intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngũ Hành Sơn một trung tâm Phật giáo của Quảng Nam - Đà Nẵng thế kỷ XVII

Chia sẻ: Bautroibinhyen16 Bautroibinhyen16 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

63
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phật giáo nhanh chóng cắm rễ sâu và lan rộng trong xã hội, nhận được sự tín mộ của không chỉ đông đảo người Việt, mà còn cả người Nhật, người Hoa. Trong lịch sử Phật giáo Quảng Nam - Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn ngay từ đầu giữ vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của Phật giáo trên vùng đất phía nam đèo Hải Vân này. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngũ Hành Sơn một trung tâm Phật giáo của Quảng Nam - Đà Nẵng thế kỷ XVII

Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014<br /> <br /> 66<br /> LÊ XUÂN THÔNG*<br /> <br /> NGŨ HÀNH SƠN<br /> MỘT TRUNG TÂM PHẬT GIÁO CỦA<br /> QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG THẾ KỶ XVII<br /> Tóm tắt: Ngũ Hành Sơn là mảnh đất cổ, vốn là một trung tâm tôn<br /> giáo của người Chăm. Sau khi thuộc về Đại Việt, Ngũ Hành Sơn<br /> trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trên vùng đất Quảng<br /> Nam - Đà Nẵng. Trên mảnh đất này, Phật giáo nhanh chóng cắm<br /> rễ sâu và lan rộng trong xã hội, nhận được sự tín mộ của không chỉ<br /> đông đảo người Việt, mà còn cả người Nhật, người Hoa. Trong<br /> lịch sử Phật giáo Quảng Nam - Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn ngay từ<br /> đầu giữ vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của Phật giáo<br /> trên vùng đất phía nam đèo Hải Vân này.<br /> Từ khóa: Ngũ Hành Sơn, Phật giáo, Quảng Nam - Đà Nẵng.<br /> 1. Vài nét về Ngũ Hành Sơn<br /> Ngũ Hành Sơn (hiện thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn,<br /> thành phố Đà Nẵng) là một không gian đặc trưng của vùng văn hóa xứ<br /> Quảng. Ở đây có những ngọn núi đá vôi là danh thắng nổi tiếng cả nước.<br /> Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Giữa động cát nổi lên sáu ngọn núi<br /> đá, sông cái lượn phía Tây, biển cả bao phía Đông Bắc, hình núi nhọn<br /> đẹp, trời tạnh nhìn ở xa, sắc như mây gấm, thật là đáng yêu…”1. Ngũ<br /> Hành Sơn xưa kia vốn là những hòn đảo. Vào kỷ Đệ tứ, sau khi nước<br /> biển rút, những hòn đảo này được nối với đất liền do vận động nâng lên<br /> của Trường Sơn Nam cùng với sự bồi tụ của phù sa sông và phù sa biển.<br /> Bởi vậy mới có câu: “Phù nhất thiên niên tiền Ngũ Hành nhất đảo, nhất<br /> thiên niên hậu vị Ngũ Hành” (Một ngàn năm trước Ngũ Hành là một hòn<br /> đảo, một ngàn năm sau là núi Ngũ Hành)2.