intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghệ Thuật Quay Phim

Chia sẻ: Linh Trang Trang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

214
lượt xem
52
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bố cục và cỡ cảnh trong điện ảnh Bố cục và cỡ cảnh trong điện ảnh Bố cục và cỡ cảnh trong điện ảnh 1/ Cỡ cảnh: Lấy người để phân chia các cỡ cảnh -Viễn cảnh: Bối cảnh rộng - Toàn cảnh : Người toàn thân trong bối cảnh. - Trung cảnh rộng : Người lấy quá nửa từ đầu gối. - Trung cảnh hẹp : Người lấy bán thân. - Cận cảnh rộng : Người lấy từ ngực. - Cận hẹp: Người lấy từ cổ. - Đặc tả : Chi tiết người hay đồ vật 2/ Bố cục...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghệ Thuật Quay Phim

  1. Nghệ Thuật Quay Phim Bố cục và cỡ cảnh trong điện ảnh Bố cục và cỡ cảnh trong điện ảnh Bố cục và cỡ cảnh trong điện ảnh 1/ Cỡ cảnh: Lấy người để phân chia các cỡ cảnh -Viễn cảnh: Bối cảnh rộng - Toàn cảnh : Người toàn thân trong bối cảnh. - Trung cảnh rộng : Người lấy quá nửa từ đầu gối. - Trung cảnh hẹp : Người lấy bán thân. - Cận cảnh rộng : Người lấy từ ngực. - Cận hẹp: Người lấy từ cổ. - Đặc tả : Chi tiết người hay đồ vật 2/ Bố cục trong điện ảnh: Theo từ điển tiếng việt: Bố cục là tổ chức, sắp xếp các thành phần tạo thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Làm thế nào để người xem nhận ra một hay nhiều thông tin bằng hình ảnh trong một tập hợp các hình ảnh - Dựa trên 4 nguyên tăc cơ bản: Đường nét, Hình dạng , Hình khối, chuyển động. A/ Đường nét: - Đường thẳng: Tạo sức mạnh - Những đường thằng đứng, cao: Gợi sự sức mạnh uy ngh - Đường nét cong nhẹ: tạo sự nhẹ nhàng thoải mái. - Đường nét cong mạnh: Gợi sự cảm giác hoạt động vui tươi. - Những nét đứng dài, cong bé dần ở cuối: Gợi vẻ đẹp uy nghi và u buồn. - Những đường ngang hoặc dọc dài: Gợi sự yên lặng nghỉ ngơi. - Những đường chéo đối nhau: Gợi sự xung đột, sức lực - Những đường nét, mạnh, đậm, sắc nét: Gợi sự trong sáng, vui vẻ.
  2. - Những đường nét dịu: Gợi sự trang trọng, yên tĩnh. - Những đường nét bất thường: Hấp đẫn hơn những đường nét bình thường, nhờ khả năng của thị giác. B/ Hình dạng Hình dạng là tất cả những đồ vật tự nhiên hay do con người tạo ra đều có hình dạng, những hình hạng đó rất dễ nhận thấy trong đời sống. Còn hình dạng được tạo ra bởi sự di động của mắt người mang tính trừu tượng hơn bởi nó được di chuyển từ đồ vật này qua vật khác nó có thể vẽ được một hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật., vòng tròn hay nhiều hình dạng khác nhau. - Hình tam giác : gợi cho ta được sức mạnh, sự ổn định. Đó là một khối chặt chẽ khép kín. cảm giác của người xem khi đưa mắt từ điểm này qua điểm khác mà không thể vượt thoát ra được. sự vững chắc đó dễ người ta liên tưởng đến núi non. - Hình tròn: có chiều hướng gắn kết, nắm giữ sự chú ý người xem. Một đò vật hình tròn hay sự sắp xếp theo dạng hình tròn sẽ làm khán giả đưa mắt nhìn quanh mà