.<br />
Các đánh giá tổng quan trên cũng cho thấy tuy chúng ta đã đạt được những thành tựu<br />
đáng kể trong giảm sinh ở các vùng có mức sinh cao (Tây Bắc, Tây Nguyên, và Bắc Trung<br />
Bộ), mức sinh ở các vùng này vẫn cao hơn đáng kể so với các vùng còn lại, đặc biệt là Tây<br />
Nguyên (Tổng cục Thống kê, 2005a). Tuy nhiªn, sù kh¸c biÖt vÒ tû suÊt sinh chung gi÷a thµnh<br />
thÞ vµ n«ng th«n hiÖn nay lµ kh«ng lín (1,7 con vµ 2,3 con). So víi mÆt b»ng chung, møc sinh<br />
cña hai vïng ®ång b»ng s«ng Hång vµ §«ng Nam Bé ®· thÊp h¬n møc sinh thay thÕ, ®Æc biÖt ë<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
38 Mét sè vÊn ®Ò vÒ b¶o trî x· héi t¹i ViÖt Nam tõ gãc ®é nh©n khÈu häc<br />
<br />
c¸c tØnh §«ng Nam Bé lµ khu vùc cã møc ®é c«ng nghiÖp ho¸ cao (1,85 con/phô n÷). Cïng víi<br />
nh÷ng bÊt b×nh ®¼ng g¾n liÒn víi t×nh tr¹ng ph¸t triÓn kh«ng ®ång ®Òu gi÷a c¸c vïng miÒn, c¸c<br />
yÕu tè nh©n khÈu sÏ liªn quan trùc tiÕp vµ cã ¶nh h−ëng quan träng ®Õn nhu cÇu an sinh x· héi.<br />
Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước có cấu trúc dân số trẻ và phần đáy tháp dân<br />
số mới bắt đầu thu hẹp trong khoảng 15 năm trở lại đây. Hình 1 trình bày tháp dân số<br />
Việt Nam hiện tại và dự đoán cho 10, 20 và 30 năm sau. Có thể dễ dàng nhận thấy sự mất<br />
cân bằng giới được thể hiện rõ với tỉ lệ nam nhiều hơn nữ ở các đoàn hệ trong phần đáy<br />
tháp và ngược lại ở các đoàn hệ người già.<br />
Hình 1: Tháp dân số Việt Nam hiện tại và dự đoán cho 10, 20, và 30 năm sau<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Tổng cục Thống kê Hoa Kỳ, nguồn Dữ liệu Quốc tế, 2006<br />
<br />
Các bằng chứng hiện có đều cho thấy quá độ dân số nước ta đang bước vào giai<br />
đoạn cuối của quá độ dân số với đặc trưng mức sinh và mức chết đều thấp. Tuy nhiên,<br />
một trong những điểm nổi bật của biến động dân số ở nước ta là sự biến động không đồng<br />
đều giữa nông thôn và thành thị cũng như giữa các vùng địa lý. Bên cạnh đó, di dân và đô<br />
thị hóa cũng đang ngày một sôi động hơn và làm cho các nhóm dân cư hiện có thêm đa<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
NguyÔn Thanh Liªm & §Æng Nguyªn Anh 39<br />
<br />
dạng. Các đặc trưng nhân khẩu và biến động dân số trên đã tạo ra những tác động đáng kể<br />
đến nhu cầu bảo trợ xã hội.<br />
Bên cạnh tốc độ giảm sinh nhanh, di dân và đô thị hóa đang đóng góp rất đáng kể<br />
vào bức tranh biến động dân số tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê Tổng điều tra Dân số<br />
và Nhà ở năm 1999, dân số di cư được thống kê chính thức chiếm gần 4,5 triệu người.<br />
Trong số khoảng 2,3 triệu người di chuyển hướng đến thành thị. Số lượng người di dân<br />
đến các đô thị lớn trên thực tế còn cao hơn rất nhiều lần do các số liệu thống kê chính<br />
thức thường không bao gồm những đối tượng tạm trú, không đăng ký, trong đó có rất<br />
nhiều lao động di dân con lắc và đi làm ăn theo mùa vụ.<br />
3. Tác động của biến động dân số lên bảo trợ xã hội<br />
Trước khi tìm hiểu các tác động của biến động dân số lên bảo trợ xã hội, cần làm<br />
rõ một vấn đề mang tính cơ bản liên quan đến khái niệm về bảo trợ xã hội. Chúng tôi cho<br />
rằng đây là một việc làm cần thiết do hiện nay có quá nhiều định nghĩa khác nhau về bảo<br />