<br /> Núi Ngũ Hành gồm có sáu ngọn, đặt tên dựa trên sự tương ứng về<br /> phương vị theo thuyết Ngũ Hành. Thủy Sơn ở phía Bắc, Mộc Sơn ở phía<br /> Đông, Kim Sơn ở phía Tây, Âm Hỏa Sơn và Dương Hỏa Sơn ở phía Nam<br /> *<br /> <br /> Trung tâm Quản lý Di sản Văn hóa thành phố Đà Nẵng<br /> <br /> Lê Xuân Thông. Ngũ Hành Sơn - Một trung tâm…<br /> <br /> 67<br /> <br /> và Thổ Sơn ở trung tâm. Trong các ngọn núi có nhiều hang động kỳ thú,<br /> như như động Huyền Không, động Vân Thông, động Tàng Chân, động<br /> Linh Nham, động Hóa Nghiêm, cốc Vân Nguyệt, hang Giám Trai, hang<br /> Lồng Đèn, hang Âm Phủ (ở Thủy Sơn), động Quan Âm (ở Kim Sơn),<br /> hang Bà Trung (ở Mộc Sơn); động Phổ Đà Sơn, động Huyền Vi (ở<br /> Dương Hỏa Sơn) và động Chư Tiên Khách Hội (ở Âm Hỏa Sơn).<br /> Ngũ Hành Sơn là mảnh đất có bề dày lịch sử và văn hóa. Ở đây có hai<br /> di tích khảo cổ học Vườn đình Khuê Bắc và Nam Thổ Sơn lần đầu tiên<br /> xác nhận ở Đà Nẵng có dấu tích con người sinh sống vào thời tiền sử và<br /> phát triển liên tục từ văn hóa Sa Huỳnh đến văn hóa Champa.<br /> Tại các hang động trong quần thể núi Ngũ Hành cũng tìm thấy nhiều<br /> dấu tích văn hóa Champa, tập trung nhất là động Tàng Chân, sau chùa<br /> Linh Ứng trên Thủy Sơn. Động Tàng Chân có nhiều hang động nhỏ, nơi<br /> phát hiện ra nhiều gạch Chăm dùng lát nền. Đặc biệt, tại hang Chiêm<br /> Thành (ở giữa) có hai bộ tượng đá chạm thần Hộ pháp của người Chăm. Ở<br /> đây, các vị sư chùa Linh Ứng đã tìm thấy một bộ thờ chạm hình Indra cưỡi<br /> voi, xung quanh có các Apsara múa hát5; tượng Thiên Y Ana được thờ<br /> trong miếu nhỏ. Ngoài Thủy Sơn, ở Thổ Sơn và Hỏa Sơn cũng tìm thấy<br /> nhiều dấu tích tôn giáo của người Chăm.<br /> Với đặc điểm địa lý, lịch sử và văn hóa đó, khi chúa Nguyễn mở đất<br /> về phía Nam, Ngũ Hành Sơn nhanh chóng trở thành nơi cắm rễ sâu của<br /> Phật giáo.<br /> 2. Phật giáo ở Ngũ Hành Sơn thế kỷ XVII<br /> Ngay từ đầu thế kỷ XVII, Phật giáo đã phát triển ở Ngũ Hành Sơn, thu<br /> hút không chỉ người Việt, mà còn cả người Nhật, người Hoa. Căn cứ cho<br /> luận điểm trên là hai văn bia Ngũ Uẩn Sơn cổ tích Phật tịch diệt lạc (từ<br /> đây gọi tắt là bia Ngũ Uẩn) và Phổ Đà Sơn linh trung Phật (từ đây gọi tắt<br /> là bia Phổ Đà). Cả hai đều thuộc loại bia ma nhai, một được khắc ở động<br /> Vân Thông và một được khắc ở động Hoa Nghiêm của Thủy Sơn. Chữ<br /> của bia Phổ Đà vẫn còn rõ nét, còn bia Ngũ Uẩn thì đã bị mất chữ. May<br /> mắn là nội dung văn bia này được lưu lại trong một tiểu luận viết về Ngũ<br /> Hành Sơn của bác sĩ người Pháp Albert Sallet cách đây gần một thế kỷ3<br /> và thác bản do Viện Viễn Đông Bác Cổ in rập trước 1945, hiện lưu tại<br /> Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm4.