K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br />
<br />
NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG THÀNH NGỮ TRONG TIỂU<br />
THUYẾT "MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI NHIỀU MA" CỦA<br />
NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG<br />
Ths. Nguyễn Thị Hoa<br />
Bộ môn Việt Nam học, Trường Đại học Thăng Long<br />
Tóm tắt: Thành ngữ là một biểu hiện đặc trưng của tiếng nói dân tộc, diễn tả đời<br />
sống văn hóa tinh thần và tình cảm, chứa đựng những giá trị sâu sắc tinh tế của con người<br />
Việt Nam. Thành ngữ được nhà văn Nguyễn Khắc Trường sử dụng một cách phong phú, sinh<br />
động và hết sức độc đáo trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma. Tìm hiểu nghệ thuật<br />
sử dụng thành ngữ trong tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma sẽ cho chúng ta thấy được<br />
giá trị biểu đạt tinh tế và đặc sắc của thành ngữ, thấy được tài năng nghệ thuật ngôn từ của<br />
nhà văn đồng thời góp phần thiết thực cho việc sử dụng và giảng dạy về từ ngữ nói riêng và<br />
tiếng Việt nói chung.<br />
Từ khoá: thành ngữ, Mảnh đất lắm người nhiều ma…<br />
1. Thống kê chung<br />
Tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma dày gần 400 trang và hầu như trang nào tác<br />
giả cũng sử dụng thành ngữ. Tổng số thành ngữ được sử dụng là 371 với 416 lần được nhắc<br />
đến. Có những thành ngữ xuất hiện với tần số cao như: ném đá giấu tay (5 lần), bôi gio trát<br />
trấu (4 lần), ngồi chơi xơi nước (3 lần), mật ngọt chết ruồi (3 lần) v.v…<br />
Trong 371 thành ngữ thì chiếm ưu thế là thành ngữ đối xứng với 217 thành ngữ chiếm<br />
58,5%, tiếp đến là thành ngữ phi đối xứng là 92 thành ngữ chiếm 24,8% và thành ngữ so sánh<br />
là 62 chiếm 16,7%.<br />
Đối với tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma, tỷ lệ sử dụng thành ngữ so với các<br />
tác phẩm khác là khá cao. Phần lớn thành ngữ được phân bố đều ở các trang. Một số thành<br />
ngữ được nhắc đến nhiều lần trong cùng một trang, một đoạn. Một số trang lại xuất hiện nhiều<br />
thành ngữ khác nhau với đủ các kiểu loại. Chính hệ thống thành ngữ này đã tạo nên một giá<br />
trị nghệ thuật ngôn từ rất lớn , mang ý nghĩa thẩm mỹ cao cho tác phẩm.<br />
2. Các phương thức sử dụng thành ngữ chủ yếu trong Mảnh đất lắm người nhiều<br />
ma<br />
Cách dùng thành ngữ của Nguyễn Khắc Trường trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm<br />
người nhiều ma rất linh hoạt và đặc sắc. Qua khảo sát, chúng ta có thể thấy Nguyễn Khắc<br />
Trường khi vận dụng thành ngữ vào văn chương thường chủ yếu thông qua hai phương thức<br />
chính sau:<br />
a. Phương thức thứ nhất là vận dụng trực tiếp thành ngữ vào câu văn, nguyên dạng<br />
những câu thành ngữ vốn có của dân gian để đưa vào truyện như trường hợp :<br />
- Mặc dù vợ chồng Quý làm ăn chỉ giật gấu vá vai chứ không dư dật như ông Phúc'!<br />
- Vợ chồng Quàng trước cũng túng, bóc ngán cắn dài, nhưng dăm bảy năm nay, kể từ<br />
ngày Quàng được giữ chân quỹ tín dụng của hợp tác xã thì đã khá dần lên" ;<br />
- Thế tức là hắn ném đá giấu tay.<br />
Trư ng Đ i h c Thăng Long<br />
<br />
335<br />
<br />
K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br />
<br />
Cách dùng thành ngữ ở nguyên thể là hiện tượng phổ biến. Điều đó cũng dễ hiểu vì<br />