trợ xã hội và hiện chưa có sự thống nhất trong cách sử dụng ngôn từ trong các tài liệu<br />
hiện có.<br />
Định nghĩa bảo trợ xã hội<br />
Tính phổ cập của thuật ngữ “bảo trợ xã hội” có thể thấy qua những tài liệu mới<br />
đây và qua các cuộc tranh luận chính sách. Với chừng mực này hay chừng mực khác, nền<br />
tảng khái niệm bảo trợ xã hội cần được phân tích (Conway và Norton, 2002). Mặc dù bảo<br />
trợ xã hội được đề cập rộng rãi ở các quốc gia phát triển cũng như đang phát triển<br />
(Norton, Conway và Foster, 2002), khái niệm này vẫn còn khá khó hiểu, chủ yếu là do có<br />
nhiều cách định nghĩa và cách giải thích.<br />
Mặc dù các tổ chức quốc tế khác nhau sử dụng sự bảo trợ xã hội theo nhiều ý<br />
nghĩa và điểm trọng tâm khác nhau. Nhìn chung, sự nhấn mạnh khái niệm của một tổ<br />
chức phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố liên quan đến sứ mạng của tổ chức đó đối với các<br />
vấn đề và cách mà cuộc bàn luận về bảo trợ xã hội diễn ra trong tổ chức đó. Đa số các tổ<br />
chức chọn cách tiếp cận hành động đối với các chính sách bảo trợ xã hội, coi đây như là<br />
một tổng hoà các biện pháp kiềm chế nguy cơ và cải thiện hoặc bảo vệ sinh kế.<br />
Hầu hết các định nghĩa trên đây đều mang tính hai mặt, đề cập cả bản chất của sự<br />
bảo trợ xã hội và hình thức của phản ứng chính sách. Chẳng hạn, trong định nghĩa của<br />
Ngân hàng Thế giới, tính dễ tổn thương được nhìn nhận theo những nguy cơ liên quan<br />
đến sự mất ổn định thu nhập và tiêu dùng. Còn Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì có xu<br />
hướng định nghĩa sự bảo trợ xã hội theo mức sống và quyền con người. Cơ quan này<br />
thiên về dựa vào những giả thiết gắn với điều kiện lao động. Ngân hàng Phát triển châu Á<br />
(ADB) thì chú trọng vào tính dễ tổn thương về y tế và thể chất trong tương quan với sự<br />
tiêu dùng khi có những biến động. Cơ quan Quốc tế Phát triển Hải ngoại (ODI) thì nhấn<br />
mạnh những quan điểm mang tính quy chuẩn, kêu gọi phải có những hành động chung<br />
nhằm đối phó với các cấp độ dễ tổn thương và sự bần cùng hóa, những cái không thể<br />
chấp nhận.<br />
Cho dù với định nghĩa nào thì gắn liền với bảo trợ xã hội là tính dễ bị tổn thương.<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
40 Mét sè vÊn ®Ò vÒ b¶o trî x· héi t¹i ViÖt Nam tõ gãc ®é nh©n khÈu häc<br />
<br />
Những khái niệm nền tảng về sự bảo trợ xã hội và các hệ luỵ chính sách đều nhằm tập<br />
trung vào việc giảm bớt nguy cơ tổn thương trong sinh kế, cung cấp lưới bảo vệ cho<br />
những đối tượng “nghèo”, “dễ tổn thương” và “bị gạt ra ngoài lề” hoặc “bị bỏ quên”.<br />
Nghèo đói, cũng như nguy cơ bị gạt ra ngoài lề xã hội, có thể làm trầm trọng thêm tính dễ<br />
tổn thương song không nhất thiết là yêu cầu đầu vào của các chính sách bảo trợ xã hội.<br />
Ngân hàng Thế giới (WB)<br />
- Những thước đo công khai nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng<br />
trong việc kiềm chế nguy cơ về thu nhập sao cho giảm được khả năng bị tổn thương và<br />
những bấp bênh về thu nhập.<br />
- Nhấn mạnh khái niệm: Sự kiềm chế nguy cơ giúp điều chỉnh sự bảo trợ xã hội với<br />
tư cách vừa là mạng lưới an toàn vừa là bàn đạp thông qua sự phát triển yếu tố con nguời.<br />