không vượt thoát ra khỏi khung hình đó. - Hình chữa thập : Đây là hình dạng phối cảnh hiếm hoi được xếp vào tâm của ảnh. Bởi 4 nhánh của chữ thập vươn ra chia đều khung ảnh. Chữ thập gợi sự đồng nhất và sức lực. - Hình dạng “tia tỏa” : Đây là một dạng biến đổi của chữ thập vì có rất nhiều nhánh được tập trung vào trục. dạng này ta gặp rất nhiều trong thiên nhiên. Dạng hình này tạo nên sự vui nhôn hân hoan, vui vẻ. - Dạng hình chữ L : hình này được kết hợp bởi đường thẳng đứng và đường nằm ngang. Nhờ bề ngang tạo cho ta cảm giác nghỉ ngơi và nhờ đường nét vươn lên thẳng đứng ta có cảm giác uy nghi trang trọng. C/ Hình khối : Chúng ta vẫn thường dung những từ như “dáng, hình dạng, hình khối” Cái dáng của của một đồ vật là đường viền của chính đồ vật đó.Hình dạng vừa trừ tượng vừa hình thức còn hình khối là cái chất nặng của hình ảnh của một vật, một khu vực, một hình thể hoặc một tập hợp của tất cả những thứ đó. Khối dạng có thể là một chiếc ôtô, may bay tầu thủy v.v. hoặc cận cảnh thật to của một cái đầu hay được kết hợp của nhiều hình thể, Đường nét và hình dạng có thể khống chế một phối cảnh nhờ giá trị thẩm mỹ và tâm lý ,hoạc thu hút cảm quan khan giả băng sự lôi cuốn xúc động. Nhưng hình khối lại thu hút sự chú ý của khan giả bởi ánh sang, tương phản, Hay mầu sắc. Những thủ pháp này sẽ tạo nên hình khối nổi bật giữa bối cảnh lôn xộn,
  3. rối rắm. - Một hình khối sẫm mầu sẽ nổi bật trên một nên sáng, hoặc hình khối sáng sẽ nổi trên nền tối qua hiệu quả tương phản. Đó là một cách thức đơn giản để nhấn mạnh, để kéo một hình người hay đồ vật ra xa cách với bối cảnh. - Một hình khối to lớn sẽ vượt trội lên cảnh trí nếu được so với một hay nhiều hình khối khác nhỏ bé hơn.Tâm cỡ của hình khối có thể có thể tăng thêm trong tương quan với khung ảnh nhờ cách lựa chọn góc độ thu hình. - Một hình khối không có nhánh vươn ra, không có những đường gây, hoặc lởm chởm sẽ có sức vượt trội nhờ nhờ tính chất gắn kết chặt chẽ. - Hiệu quả của hình khối sẽ vượt trội hơn nữa khi hình khối đó được tạo bởi những đường viền của ánh sáng. Như đám mây đen có đường viền của những tia nắng. D/ Những di động: Bố cục những di động là một dạng đặc biệt trong điện ảnh và Tr/Hình. Nhờ có tính chất thẩm mỹ và tâm lý di đông còn truyền đạt thêm nhiều ý nghĩa rất đa dạng về mặt hình ảnh cũng như cảm xúc đến với người xem. Di động có thể được tạo nên bởi đôi mắt nhìn từ điểm này qua điểm khác trong cảnh, hoặc là di chuyển của các vật trong cảnh quay. Những di chuyển này tạo thành những đường nét liên kết tương tự như đường nét bố cục. Di động có thể thay đổi ngay trong một hay nhiều cảnh quay. *Ý nghĩa của di động: - Di động ngang: Từ trái qua phải làm cho khan giả dễ theo dõi, tự nhiên hơn. Bởi chúng ta đã bị một thói quen đọc sách từ trái qua phải. Di động từ phải qua trái gợi sự mạnh bạo hơn vì nó ngược lại với tự nhiên. - Di động thẳng đứng bay lên : Sự vươn lên vô trọng