thành ngữ là một đơn vị bền vững của ngôn ngữ. Tính bền vững đó do sự rắn chắc về kết cấu,<br />
sự hoàn chỉnh và bóng bẩy vì nó không phải là tổng số nghĩa của các thành tố mà kết quả của<br />
sự chuyển nghĩa hoặc biểu trưng hoá toan bộ các thành tố cửa thành ngữ coi như một khối<br />
thống nhất Cũng do có tính bóng bẩy mà thành ngữ thưởng làm chức năng biểu hiện (gợi tả<br />
và biểu cảm) hơn là chức năng định danh. Nó trước hết là một phạm trù tu từ- ngữ nghĩa. Về<br />
mặt kết cấu, tính bền vững của thành ngữ thể hiện ở sự cố kết ở mối quan hệ giữa các thành<br />
tố, mà những thành tố ấy là những cái xác định (không thể tuỳ tiện thay đổi được).<br />
Như vậy cách vận dụng trực tiếp thành ngữ vào câu văn phải nói là tương dối khó vì<br />
nó đòi hỏi nhà văn một khả năng cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của những câu thành ngữ<br />
mà họ định sử dụng để xem nó có phù, hợp với ý nghĩa mà mình định trình bày ở trong câu và<br />
trong đoạn văn hay không. Đồng thời, nhà văn cũng phải là người hết sức giỏi và vững tay về<br />
khả năng xử lý ngôn từ để có thể ghép những câu thành ngữ vốn là một,'khối tù ngữ đúc sẵn"<br />
vào với những từ ngữ chủ quan riêng của mình đề tạo nên một câu văn, ý văn hoàn chỉnh mà<br />
không bị cứng nhắc, gượng ép về nghĩa.<br />
b. Phương thức thứ hai là sử dụng thành ngữ ở dạng biến thể của nó.<br />
Nói thành ngữ là một đơn vị bền vững và ổn định không có nghĩa là đông cứng và bất<br />
biến. Dưới ngòi bút bậc thầy của Nguyễn Khắc Trường, thành ngữ trở thành một phương tiện<br />
tu từ rất sinh động và tinh tế. Nhà văn không bao giờ tự hạn chế mình trong khuôn khổ của<br />
việc dùng thành ngữ như một hằng thể. Sự linh hoạt trong việc sử dụng thành ngữ của<br />
Nguyễn Trường thể hiện ở chỗ nhà văn đã chọn cách dùng các biến thể của thành ngữ trong<br />
văn của mình rất nhuần nhị.<br />
Trong tiếng Việt, biến thể của thành ngữ mà hình thức mới so với nguyên thể bao giờ<br />
cũng có ít nhiều biến đổi trong phạm vi các yếu tố có tính chất thứ yếu. Nghĩa là kết cấu của<br />
biến thể so với nghĩa và kết cấu của nguyên thể về cơ bản là không đổi. Mỗi thành ngữ có thể<br />
có ít hoặc nhiều biến thể. Việc tạo biến thể của thành ngữ tuỳ thuộc vào đặc điểm kết cấu của<br />
thành ngữ, còn việc chọn dùng thành ngữ thì tuỳ thuộc vào yêu cầu của việc diễn đạt tư<br />
tưởng, tình cảm.<br />
Thực tế trong tác phẩm Mảnh đất lắm ngữ nhiều ma cho thấy những biến thể của<br />
thành ngữ xuất hiện trong tác phẩm có nhiều vẻ.<br />
*Trước hết đó là những thành ngữ mà trật tự các thành tố được nhà văn đảo lại bằng<br />
nhiều cách khác nhau.<br />
Khi thì tác giả đổi vị trí của hai vế trong thành ngữ chẳng hạn:<br />
- "Ông định bao che để trả ơn thằng Thủ hả? Định để sáng mai rồi đổi trắng thay đen,<br />
cứt trâu hoá bùn hả? "<br />
- "Dòng họ Vũ nhà này chua cay ác độc, mấy đời nay thường thay đen đổi trắng, từng<br />
buôn quạ bán diều, buôn rết bán rắn, gây nhiều tai vách với họ Trịnh nhà con!”<br />
Ở câu thứ hai, Nguyễn Khắc Trường đã đảo lại trật tự của thành ngữ " đổi trắng thay<br />
đen". Hoặc thành ngữ "nửa tỉnh nửa mê" được tác giả đổi thành "nửa mê nửa tỉnh" ( "nửa mê<br />
nửa tỉnh vội vã nằm trên đất" )<br />
<br />
Trư ng Đ i h c Thăng Long<br />
<br />
336<br />
<br />
K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br />
<br />