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)<br />
- Định nghĩa: Sự cung cấp các phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua các<br />
cơ chế Nhà nước và tập thể nhằm bảo vệ chống giảm sút mức sống hoặc mức sống thấp.<br />
- Sự nhấn mạnh khái niệm chủ yếu về bảo hiểm và mở rộng sự cung cấp ra cho<br />
những đối tượng ở khu vực không chính thức.<br />
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)<br />
- Định nghĩa: Sự bảo trợ xã hội đề cập một tập hợp các chính sách công nhằm<br />
giảm nhẹ tác động của những biến động bất lợi lên hộ gia đình và cá nhân.<br />
- Nhấn mạnh khái niệm: Con người dễ bị tổn thương nếu không có bảo trợ xã hội;<br />
tác hại của sự thiếu bảo trợ xã hội đối với vốn con người.<br />
Cơ quan Quốc tế Phát triển Hải ngoại (ODI)<br />
- Định nghĩa: Sự bảo trợ xã hội đề cập những hành động chung đáp lại các cấp độ<br />
dễ bị tổn thương, nguy cơ và sự bần cùng hóa, những cái được coi là không thể chấp nhận<br />
được về mặt xã hội.<br />
- Nhấn mạnh khái niệm: Sự hiểu biết cụ thể tùy theo bối cảnh về tính dễ tổn<br />
thương và sự bần cùng hóa. Sự bảo trợ xã hội được hướng vào những người nghèo nhất,<br />
dễ bị tổn thương nhất hoặc khó khăn nhất, là những người ở tầng lớp không ai mong<br />
muốn về mặt xã hội.<br />
Nguồn : Chỉnh lý theo Conway và Norton (2002)<br />
<br />
Bảo trợ cho ai hay ai cần được bảo trợ và nhu cầu bảo trợ gì?<br />
Đối tượng của bảo trợ xã hội thường bao gồm các nhóm yếu thế, có hoàn cảnh<br />
khó khăn, và thông thường bao gồm phụ nữ, người già cô đơn, không nơi nương tựa, trẻ<br />
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Dù ở Việt Nam hay bất cứ đâu, nhóm đối tượng nhận<br />
được sự quan tâm nhiều nhất của bảo trợ xã hội luôn là người nghèo vì xoá đói giảm<br />
nghèo là động lực cao nhất của bảo trợ xã hội.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
NguyÔn Thanh Liªm & §Æng Nguyªn Anh 41<br />
<br />
Một trong những cách được dùng để xác định đối tượng cần được ưu tiên trong<br />
bảo trợ xã hội là sử dụng tháp dân số. Các nước đã phát triển thường có cơ cấu dân số già<br />
và vì vậy vấn đề bảo trợ người già được đặt lên hàng đầu. Với các nước đang phát triển<br />
có cấu trúc dân số trẻ, bảo trợ trẻ em thường nhận được sự ưu tiên lớn hơn do tỉ trọng khá<br />
lớn của trẻ em trong dân số. Từ các tháp dân số của nước ta nêu trong phần trên, chúng ta<br />
có thể đưa ra một số nhận định sau về nhu cầu bảo trợ xã hội ở Việt Nam. Thứ nhất, cấu<br />
trúc dân số của nước ta về cơ bản vẫn mang đặc trưng của một nước đang phát triển với<br />
cấu trúc trẻ. Vì vậy, bảo trợ cho trẻ em cần được đặt lên ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn<br />
hiện nay và kể cả những giai đoạn tới.<br />
Trước hết, tháp dân số dự đoán cho thấy, đến năm 2025 cơ cấu tuổi của dân số<br />
nước ta vẫn tương đối trẻ và vì vậy nhu cầu ưu tiên này cần đặt ra cho trong không chỉ 5<br />
hay 10 năm mà 20 năm nữa. Hơn nữa, ưu tiên bảo trợ trẻ em - thế hệ tương lai của đất<br />
nước - càng cần được củng cố thêm với định hướng chiến lược nâng cao chất lượng dân<br />
số như hiện nay.<br />
Thứ hai, với quy mô dân số còn tiếp tục gia tăng trong vài thập niên nữa, cần lưu<br />