<br /> <br /> 67<br /> <br /> 68<br /> <br /> Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014<br /> <br /> Nội dung hai văn bia nói về việc nhà sư Huệ Đạo Minh cùng Phật tử<br /> khu vực Ngũ Hành Sơn dựng chùa chiền, tạc tượng Phật, độ chúng sinh.<br /> Văn bia Ngũ Uẩn viết: “Tỳ kheo Huệ Đạo Minh, xã Du Xuyên, huyện Lễ<br /> Dương, phủ Thăng Hoa, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt trú trì, khai sáng,<br /> trùng tu, đốt hương chúc thánh, hồi hướng Tam bảo để lưu truyền vạn<br /> đời. Phổ nguyện phụ mẫu, chúng sinh pháp giới, một lòng quy mệnh ở<br /> thế giới cực lạc A Di Đà Phật”5. Văn bia này còn khắc tên bà Trần Thị<br /> Thay, hiệu Diệu Lễ, người xã Cẩm Phô cúng dường 30 quan tiền để làm<br /> tượng Phật. Còn văn bia Phổ Đà viết: “Hoàng đế hiện nay muôn năm!<br /> Phạm Văn Nhân, tự thiền sư Huệ Đạo Minh, xã Du Xuyên, huyện Ngọc<br /> Sơn, phủ Tĩnh Gia, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt6. Nghĩ thấy di tích<br /> Phật đổ nát [nên] khuyên mời những người trí thức cùng chung bỏ của<br /> nhà, tận tâm lo việc thiện: sửa chữa và dựng mới, trên là núi Phổ Đà mới<br /> xây, dưới là chùa Bình An, hai cảnh hoàn thành tốt đẹp. Việc xong xuôi<br /> nhanh chóng, [thiền sư] chủ trì đốt hương cúng Phật, hướng về Tam bảo,<br /> trên thì báo Tứ ân, dưới thì tế Tam đồ, nguyện cùng sinh vào nước Cực<br /> lạc. Di tích Phật mãi lưu truyền”. Tiếp theo, văn bia này ghi danh tính<br /> của 81 Phật tử công đức vào chùa.<br /> Dựa trên thông tin ghi trên bia Ngũ Uẩn: “Tuế thứ Tân Mùi niên thập<br /> nguyệt lương nhật thời trùng tu” (Ngày tốt tháng 10 năm Tân Mùi trùng<br /> tu) và bia Phổ Đà: “Tuế thứ Canh Thìn niên trọng đông tiết cát nhật, tự<br /> Huệ Đạo Minh thiền sư lập bi ký truyền” (Ngày tốt tháng 11 năm Canh<br /> Thìn, Thiền sư Huệ Đạo Minh lập bia ghi truyền), Albert Sallet cho rằng,<br /> bia Ngũ Uẩn lập năm 1691, còn bia Phổ Đà lập năm 17007. Nhiều nhà<br /> nghiên cứu Việt Nam không đồng ý với niên đại lập bia Ngũ Uẩn và bia<br /> Phổ Đà của Albert Sallet.<br /> Tiếp cận ở nhiều mục đích và góc độ khác nhau, đến nay nhiều nhà<br /> nghiên cứu Việt Nam thống nhất xác định năm lập bia Phổ Đà là năm<br /> 1640. Đỗ Bang có lẽ là người đầu tiên khẳng định mốc niên đại này trong<br /> một nghiên cứu của ông vào năm 19858. Chúng tôi tán thành với ý kiến<br /> này. Vậy còn năm Tân Mùi, tức năm lập bia Ngũ Uẩn là năm nào? Năm<br /> 1571 rõ ràng không được chấp nhận, vì lúc bấy giờ địa danh hành chính<br /> huyện Lễ Dương chưa ra đời. Còn năm 1691 cũng không hợp lí, bởi vì:<br /> 1/ Nó không thể hiện được tính logic trong quá trình tu tập và truyền bá<br /> Phật giáo của nhà sư Huệ Đạo Minh. Ông hẳn phải đến Ngũ Hành Sơn tu<br /> tập, hoằng pháp trong một thời gian nhất định mới tạo được sự ảnh<br /> <br /> 68<br /> <br /> Lê Xuân Thông. Ngũ Hành Sơn - Một trung tâm…<br /> <br /> 69<br /> <br /> hưởng rộng rãi trong xã hội, nên nhiều “trí thức chung bỏ của nhà” cùng<br /> ông “sửa chữa và dựng mới” động Phổ Đà, chùa Bình An vào năm 1640.