Như một quy luật tất cả những biến thể đảo ngữ của thành ngữ (phần lớn là thuần<br />
Việt) đều bắt nguồn từ những thành ngữ được cấu tạo theo phương thức liên hợp (hay cũng<br />
gọi là đẳng lập). Chúng tôi không gặp một biến thể đảo nào ở những thành ngữ được cấu tạo<br />
theo các phương thức khác kiểu như: cá nằm trên thớt, châu chấu đá xe...<br />
Phần lớn những thành ngữ đảo có tác dụng làm cho âm diệu câu văn thêm hài hoà,<br />
uyển chuyển, góp phần đắc lực vào việc thể hiện ý đồ của nhà văn.<br />
*Một cách khác mà Nguyễn Khắc Trường đã dùng để tạo ra các biến thể là chêm xen<br />
những yếu tố phụ vào thành ngữ. Các yếu tố phụ này được chêm vào nhằm thể hiện dụng ý<br />
của nhà văn. Ví dụ:<br />
- "Cũng đã nhiều phen bò lê bò càng bố mẹ phải bán tất cả lợn nái, và đàn lợn giống<br />
để mua mật gấu bóp mới khỏi, nhưng rồi chứng nào lại tật ấy. Ưởng đi lính được một năm thì<br />
bị loại ngũ vì quá nhiều vụ vô kỷ luật "<br />
Phụ từ "lại" được thêm vào trong thành ngữ nhằm mục đích nhấn mạnh tính cách nhân<br />
vật trong. Một con người đã "từng nhiều thành tích bất hảo, đã đón đường đánh cả thầy giáo<br />
vì không cho chúng lên lớp học vì quá dốt... đến khi đi lính chưa được một năm thì bị loại ngũ<br />
vì quá nhiều vụ vô kỷ luật." Đó là kiểu người không sửa chữa được tật xấu của mình, vẫn<br />
"chứng nào tật ấy", " ngựa quen đường cũ".<br />
3. Sự sáng tạo trong cách dùng thành ngữ của Nguyễn Khắc Trường.<br />
Nói đến văn chương là nói đến sáng tạo. Để làm nên nét riêng cho mình trên hành<br />
trình tìm đến nghệ thuật, Nguyễn Khắc Trường đã dụng công sáng tạo ra một hệ thống ngôn<br />
ngữ đậm chất khẩu ngữ bằng một loạt thành ngữ phong phú sinh động. Bên cạnh những<br />
phương thức sử dụng thường gặp chúng ta cũng thấy được những sáng tạo riêng biệt của nhà<br />
văn trong cách dùng thành ngữ để tạo nên một giọng văn riêng, một phong cách riêng của<br />
Nguyễn Khắc Trường.<br />
Đọc những trang viết của Nguyễn Khắc Trưởng, nhiều khi chúng ta không thấy có<br />
thành ngữ hiện lên trên bề mặt văn bản, trên câu, trên chữ, nhưng lại thấy nó ở bề sâu, ở<br />
những hàm ý ẩn sau câu chữ ấy, nhưng đó là cách dùng thành ngữ dưới dạng không thành<br />
ngữ. Đó là cách dùng thành ngữ ẩn sau một từ vốn là thành tố của nó. Như câu: "Con ma keo<br />
kiệt trong người Quàng đã xui Quàng làm một việc táng tận". Trong câu này, táng tận xuất<br />
hiện cùng với ý nghĩa của câu làm cho ta liên tưởng tới thành ngữ "táng tận lương tâm". Ở<br />
đây việc làm "táng tận" của chúng là "hắn chôn ông anh khốn khổ bắng bó chiếu". Hoặc trong<br />
câu "một nồi thóc, đó là cách gọi cổ truyền ở đây, là chừng 330 cân đến mùa mới trả không<br />
lấy lãi, lòng tốt ấy bây giờ đến bói không ra". Ở đây tác giả sử dụng tắt thành ngữ "bói chẳng<br />
ra sờ chẳng thấy" bằng cụm từ bói không ra. Thực ra thành ngữ bói chẳng ra sở chẳng thấy là<br />
dùng để chỉ trong lúc túng thiếu không có cách gì để kiếm tiền tiêu. Còn ở trong này tác giả<br />
không nói đến tiền bạc, vật chất mà nói đến tình cảm, về lòng tốt, với ý nghĩa: trong thời buổi<br />
này “lòng lốt ấy" không thể tìm thấy được. Vì thế mà tác giả không dùng cả nguyên câu thành<br />
ngữ mà chỉ dùng một cụm từ “bói không ra”. Thành công của Nguyễn Khắc Trường là ở chỗ<br />
nhà văn đã tạo ra được một ngữ cảnh có hàm ý sâu: Trong văn bản là "táng tận" và "bói<br />