ý đến sự đa dạng trong nhóm người cao tuổi và các đặc trưng riêng của nước ta để có<br />
được cái nhìn chính xác hơn. Biến đổi xã hội nhanh chóng trong thời kỳ qua đã tạo ra<br />
những tác động đáng kể đến người cao tuổi. Do đơn vị bảo trợ xã hội cơ bản hiện nay vẫn<br />
chủ yếu là gia đình, người già ở nông thôn có khả năng nhận được nhiều sự trợ giúp từ<br />
gia đình người thân hơn người già đô thị do quy mô gia đình nhỏ ở thành phố và mạng<br />
lưới xã hội ở nông thôn thường rộng lớn hơn so với mạng lưới xã hội ở đô thị. Vì vậy, so<br />
với nông thôn, từ góc độ nhân khẩu học xã hội thì nhu cầu được bảo trợ của người già ở<br />
khu vực đô thị dường như mạnh hơn.<br />
Thứ ba, có thể nhận thấy từ các tháp dân số sự mất cân đối đáng chú ý giữa nam<br />
và nữ trong một số đoàn hệ. Ở những đoàn hệ trẻ em (dưới 15 tuổi), tỉ trọng trẻ em nam<br />
cao hơn trẻ em nữ. Trong khi đó, điều ngược lại xảy ra với các đoàn hệ người già (trên 60<br />
tuổi), trong đó tỉ trọng các cụ bà cao hơn tỷ trọng các cụ ông do tuổi thọ trung bình khác<br />
nhau giữa hai giới. Bài toán bảo trợ, do đó, không nên và không thể áp đặt ngang bằng<br />
nhau giữa các nhóm nhân khẩu.<br />
Tuy tháp dân số tuy đã đưa ra được những đóng góp đáng kể nhằm xác định rõ<br />
ràng hơn các nhu cầu của bảo trợ xã hội trong dân cư, song do đặc điểm quá đơn giản của<br />
mô hình tháp dân số nên nó không thể thể hiện tất cả các ảnh hưởng của biến động dân số<br />
đối với bảo trợ xã hội. Do vậy, vấn đề tiếp theo có liên quan đến sự mất cân bằng giới<br />
nhưng không thể hiện trong tháp dân số là sự tập trung các lao động cùng giới - mà chủ<br />
yếu là lao động nhập cư - tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tình trạng này có thể đã<br />
dẫn đến các hệ quả xã hội phức tạp và các vấn đề xã hội cần quan tâm như tình trạng độc<br />
thân, mại dâm, tình dục đồng giới, sức khoẻ sinh sản và mất cân bằng tâm sinh lý. Các hệ<br />
quả này cho thấy tình trạng tổn thương của các nhóm lao động đồng giới với quy mô rất<br />
lớn này, từ đó đặt ra nhu cầu bảo trợ cho những nhóm này.<br />
Thứ năm, những khác biệt trong biến động dân số giữa nông thôn và đô thị đã đặt<br />
ra những vấn đề bảo trợ rất khác nhau cho khu vực nông thôn và đô thị. Tại nông thôn<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
42 Mét sè vÊn ®Ò vÒ b¶o trî x· héi t¹i ViÖt Nam tõ gãc ®é nh©n khÈu häc<br />
<br />
miền núi, mức sinh vẫn ở mức cao trong khi mức sinh tại các khu vực đô thị, đặc biệt là<br />
các thành phố lớn, đã giảm xuống dưới mức sinh thay thế. Số liệu thống kê cho thấy Tây<br />
Nguyên vẫn là vùng cần quan tâm khi cả tỉ lệ sinh và tỉ lệ tử vong của vùng này vẫn ở<br />
mức cao. Do vậy, bên cạnh các chính sách bảo trợ đại trà theo chiều rộng, bảo trợ xã hội<br />
theo các vùng trọng điểm vẫn cần được quan tâm xem xét.<br />
Thứ sáu, khi mức sinh đang tiệm cận mức sinh thay thế, gia đình sẽ có quy mô<br />
nhỏ hơn trong tương lai. Cùng với những thay đổi hành vi theo hướng sống độc lập hơn<br />
của thanh niên hiện nay thì chỗ dựa bảo trợ vào gia đình sẽ trở nên ngày càng hạn chế.<br />
Thách thức đối với bảo trợ xã hội từ ngoài gia đình và nhu cầu tự bảo trợ càng lớn hơn.<br />
Do vậy, cần tiên lượng được các nguồn lực thay thế cho bảo trợ của gia đình, vốn cũng đã<br />