lượng của các vật chất, như khói, hay tên lửa phóng vụt lên. Gợi ý ước muốn, sự ngưỡng mộ, những cảm giác nhẹ nhàng, hạnh phúc. - Những chuyển động đổ xuống: Gợi cho ta ý nghĩ của sức nặng, của nguy hiểm, của lực đè nén. Những di động hướng xuống, trút xuống cho ta hình ảnh cảu sự tàn phá hoặc sự suy sụp. VD như thác nước - Những di động chéo: là những hình ảnh mang tính căng thẳng nhất vì đó là những đường nét mạnh nhất. Những di động chéo gợi cho ta sự đối kháng, căng thẳng, sức ép. VD: hai lưới kiếm, những đường đạn, sấm chớp V.V
  4. - Những di động cong: Gợi cho ta sự sợ hãi như đường nét uốn lượn của một con rắn. Tuy nhiên những chuyển động vòng tròn hay chuyển động quay vòng lại gợi sự vui tươi như ta thường thấy trong các khu vui chơi giải trí. - Di động của quả lắc: Gợi sự đơn điệu nhàm chán, hay cảnh bước đi bước lại của con người đang bị căng thẳng. - Di động dãn nở ra: VD như mặt hồ nước phẳng lặng bị ném viên gạch hay sự hốt hoảng của một đám đông. - Di động bất thường: Những di động đối với hướng góc độ thu hình, hoặc bất ngờ sẽ hấp dẫn khan giả hơn bởi những kịch tính. VD ôtô lao thẳng vào ống kính, hoăch vật gì đó bất ngờ rời vào gõ độ thu hình. Ánh sáng và một số kĩ thuật quay phim Ánh Sáng Và Một Số Kỹ Thuật Quay Phim Thấy bài này có vẻ được nên post lên cho anh em quay phim nào muốn tìm hiểu thêm về thông tin chuyên ngành.... 1. Họa sĩ vẽ bằng ánh sáng Thời trước, công việc quay phim được giao cho một người. Người này không chỉ sử dụng máy quay mà còn phải rửa và tráng phim trong phòng kín. Tuy nhiên theo thời gian, khi nghệ thuật quay phim ngày càng phát triển và trở nên phức tạp, nhiệm vụ của nhà quay phim dần dần đặc trưng hơn và sự đóng góp của họ trong bộ phim ngày càng quan trọng. Rất nhiều sáng tạo kỹ thuật ghi nhận cho đạo diễn D.W.Griffith bắt nguồn từ nhà quay phim của ông, Billy Bitzer, hoặc sự cộng tác thân thiết đầy sáng tạo giữa hai người. Đạo diễn hình ảnh hiện đại ( Director of Photography- Cinematographer ) không bắt buộc là người trực tiếp cầm máy quay, nhưng họ phải chuyển tải được ý tưởng của biên kịch và đạo diễn thành hình ảnh sống động. Dưới tay Đạo diễn hình ảnh có nhiều người phụ trách từng việc riêng biệt. Những người này giúp Đạo diễn hình ảnh rảnh rang để giải quyết trách nhiệm chính - sáng tạo tâm trạng, không khí, kiểu quay phù hợp cho mỗi cảnh và duy trì chất lượng những việc này trong suốt cả phim. Đạo diễn hình ảnh được coi là hoạ sĩ vẽ bằng ánh sáng. "Nếu không nhờ trình độ và tài năng của đạo diễn hình ảnh thì không thể nào chuyển tác phẩm của nhà văn thành