không ra" xuất hiện vừa như một từ ngữ được vận dụng độc lập, lại vừa như một thành tố vốn<br />
có của các thành ngữ " táng tận lương tâm", " bói chẳng ra sờ chẳng thấy" lại vừa như choán<br />
nghĩa của cái thành ngữ mà nó vốn chỉ là một thành tố. Mối quan hệ giữa cái bề mặt và cái<br />
<br />
Trư ng Đ i h c Thăng Long<br />
<br />
337<br />
<br />
K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br />
<br />
chiều sâu của câu văn giữa cái riêng trong ngôn ngữ của Nguyễn Khắc Trường với cái chung<br />
của Tiếng Việt ở đây rất mật thiết và tế nhị.<br />
Hay là những câu như:" Thế là đã giết nhau không gươm giáo " tạo cho người đọc một<br />
ấn tượng gần gũi thân thuộc vì ẩn đằng sau nó là một thành ngữ "giết người không dao " ;<br />
"đến lão Khẩu say đái ra quần mà còn biết có yên gia mới bình được quốc” có ẩn thành ngữ<br />
"tề gia tri quốc bình thiên hạ "; Hay "cô ả xem ra đã quá trớn, ngựa không quen đường cũ<br />
(ngựa quen đường cũ).<br />
Những câu văn của Nguyễn Khắc Trường rất giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói của<br />
quần chúng, sở dĩ như thế một phần là nhờ sau những câu, những chữ ấy có ẩn thành ngữ .<br />
Như vậy dưới bất kỳ hình thức nào, về thực chất phương thức dùng thành ngữ dưới<br />
dạng không thành ngữ là: thành ngữ được đưa vào ngữ cảnh không phải với nghĩa là kết cấu<br />
nguyên vẹn của nó, mà dưới dạng những từ ngữ vốn là thành tố của thành ngữ ấy, cùng với<br />
cái ẩn ý, cái hình ảnh của nó thấp thoáng ở chiều sâu trong ngữ cảnh. Nói một cách khác,<br />
dùng thành ngữ dưới dạng không thành ngữ tức là dùng cái thần của thành ngữ chứ không<br />
dùng cấu trúc của nó.<br />
Bên cạnh việc sử dụng thành ngữ vốn có một cách linh hoạt, sáng tạo. Nguyễn Khắc<br />
Trường còn tạo ra những tổ hợp từ có tính thành ngữ. Đó là những tổ hợp từ do cách dùng<br />
thành công của tác giả mà có sự chuyển nghĩa hoặc biểu trưng hoá toàn khối mới nay sinh ra<br />
lời nói. Xét về nguồn gốc và cấu tạo thì thấy những tổ hợp có tính thành ngữ trong tiểu thuyết<br />
Mảnh đất lắm người nhiều ma gồm hai loại :<br />
1 Một loại bắt nguồn từ các thành ngữ vốn có.<br />
2. Một loại được tạo từ các tổ hợp từ tự do.<br />
Nhìn chung loại thứ nhất chiếm tỷ lệ cao. Chúng được tạo ra bằng cách chính là thay<br />
thế một vài thành tố của thành ngữ vốn có. Ví dụ: " ra ngô ra khoai " gốc của nó là " ra môn<br />
ra khoai ", " bán ngựa tậu trâu gốc của nó là: “bán bò tậu ễnh ương”, " sống hiền thác lành "<br />
có gốc là " sống khôn thác thiêng', " nghĩ tới nghĩ lui” có nguồn gốc thành ngữ " nghĩ trước<br />
nghĩ sau" ... Đây là những thành ngữ được biến thể từ một thành ngữ gốc.<br />
Biến các tổ hợp từ tự do thành các tổ hợp từ có tính thành ngữ là làm cho nó chuyển<br />
nghĩa hoặc có nghĩa biểu trưng. Điều đó được Nguyễn Khắc Trường thực hiện bằng nhiều<br />
cách khác nhau. Chẳng hạn trong câu: Tiếng hót của con chim trước khi chết là tiếng hót hay,<br />
lơi dặn dò trước khi chết là lời thiêng nước độc. "Lời thiêng nước độc" là tổ hợp có tính thành<br />
ngữ được lắp ráp theo khuôn mẫu của thành ngữ, kiểu như: "rừng thiêng nước độc”. Hay<br />
trong câu: "cũng nói vanh vách những thượng thu hạ thách, những cầu kìm chống chéo để bớt<br />
được tụi Ba Sao" thì trong " thượng thu hạ thách "" là tổ hợp có tính thành ngữ được lắp ráp<br />