quá tải, cũng như khả năng tài chính cho bảo trợ xã hội từ nguồn này. Nhu cầu tự bảo trợ<br />
cũng đồng nghĩa với việc người dân có nguồn tiết kiệm lúc cần thiết, có khả năng độc lập<br />
khi gặp khó khăn. Nhu cầu này sẽ được trình bày rõ hơn trong nhận định tiếp theo.<br />
Thứ bảy, bảo trợ cho người già và trẻ em thường nhận được sự quan tâm hàng đầu<br />
song việc bảo trợ cho nhóm thanh niên và trung niên không thể coi nhẹ, bởi chính nhóm<br />
thanh niên và trung niên này đang là những người trong độ tuổi lao động, tạo ra nhiều của<br />
cải vật chất, là nguồn lực đóng góp chính cho bảo trợ xã hội. Hơn nữa, cũng chính họ sẽ<br />
trở thành nhóm người cần được nhận bảo trợ chỉ trong vài thập niên sau nữa.<br />
Trong điều kiện trình độ phát triển còn ở mức thấp, việc huy động được các nguồn<br />
tài chính cho bảo trợ xã hội sẽ gặp nhiều hạn chế. Chúng ta cần nghĩ đến việc huy động<br />
nội lực trong xã hội, giúp cho người dân có khả năng tự bảo trợ cho chính mình. Bảo trợ<br />
xã hội không phải kêu gọi bằng “lòng hảo tâm” và càng không thể bằng “lòng tốt” được.<br />
Điều đó chỉ có thể thực hiện khi người dân có được những khoản tiết kiệm nhất định, đủ<br />
sức giảm thiểu tính bị tổn thương. Trên bình diện này, phát triển kinh tế và bảo hiểm xã<br />
hội chính là một trong những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo khả năng bảo trợ xã hội và<br />
tự bảo trợ trong dân cư. Chính sách bảo trợ vì vậy cần được xây dựng dựa trên không chỉ<br />
các mục tiêu trước mắt mà còn cần dựa trên cả các mục tiêu chiến lược; và cần có sự linh<br />
hoạt theo các nhóm đối tượng.<br />
Quá trình di dân đang diễn ra nhanh mạnh như hiện nay đã đặt ra bài toán bảo trợ<br />
cho lao động di cư nghèo từ nông thôn đi làm ăn xa ở mọi miền đất nước. Trên thực tế,<br />
lao động di cư đang có những đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế và ổn<br />
định đất nước (Tổng cục Thống kê, 2005b). Song trong bối cảnh hiện nay, họ dường như<br />
chưa nhận được bảo trợ tại địa phương nơi kiếm sống và làm việc, mặc dù quy mô dân số<br />
di cư đang ngày càng tăng lên. Một nghiên cứu mới đây đã cho thấy điều kiện sống và<br />
bảo trợ xã hội là một trong những nhu cầu bức xúc nhất của lao động di cư tại các khu<br />
vực đô thị, các khu công nghiệp nước ta (Đặng và Nguyễn, 2006). Đây chính là hai vấn<br />
đề cần nhận được sự quan tâm trong các chính sách hỗ trợ và bảo vệ cho nhóm dân cư<br />
năng động này. Trên thực tế, do tính di động cao của lao động di cư, các giải pháp bảo trợ<br />
không giới hạn theo khu vực địa lý, không ràng buộc với đăng ký cư trú (chẳng hạn như<br />
việc chấp nhận thẻ bảo hiểm y tế trên toàn quốc thay vì tại địa phương đăng ký nhân khẩu<br />
thường trú) cũng cần được xem xét cân nhắc.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
NguyÔn Thanh Liªm & §Æng Nguyªn Anh 43<br />
<br />
Bảo trợ xã hội cho nhóm dân bị di dời tái định cư đã được nói đến gần đây song<br />
các giải pháp được đưa ra hiện có nhiều vấn đề. Chỉ riêng tại thành phố Hồ Chí Minh<br />
trong 5 năm qua, gần 54 nghìn hộ dân bị ảnh hưởng, cuộc sống bị tổn thương do giải<br />
phóng mặt bằng (Báo Lao động, 2006). Theo cùng nguồn tin, 92,9% dân tái định cư đã<br />