  5. những cảnh phim sống động cho mọi người xem", nhà quay phim Michael Benson nói. Vai trò của Đạo diễn hình ảnh bắt đầu từ khi phim còn chưa bắt đầu bấm máy. Họ thường xuyên phải hội ý với nhà sản xuất và đạo diễn về vô số chi tiết kỹ thuật, kể cả sự lựa chọn nguyên liệu phim và phòng kín. Họ cũng thường chọn địa điểm được tả trong kịch bản để chắc chắn nó thích hợp với cảnh quay, tính toán bao nhiêu máy quay và dụng cụ ánh sáng đủ để quay cảnh đó. Đạo diễn nghệ thuật và hoạ sĩ thiết kế phông màn cùng thảo luận với đạo diễn hình ảnh về góc độ ánh sáng và cách lắp đặt máy quay trong mỗi cảnh. Nhiều người nghĩ rằng đạo diễn chỉ cho diễn viên những việc phải làm và Đạo diễn hình ảnh ghi hình cảnh đó. Điều đó đúng, nhưng quá trình này không chỉ đơn giản như vậy. Sự chuyển biến từ kịch bản ban đầu đến những hình ảnh trên màn ảnh rộng diễn ra qua ống kính của Đạo diễn hình ảnh. Làm phim là tập hợp những gì có sẵn và lọc qua một thiết bị- máy quay. Trước khi ghi hình cảnh đầu tiên, tất cả chỉ có hợp đồng, ý tưởng, khái niệm, kịch bản, và hy vọng mà thôi. Một khi phim đã khởi quay, đạo diễn hình ảnh là người quan trọng thứ hai trong đoàn, chỉ sau đạo diễn. Làm việc cùng nhau, đạo diễn và đạo diễn hình ảnh quyết định góc quay, bố trí, chuyển động máy quay trong từng phân cảnh. Việc gì đã làm cho đạo diễn hình ảnh đặt máy quay ở đây mà không là ở đằng kia? Janusz Kaminski cho rằng: "Tất cả những kinh nghiệm cuộc đời của một người tạo ra mỗi chọn lựa sáng tạo của anh ta. Đó là điều tạo nên dấu ấn riêng cho mỗi đạo diễn hình ảnh". Rồi họ chọn ống kính và bộ lọc sáng phù hợp để có thể đạt được những nét cơ bản theo kịch bản có trước, xác định độ sáng, dựng dụng cụ tạo sáng để tạo được hiệu quả và màu sắc đặc thù. Sau đó đạo diễn hình ảnh cùng xem lại cảnh đã quay mỗi ngày để đánh giá hiệu quả công việc và thay đổi kịp thời trong lần quay tới. Vào giai đoạn cuối, đạo diễn hình ảnh giám sát sự thay đổi của bản phim đầu tiên trong phòng kín để chắc chắn độ sáng và phong thái các màu sắc chủ đạo phù hợp với những hình ảnh chất lượng trên màn ảnh rộng cho khán giả thưởng thức. Đạo diễn hình ảnh bỏ nhiều thời gian vào công việc, bù lại họ mang đến cho khán giả, trong vài giây phút ngắn ngủi, cơ hội để đến một thế giới hoàn toàn mới lạ. 2. Các vị trí khác trong nhóm quay phim Nhà quay phim ( Camera Operator ) Đạo diễn hình ảnh có phải là nhà quay phim không? Câu trả lời là "phải". Trong những đoàn làm phim nhỏ, Đạo diễn hình ảnh vẫn hay
  6. đảm nhận việc ghi hình. Nhưng nhà quay phim không phải lúc nào cũng là Đạo diễn hình ảnh. Nhà quay phim thường sử dụng ánh sáng từ các hướng khác nhau để quay cận cảnh mặt diễn viên. Đôi lúc trong những cảnh nhiều máy quay phim ở các góc độ, họ không sử dụng ánh đèn nào cả. Nhà quay phim điều khiển máy quay, kiểm tra và chịu trách nhiệm về các đoạn phim đã thực hiện: ánh sáng, góc nhìn, hình ảnh và sự diễn đạt âm thanh. Họ cần nắm rõ cấu tạo của máy quay và thường giải quyết những vấn đề kỹ thuật xảy ra trong suốt quá trình làm phim. Đạo diễn hình ảnh thì thạo sử dụng ánh sáng với nhiều kiểu và độ nhoè khác nhau. Trong những cảnh hoành tráng, đạo diễn hình ảnh thường quản lý nhiều nhà quay phim lo riêng về các chuyển động của máy quay. Sự khác biệt giữa hai chức danh, ngoài kinh nghiệm và kỹ thuật, còn nằm ở khoản lương họ nhận được. Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có thêm: + Trợ lý quay phim thứ nhất ( Focus Fuller ) - thay ống kính, giữ máy quay hoạt động theo đúng chế độ, giữ nguyên mục tiêu khi máy quay chuyển động, đánh dấu vị trí diễn viên đứng và đo khoảng cách từ vật thể đến ống kính. + Trợ lý quay phim thứ hai ( Clap Boy)- chuẩn bị đạo cụ cho Trợ lý thứ nhất, thay phim, điền vào bản báo cáo hoạt động và sử dụng clapperboard ở đầu hay cuối mỗi phân cảnh. Phụ trách ánh sáng ( Gaffer ) Vai trò của người phụ trách ánh sáng ảnh hưởng mật thiết đến sự thành công của một bộ phim. Nói cho cùng, tất cả những công việc sản xuất như phông màn, đạo cụ, tài năng, và quay phim đều phải dựa vào ánh sáng mới nổi bật được. Ánh sáng ẩu dễ làm hư một tác phẩm nghệ thuật, và ngược lại, ánh sáng đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị một bộ phim bình thường. Phụ trách ánh sáng quản lý độ sáng, màu sắc, độ tương phản, nguồn sáng và tính tự nhiên của ánh sáng. Họ cũng thường là người quản lý điện đóm, bảo đảm đủ năng lượng cho các độ sáng ở mọi cảnh quay. Trong những cảnh rộng, họ thường có thợ điện và vài người thợ lắp ráp giúp những việc tay chân cần thiết cho các yêu cầu điện đóm. Nhờ đó người phụ trách có thể rảnh rang lo ánh sáng, cụ thể là thiết kế, sắp đặt, và điều khiển những thiết bị ánh sáng và dàn đèn. Kinh nghiệm và phong cách là những yếu tố cần thiết để chọn một người quản lý ánh sáng. Kinh nghiệm rất quan trọng. Lo ánh sáng cho một góc quay hay nhiều góc quay
  7. cùng một lúc là những chuyện rất khác nhau. Nhiều người phụ trách ánh sáng đã vô cùng lúng túng khi tìm cách lên đèn cho một cảnh sử dụng nhiều máy quay ở các góc độ, nhất là khi họ đã quen với kiểu quay một máy. Nói về phong cách, đó là khả năng ghi nhớ bối cảnh của một bộ phim. Ví dụ trong một bộ phim khung cảnh đồng quê, phụ trách ánh sáng cần chú ý hạn chế kiểu ánh sáng thành thị màu mè. Phụ trách ánh sáng phối hợp chặt chẽ với Đạo diễn hình ảnh để cùng làm tôn lên phong cách nghệ thuật của một bộ phim. Họ thường đứng ở vị trí thứ ba, sau Đạo diễn, Đạo diễn hình ảnh ( và nhà quay phim, nếu có ). Có câu chuyện kể rằng khi một vị đạo diễn hình ảnh nổi tiếng và đáng kính được các sinh viên hỏi điều gì quan trọng nhất họ có thể làm để nâng cao chất lượng hình ảnh, ông đã trả lời: "Hãy thuê người phụ trách ánh sáng tốt nhất có thể, thậm chí chia một phần lương của mình cho anh ta". Trợ lý ánh sáng ( Best Boy ) Trong những đoàn làm phim lớn sẽ có trợ lý ánh sáng. Trợ lý làm việc chủ yếu với đạo diễn hình ảnh và là cánh tay phải của người phụ trách ánh sáng. Công việc chủ yếu của họ là bảo đảm điện năng, chăm lo cho nhóm quay phim, lắp đặt thiết bị, quản lý công việc giấy tờ, và thuê thêm người nếu có những cảnh quay lớn phức tạp. Đôi lúc khi quản lý ánh sáng quá bận, người trợ lý này phải luôn luôn sẵn sàng