theo khuôn mẫu " thượng vàng hạ cám" .v.v...<br />
Có những tổ hợp kiểu như vậy nảy sinh từ cách viết hoặc cách nói thành công của<br />
chính tác giả: Lão húp sịt soạt, nuốt chửng, như voi uống thuốc gió/ Vừa chén chú chén anh,<br />
Thủ và chồng Lan từ trò chuyện rất vui vẻ/ Cứ yên trí là khi lật ngược được thế cờ thì tất cả<br />
thòng đong tép mạ đang a dua nhay nhớn đớp bóng lại tự khắc im re!<br />
Những tổ hợp có tính thành ngữ trong "Mảnh đất lắm người nhiều ma" được tạo ra<br />
trên cơ sở ngữ liệu và quy luật trên của tiếng Việt, nhưng chúng có tính riêng biệt, mang dấu<br />
ấn của cá nhân rất đậm nét. Một số những tổ hợp đó được chấp nhận là thành ngữ , trở thành<br />
Trư ng Đ i h c Thăng Long<br />
<br />
338<br />
<br />
K y u công trình khoa h c 2015 - Ph n II<br />
<br />
chuẩn mực của tiếng Việt văn học, nếu chúng vượt qua được những thử thách của thời gian<br />
trong đời sống ngôn ngữ.<br />
Vậy là các thành ngữ của văn học dân gian nói chung và thành ngữ tục ngữ nói riêng<br />
đi vào văn thơ được các nhà văn nhà thơ sáng tạo theo những phong cách riêng. Nét sáng tạo,<br />
nét riêng đặc sắc ấy, làm nên cái tôi riêng cho mỗi tác giả.<br />
4. Kết luận<br />
Thành ngữ là một đơn vị bền vững và ổn định nhưng không có nghĩa là đông cứng và<br />
bất biến. Trong văn chương cũng như trong giao tiếp hằng ngày, thành ngữ được sử dụng một<br />
cách linh hoạt và đầy sáng tạo bằng nhiều phương thức khác nhau. Đặc biệt bên cạnh những<br />
thành ngữ nguyên dạng, cố định có thể tạo ra những tổ hợp có tính thành ngữ. Nếu vượt qua<br />
được những thử thách của thời gian trong đời sống ngôn ngữ, những tổ hợp đó được sẽ chấp<br />
nhận là thành ngữ, trở thành chuẩn mực của Tiếng Việt văn học.<br />
Thành ngữ được sử dụng trong tác phẩm Mảnh đất lắm người nhiều ma với một khối<br />
lượng đồ sộ và hết sức phong phú. Bên cạnh việc sử dụng thành ngữ theo những cách thông<br />
thường một cách linh hoạt, Nguyễn Khắc Trường còn có những sáng tạo rất riêng, rất độc đáo<br />
mang đậm dấu ấn cá nhân. Đó cũng là sự thể hiện tài năng nghệ thuật ngôn từ của một nhà<br />
văn quân đội - nhà văn Nguyễn Khắc Trường.<br />
5. Tài liệu tham khảo<br />
[1]. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, tái bản năm 2003<br />
[2]. Hoàng Văn Hành, Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, NXB Khoa học xã hội, 2002<br />
[3]. Nguyền Nhề Ý (chề biên), Tề iền giềi thích thành ngề tiềng Viềt , NXB<br />
Giáo dục, 1997<br />
ART AND VALUES OF USING IDIOMS IN THE NOVEL "LAND OF MANY PEOPLE,<br />
MANY GHOSTS" BY NGUYEN KHAC TRUONG<br />
Abstract: Idioms are a typical manifestation of ethnic voice, expressing cultural and<br />
spiritual life and affection, containing profound and subtle values of Vietnamese people.<br />
Idioms are used by Nguyen Khac Truong in a rich, lively and unique way in his novel “Land<br />
of Many People, Many Ghosts”. Investigation into the art of using the idioms in the work will<br />
reveal us values in sophisticated and distinctive expression of idioms, to see the writer<br />
linguistic artistic talentsand contribute to practical use as well as teaching of words in<br />
particular and Vietnamese language in general.<br />
Keywords: Idioms, Land of Many People, Many Ghosts.<br />
<br />
Trư ng Đ i h c Thăng Long<br />
<br />
339<br />
<br />