bán lại nhà tái định cư để tìm nơi ở có điều kiện kiếm sống. Tỷ lệ thất nghiệp trong các<br />
hộ gia đình tái định cư tăng từ 15,1 lên 46,7% ở các thành phố lớn. Đây thực sự là những<br />
con số đáng quan tâm. Vấn đề cơ bản không phải là mức giá đền bù thỏa đáng hay không,<br />
mà quan trọng hơn là người dân “bị tách rời khỏi môi trường sống quen thuộc với ruộng<br />
vườn, khu chợ ... họ không còn biết làm gì để sinh sống”. Điều này đang diễn ra không<br />
chỉ ở Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh mà còn phổ biến ở vùng ngoại ô tại các thành<br />
phố thị xã khác đang trong quá trình “chỉnh trang” đô thị. Bài học nhận thấy ở đây cho<br />
bảo trợ xã hội là nếu nhà hoạch định chính sách không cung cấp đúng những gì người dân<br />
cần được bảo trợ thì sẽ tạo ra một sự lãng phí nguồn lực và sự làm gia tăng nguy cơ tổn<br />
thương và hình thành nên những mâu thuẫn trong xã hội. Nghiên cứu tìm hiểu tác động<br />
xã hội của các chương trình tái định cư và hậu tái định cư có thể sẽ mang lại những phát<br />
hiện quý báu về bảo trợ xã hội nói riêng và phát triển xã hội nói chung.<br />
Nhìn chung, Việt Nam đang trải qua một giai đoạn phát triển nhanh, mạnh với<br />
nhiều vấn đề mới nảy sinh và nhu cầu bảo trợ xã hội đang ngày càng hiện lên rõ nét. Sự<br />
thu nhỏ của quy mô gia đình và các mối liên hệ trong đó đã và sẽ làm giảm khả năng bảo<br />
trợ từ gia đình - nguồn bảo trợ truyền thống và tương đối hiệu quả - và đặt ra nhu cầu lớn<br />
hơn với bảo trợ từ ngoài gia đình hay bảo trợ xã hội như một nguồn thay thế. Với những<br />
thành tựu kinh tế đã đạt được, Việt Nam đang trên đường thoát khỏi nghèo đói nhưng<br />
đồng thời các khác biệt giữa các vùng miền, giữa nông thôn và đô thị, giữa các nhóm xã<br />
hội đang ngày càng gia tăng. Những khác biệt này cùng với việc gia tăng và nảy sinh các<br />
vấn đề mới, chẳng hạn những biến động của nhóm dân di cư, và những khác biệt trong<br />
các đoàn hệ tuổi đã tạo ra sự đa dạng trong nhu cầu bảo trợ xã hội. Chúng tôi cho rằng,<br />
các chính sách bảo trợ xã hội cần được xây dựng dựa trên sự đa dạng này của nhu cầu bảo<br />
trợ xã hội để đạt được hiệu quả cao trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế. Hơn nữa,<br />
nhằm đạt được tính bền vững của bảo trợ xã hội, chúng ta cũng cần tính đến các cơ chế<br />
tạo ra khả năng tự bảo trợ của người dân hơn là chỉ tính đến việc tìm ra các nguồn lực bảo<br />
trợ xã hội từ bên ngoài.<br />
Tài liệu tham khảo <br />
1. Báo Lao Động (2006), “92,9 % đã bán lại nhà: Nhức nhối chuyện hậu giải toả”, số 70/2006, Chủ nhật<br />
ngày 12 tháng 3.<br />
2. Bolay, Jean-Claude, Sophie Cartoux, Antonio Cunha, Thai Thi Ngoc Du, và Michel Bassand (1997),<br />
“Sustainable Development and Urban Growth: Precarious Habitat and Water Management in Ho Chi<br />
Minh City, Vietnam”, HABITAT International, Vol. 21(2), trang 185-197, Pergamon, Elsevier Science<br />
Ltd, Exeter, UK.<br />
3. Bùi, Thắng Tất (2000), “After the War: 25 Years of Economic Development in Vietnam”, NIRA<br />
Review Spring 2000, Vol. 7 (2), trang 21-25.<br />
4. Conway, T và A. Norton, 2002, “Lưới, dây thừng, thang và bạt: vị trí của sự bảo trợ xã hội trong các<br />