để phụ việc hoặc làm thay người phụ trách ánh sáng. Một khi Đạo diễn hình ảnh và phụ trách ánh sáng đã hội ý xong, công việc của trợ lý ánh sáng là lên đèn ở độ sáng và mờ cần thiết để phối hợp với tốc độ phim, tương phản, thiết bị lọc sáng, ống kính, và loại phim. Thường những bóng đèn họ sử dụng là những bóng đèn lớn ( 12,000 W đến 36,000 W ) và cần khá nhiều điện năng. Vài loại bóng đèn họ sử dụng được thiết kế đặc biệt chỉ dùng để bắt chước ánh sáng ngày ( đèn HMI ) hoặc đêm ( đèn Tungsten ). Họ cũng có những loại keo để tạo ra nhiều màu sắc khác nhau và làm ánh sáng nhạt hơn. Hậu đài ( Grips ) + Key Grip: Quản lý các nhân viên hậu đài. Đồng thời đây cũng là người tháp tùng và mang theo đầy đủ đồ nghề cho nhà quay phim đến những địa điểm quay. + Second Company Grip: Đặt hàng dụng cụ cần thiết cho công việc hậu đài ở mỗi phim. + Crane/ Dolly Grip: Người thiết kế đường ray máy quay, điều khiển tay cẩu máy quay hoặc lo phần "chân" của các máy quay, như cây chống, cây dù đủ cỡ...
  8. + Construction Grip: Dựng/ tháo phông màn, dựng dàn đèn, bảo trì phông cảnh. + Company Grips: Giúp việc lặt vặt cần thiết khi dựng cảnh. 3. Một số kỹ thuật quay phim Góc quay là góc nhìn từ máy quay với chiều sâu, chiều dài, chiều rộng cân xứng với vật hay hành động được quay. Góc nhìn từ máy quay không chỉ quyết định cái gì sẽ xuất hiện trong cảnh đó mà nói chung còn là cách khán giả sẽ nhìn sự việc - gần hay xa, từ trên xuống hay từ dưới lên, chủ quan hay khách quan… Do đó sự chọn góc quay không chỉ ảnh hưởng đến tiến độ câu truyện mà còn thể hiện chất lượng thẩm mỹ của cảnh quay và quan điểm tâm lý của khán giả. Qua nhiều năm, đạo diễn và nhà quay phim đã thành lập một kiểu quy ước liên quan đến kỹ thuật, thẩm mỹ và đặc tính tâm lý của nhiều góc quay khác nhau. Góc ngang ( vừa tầm mắt ) để diễn tả cảnh giống như thật nhưng ít kịch tính. Người ta cho là nó cung cấp cái nhìn bình thường và thường quay từ độ cao 1.2 m đến 1.8 m. Tầm mắt của nghệ sĩ ( chứ không phải của nhà quay phim ) quyết định chiều cao của máy quay, và đặc biệt chủ yếu trong những khi quay cận cảnh. Vì hướng nhìn bình thường nên cảnh quay góc ngang thường được sử dụng để tạo nên tình huống và chuẩn bị cho khán giả một cảnh liên quan. Trong cảnh quay góc cao máy quay nhìn xuống sự vật. Theo kỹ thuật thì nó có thể cho phép đạo diễn có cái nhìn bao trùm hết mặt đất và hành động trong chiều sâu. Cảnh như vậy cũng sẽ có khuynh hướng làm chậm hành động lại và giảm bớt độ cao của sự vật hay nhân vật ( theo luật xa gần ). Nét đặc trưng cuối cùng này có thể gây ra nhiều hiệu quả tâm lý phụ, ví dụ như cho khán giả cảm giác mạnh mẽ hơn nhân vật trên màn ảnh hay ngụ ý hạ thấp tầm quan trong của bất cứ nhân vật nào với những người hoặc khung cảnh xung quanh. Trong phim của Murnau The Last Laugh, diễn viên Emil Jannings thường được quay từ trên xuống sau sự sụp đổ của ông, trong khi trước đó các cảnh miêu