<br /> Trong khi lần trùng tu năm Tân Mùi chỉ có bà Trần Thị Thay cúng 30<br /> quan tiền để tạo tượng Phật. Tất cả điều đó cho thấy, sự kiện năm Tân<br /> Mùi diễn ra trước sự kiện năm Canh Thìn (1640) trong Phật sự của nhà<br /> sư Huệ Đạo Minh. Nhưng quan trọng hơn, trong văn bia Ngũ Uẩn khắc<br /> lời thệ nguyện và mong ước của nhà sư Huệ Đạo Minh với một tinh thần<br /> rất sốt sắng, rằng sẽ thực hành chính niệm, xưng tên Như Lai, theo đạo<br /> Bồ Đề, cầu sinh vào thế giới cực lạc A Di Đà Phật (sẽ dẫn nguyên văn ở<br /> phần dưới của bài viết). Dường như đó không phải là biểu hiện của một<br /> lão tăng, mà ngược lại. Trong hành trình đó, có lẽ vị tu sĩ ấy vừa mới xuất<br /> phát. 2/ Nếu cho rằng năm Tân Mùi là 1691 thì rất khó giải thích việc<br /> Quốc sư Hưng Liên đến đây lập chùa Tam Thai tu trì trong khoảng thời<br /> gian này (sẽ nói rõ ở phần dưới của bài viết); cũng không hề thấy một<br /> dòng ghi chép nào trong Hải ngoại kỷ sự của Hòa thượng Thích Đại Sán,<br /> khi ông đến thăm chùa Tam Thai năm 1695. Đến đây, có thể kết luận,<br /> Tân Mùi là năm 1631.<br /> Như vậy, muộn nhất là năm 1631, Ngũ Hành Sơn đã đón nhận một<br /> nhà sư đến tu sửa Phật tích, xây dựng đạo tràng và truyền bá Phật pháp.<br /> Đó là một nhà sư người Việt từ phía Bắc vào, mà không phải từ Trung<br /> Hoa sang như thường thấy lúc bấy giờ. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng<br /> là nhà sư Huệ Đạo Minh xuất thân từ tổ đình nào, thuộc tông phái nào.<br /> Theo nội dung các văn bia kể trên, nhiều khả năng nhà sư này tu hành<br /> theo pháp môn Tịnh Độ, một đặc điểm nổi trội của Phật giáo Đại Việt từ<br /> sau thời Lê Sơ. Cụ thể, trong văn bia Ngũ Uẩn, nhà sư Huệ Đạo Minh đã<br /> “nguyện lấy tịnh quang chiếu sáng bản thân, tự thề với chính con, nay<br /> con chánh niệm, xưng tên Như Lai, theo đạo Bồ Đề, cầu sinh Tịnh Độ<br /> (…). Nếu được vào chốn Như Lai thì một lời đại thệ giữa biển khơi, thừa<br /> Phật lực từ bi, chúng tội tiêu diệt, thiện căn thêm nhiều, nếu đến lúc phải<br /> chết thì tự biết rằng thời khắc đã đến rồi, thân vô bệnh khổ, tâm bất tham<br /> luyến, ý bất điên đảo. Nếu được nhập thiền định, Phật cùng thánh chúng<br /> nắm tay bước lên kim đài. Phật đến và dẫn dắt con. Con một lòng cầu<br /> niệm, sinh vào nước Cực Lạc, hoa khai kiến Phật, tức văn Phật thừa, đốn<br /> khai Phật tuệ, quảng độ chúng sinh, mãn nguyện Bồ Đề”.