cuộc tranh luận hiện nay về công cuộc giảm nghèo” Tạp chí Chính sách Phát triển, 20 (5), tháng 11.<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />
44 Mét sè vÊn ®Ò vÒ b¶o trî x· héi t¹i ViÖt Nam tõ gãc ®é nh©n khÈu häc<br />
<br />
5. Đặng, Anh N. (2005), “Di dân trong nước: Vận hội và thách thức đối với công cuộc Đổi mới và phát<br />
triển ở Việt Nam” NXB Thế giới, Hà Nội.<br />
6. Đặng, Anh N. và David R. Meyer (1999), “Impact of Human Capital on Joint-Venture Investment in<br />
Vietnam”, World Development, Vol. 27 (8), trang 1413-1426.<br />
7. Đặng, Anh N. và Nguyễn T. Liêm (2006), “Di dân và các sự kiện vòng đời: báo cáo chuyên đề phân<br />
tích Điều tra Di dân 2004”, báo cáo nộp Tổng cục Thống kê và UNFPA, Hà Nội.<br />
8. Dollar, David và Jennie Litvack (1998), “Macroeconomic Reform and Poverty Reduction in Vietnam”,<br />
trong Dollar, David, Paul Glewwe, và Jennie Litvack (chủ biên), Household Welfare and Vietnam’s<br />
Transition, Hanoi: The World Bank, trang 1-28.<br />
9. Dollar, David và Paul Glewwe (1998), “Poverty and Inequality in the Early Reform Perios”, trong<br />
Dollar, David, Paul Glewwe, và Jennie Litvack (chủ biên), Household Welfare and Vietnam’s<br />
Transition, The World Bank, trang 29-60.<br />
10. GSO (2000a), Statistical Data of Vietnam Socio-economy 1975-2000, Hue: Statistical Publishing<br />
House, 641 trang.<br />
11. GSO (2000b), Vietnam Living Standards Survey 1997-1998, Hanoi: Statistical Publishing House, 448<br />
trang.<br />
12. GSO (2001), Census Monograph on Internal Migration and Urbanization in Vietnam, Hanoi:<br />
Statistical Publishing House, 123 trang.<br />
13. GSO (2005), Press lease on socioeconomic indicators of Vietnam in 2005.<br />
14. Haub, Carl và Phuong Thi Thu Huong (2003), “An Overview of Population and Development in<br />
Vietnam”, Population and Development in Vietnam, report by Population Reference Bureau (PRB) and<br />
the Vietnam National Committee for Population and Family Planning.<br />
15. Knowles, James C. (2005), “Review of Vietnam Population Strategy Implementation: Phase 2001-<br />
2005: An International Perspective”, Report to UNFPA, Hanoi – December.<br />
16. Minot, Nicholas và Bob Baulch (2002), The Spatial Distribution of Poverty in Vietnam and the<br />
Potential for Targeting, MSSD Discussion Paper No. 42, 54 trang.<br />
17. Nguyễn, Liêm T. (2003), “Regional inequality and infant mortality in Vietnam”, bài trình bày tại hội<br />
thảo thường niên của Hiệp hội Dân số Hoa Kỳ, Minneapolis.<br />
18. Norton, A.T., Conway và M. Foster, 2002, “Bảo trợ xã hội: Xác định phạm vi hành động và chính<br />
sách”, Tạp chí Chính sách Phát triển, 20 (5).<br />
19. PWG (1999), Attacking Poverty, Vietnam Development Report 2000 by Poverty Working Group.<br />
20. Tổng cục Thống kê (2005a), “Các kết quả chủ yếu: Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia<br />
đình 1 tháng 4 năm 2005”, Hà Nội.<br />
21. Tổng cục Thống kê (2005b), “Các kết quả chủ yếu: Điều tra di dân 2004”, Hà Nội.<br />
22. UNDP (1998), The Dynamics of Internal Migration in Vietnam, UNDP Discussion Paper 1, Hanoi,<br />
Vietnam, 40 trang.<br />
23. WDI (2003) – World Development Indicators, CD-ROM. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học. www.ios.org.vn<br />