tả ông như là một ông gác cổng kiêu hãnh thường được quay ở góc thấp. Trong cảnh quay góc thấp, máy quay thường đặt ở dưới nhìn lên sự vật. Hiệu quả của cách này thường là để tạo kịch tính, tạo nên sự xuyên tạc quyền lực của viễn cảnh và toàn bộ sự việc. Nó thường đẩy nhanh diễn biến phim, thêm tầm cao và sức mạnh cho nhân vật. Sự sắp đặt máy quay góc thấp chiếm ưu thế trong phim Citizen Kane của Orson Welles để làm nổi bật sự to lớn phi thường của ông trùm báo chí. Để chấp nhận việc thường xuyên sử dụng kiểu quay này, Welles đã phải xây dựng phim trường toàn là trần nhà. Chính sự có mặt khắp nơi của trần nhà ở cảnh nền đã tạo nên một trong
  9. những nét đặc trưng khác thường của Citizen Kane. Chỉ đơn thuần thay đổi góc quay, đạo diễn có thể không chỉ cho thấy sự thăng trầm trong cuộc đời nhân vật mà còn thổi vào thái độ khán giả phải chấp nhận qua những cá tính và hành động trong phim. Sự đa dạng trong các góc quay là vô tận. Không có luật lệ nào về chuyện phải sử dụng góc quay nhất định cho một cảnh nào đó. Góc ngang, góc cao và góc thấp chỉ là những nhóm chính, như là cách quay cạnh ( thêm một chiều nữa cho sự vật ), góc Hà Lan / khung nghiêng ( nhìn sự vật trong cái nhìn nghiêng hiệu quả cao ) và rất nhiều góc quay khác được sử dụng cũng như chưa được biết đến qua bao nhiêu thập kỷ làm phim. Chuyển động máy quay là sự di chuyển ngang, dọc, theo đường ray ( sự chuyển động của máy quay trên một đường ray ngắn đặt sẵn quay theo vật thể di chuyển ) và phóng to thu nhỏ. Có những quy ước quan sát quốc tế dành cho chuyển động máy quay. Theo quy định, một nhà quay phim sẽ chạy máy quay ở vị trí nhất định trong một thời gian ngắn trước khi bắt đầu chuyển động, và đứng im một lần nữa sau khi hoàn tất chuyển động. Luật lệ này không chỉ giúp cho hình ảnh chuyển động uyển chuyển mà còn cho phép biên tập viên có sự lựa chọn giữa cảnh tĩnh và cảnh động khi đang chỉnh sửa phim. Một cách nhìn thoáng hơn về luật này là chuyển động bắt đầu và kết thúc ở một điểm đặc biệt nào đó đã được chọn sẵn và quay tập nhiều lần trước khi quay chính thức. Đạo diễn hình ảnh trong trường hợp này khá quan trọng trong việc quyết định chuyển động máy, ví dụ sau một cảnh quay ngang từ trái sang phải không thể nào có cảnh quay ngang từ phải sang trái, hay là sự chuyển động của nghệ sĩ từ trái sang phải không thể theo sau một sự chuyển động khác từ hướng ngược lại. Ngoài kiểu quay thường còn có kiểu quay cầm tay, một máy quay xách tay nhẹ cân cầm trên tay của nhà quay phim và dựa vào vai của người đó mà không cần dùng chân chống. Kiểu quay này bắt nguồn từ nhà quay phim thời sự và được sử dụng rộng rãi trong các phim tài liệu và những nhà làm phim tiên phong. Đầu những năm 60’ việc sử dụng máy quay phim cầm tay trong việc sản xuất phim điện ảnh ngày càng tăng, vừa tiện lợi vừa đạt được cảm giác thật hơn trong một số cảnh quay.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2