<br /> Sau khi truyền nhập vào Ngũ Hành Sơn, Phật giáo nơi đây nhanh<br /> chóng phát triển, ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, trở thành một trung<br /> <br /> 69<br /> <br /> 70<br /> <br /> Nghiên cứu Tôn giáo. Số 7 - 2014<br /> <br /> tâm Phật giáo không chỉ của người Việt, mà còn của người Nhật và người<br /> Hoa. Danh sách 81 người cùng với số tiền của mà họ cúng dường để<br /> phụng sự Phật pháp được khắc ghi ở bia Phổ Đà năm 1640 nói lên điều<br /> đó. Tổng số tài sản mà họ công đức gồm 1.915 quan tiền đồng, 65 lạng<br /> bạc nén và 570 cân đồng. Cần biết rằng, ở Đàng Trong, giữa thế kỷ XVII,<br /> 100 quan tiền mua được 2 mẫu ruộng9, 6 quan tiền mua được một tạ<br /> gạo10. Xem thế đủ thấy trị giá tài sản cúng dường nêu trên là rất lớn. Song<br /> vấn đề chưa phải là giá trị tài sản, cũng như số lượng thập phương tín<br /> cúng, mà là ở gốc tích của họ. Trước hết, trong số người Việt tín cúng,<br /> nhiều người quê quán ở những làng xã khá xa so với Ngũ Hành Sơn,<br /> thuộc các huyện Hòa Vang, Điện Bàn và thành phố Hội An ngày nay.<br /> Đặc biệt hơn, trong số 81 người cúng dường kể trên, có 10 người Nhật<br /> Bản (trong đó có ba người là thương nhân đến buôn bán và bảy người<br /> sinh sống tại dinh Nhật Bản ở Hội An) và ba người Trung Hoa. Theo Lê<br /> Mạnh Thát: “Điều này chứng tỏ, Phật giáo Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ<br /> XVII đã hội nhập và mang tính quốc tế cao, thu hút sự quan tâm và sùng<br /> bái của không chỉ dân tộc mình mà của cả dân tộc khác. Thêm vào đó, sự<br /> xuất hiện của các người ngoại quốc ở vùng núi Ngũ Hành Sơn chứng tỏ<br /> vùng đất này từ rất lâu đã trở thành một trung tâm văn hóa của cảng Hội<br /> An và là một bộ phận của thành phố thương mại này. Sự kiện này giúp ta<br /> hiểu đến cuối thế kỷ XVII, khi Thiền sư Đại Sán Thạch Liêm trên đường<br /> hoằng hóa ở nước ta, đã qua lại vùng Ngũ Hành Sơn này một thời gian.<br /> Vậy, Ngũ Hành Sơn hôm nay là một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước<br /> thì bốn trăm năm trước, Ngũ Hành Sơn đã là như thế”11.<br /> 3. Hai thiền phái Tào Động và Lâm Tế ở Ngũ Hành Sơn<br /> Thiền phái Tào Động vào Đàng Trong gắn với tên tuổi của hai vị<br /> danh tăng Trung Hoa là Thạch Liêm và Hưng Liên. Tuy nhiên, tài liệu<br /> ghi chép, nghiên cứu về hai nhân vật Phật giáo này đối với việc truyền bá<br /> Tào Động ở Đàng Trong chưa thống nhất12. Về phía mình, chúng tôi<br /> khẳng định, Thiền sư Hưng Liên là người đầu tiên mang Tào Động vào<br /> Đàng Trong. Do vậy, ông đương nhiên là sơ tổ của Thiền phái Tào Động<br /> ở nơi đây13. Ngũ Hành Sơn là nơi đầu tiên không chỉ ở Quảng Nam Đà Nẵng, mà còn cả xứ Đàng Trong đón nhận sự truyền nhập của<br /> thiền phái này từ Trung Hoa.<br /> Thiền sư Hưng Liên là đệ tử của Thiền sư Thạch Liêm, thuộc đời thứ<br /> 30 Thiền phái Tào Động. Ông chắc chắn đã qua Đại Việt trước thầy mình<br /> <br /> 70<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2