intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhà đầu tư nghiệp dư cần phải quan tâm điều gì ?

Chia sẻ: Nguyenhuu Anhduy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

102
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

B ạn có đôi chút kiến thức về tài chính, nhưng liệu bạn đã đủ “dũng khí” để tham gia thị trường đầu tư? Bạn biết việc đầu tư sẽ có thể đem lại lợi nhuận không nhỏ, nhưng liệu bạn có chắc chắn rằng mình sẽ không gặp chút “vận đen” nào? Những lời khuyên mà bạn nhận được đã đủ đảm bảo để bạn trở thành nhà đầu tư thành công?

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhà đầu tư nghiệp dư cần phải quan tâm điều gì ?

  1. Nhà đầu tư nghiệp dư cần phải quan tâm điều gì? Ngày 07 tháng 2 năm 2008 Bạn có đôi chút kiến thức về tài chính, nhưng liệu bạn đã đủ “dũng khí” để tham gia thị trường đầu tư? Bạn biết việc đầu tư sẽ có thể đem lại lợi nhuận không nhỏ, nhưng liệu bạn có chắc chắn rằng mình sẽ không gặp chút “vận đen” nào? Những lời khuyên mà bạn nhận được đã đủ đảm bảo để bạn trở thành nhà đầu tư thành công? Bạn có biết cần phải chú ý đến những yếu tố nào trong thế giới đầu tư không? Nếu bạn cảm thấy còn đôi chút băn khoăn hay lúng túng, các chuyên gia đầu tư tài chính của CNN/Money sẽ giúp bạn. Phần 1: Sáng suốt và cẩn trọng 1. Đôi khi nhà đầu tư nghiệp dư lại có lợi thế hơn nhà đầu tư chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chuyên nghiệp luôn bị ám ảnh bởi những dự đoán rằng liệu họ có đánh bại thị trường hay không. Họ có thể cảm thấy căng thẳng khi nắm giữ hay mua vào tại thời điểm cổ phiếu đang tràn ngập thị trường. Còn các nhà đầu tư nghiệp dư sẽ không xem xét cẩn thận và nghiên cứu kỹ lưỡng đến như vậy trong các hoạt động đầu tư của mình. Khi thị trường bắt đầu náo động, khó kiểm soát, họ chỉ cần ngồi yên tại chỗ, bình tĩnh tập trung vào những mục tiêu dài hạn. 2. Đầu tư tiền bạc hợp lý là hành động quan trọng hơn rất nhiều so với việc cố gắng tìm kiếm những Microsoft tiếp theo. Về dài hạn, lợi nhuận mà bạn có được từ việc đầu tư cổ phiếu và trái phiếu sẽ có xu hướng tương thích với mức biến động trung bình trên thị trường. Vì vậy, bạn nên phân bổ tài chính hợp lý để quyết định đầu tư bao nhiêu phần vào cổ phiếu và bao nhiêu vào trái phiếu. 3. Bạn có thể chia tay với hoạt động đầu tư với khoản tiền lớn và tâm trạng thoải mái mà không cần biết đến việc học thế nào để kiếm được cổ phiếu sinh lợi. Hãy đặt 60% tổng số tiền của bạn vào thị trường cổ phiếu và 40% còn lại vào thị trường trái phiếu. Chỉ trong vòng 10 năm hay lâu hơn một chút, bạn sẽ đạt kết quả tốt hơn phần lớn các nhà đầu tư khác trên thị trường, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư. 4. Tất cả các hoạt động đầu tư đều liên quan đến rủi ro. 5. Đa dạng hoá đầu tư là một loại thuốc trợ tim tuyệt vời đối với các nhà đầu tư. Việc trải rộng dòng vốn của mình ra các loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau là quyết định khôn ngoan. Việc này sẽ giảm thiểu tỷ lệ rủi ro và tăng cơ hội thu thêm lợi nhuận.
  2. 6. Các nhà đầu tư lão luyện đều có chung một kết luận là về dài hạn, cổ phiếu sẽ sinh lợi nhiều hơn trái phiếu và trái phiếu hiệu quả hơn tiền mặt. Tuy nhiên, bạn cần cảnh giác, không phải lúc nào nhận định này cũng đúng. 7. Hãy chú ý tới sự thoái trào: Các vận động viên thể thao gọi đó là sự xuống phong độ. Đây là thời kỳ mà các vận động viên rơi vào khủng hoàng sau thời kỳ đỉnh cao. Trên thị trường chứng khoán, những điều tương tự thường xảy ra với các công ty tăng trưởng quá nóng. Các nhà đầu tư thường có xu hương vui mừng lao vào những công ty tăng trưởng nhanh, tuy nhiên không ai có thể đi theo cuộc chơi này mãi mãi, bởi vì thậm chí những công ty tăng trưởng nhanh nhất cũng có thể rơi vào suy thoái bất cứ lúc nào. Bạn hãy dành nhiều thời gian hơn để suy nghĩ và phân tích về những hiện tượng này, từ đó quyết định xem lúc nào nên lao vào và lúc nào không nên. 8. Đừng dùng tiền của mình đầu tư vào thị trường với những mục tiêu đại loại như cố gắng mua được những cổ phiếu với mức giá cao nhất hay thấp nhất. Các nhà nghiên cứu hiện vẫn còn đang tìm kiếm một cách thức để xác định chính xác lúc nào thị trường ở mức trần và lúc nào ở mức sàn, nhưng điều này có thể không bao giờ biết được. 9. Tỷ lệ trung bình đồng vốn đầu tư: Đầu tư với lượng tiền nhất định hàng tháng hay hàng quý trong năm là cách tốt nhất và duy nhất để có thể giữ bạn trên con đường mà mình đã lựa chọn. 10. Tái cân bằng. Bạn nên dành 60% tiền bạc của mình đầu tư vào cổ phiếu và 40% vào trái phiếu. Nếu cổ phiếu gặp khủng hoảng và chiếm tới 75% tổng vốn đầu tư của bạn, bạn nên bán bớt chúng đi để tái cân bằng ở mức 60-40. Với cách này, bạn sẽ có thể loại bỏ những cổ phiếu đang trở nên đắt tiền hơn và mua vào loại rẻ tiền hơn. Đó là cách mua rẻ bán đắt. 11. Lợi nhuận cao bao giờ cũng gắn liền với rủi ro lớn, tuy nhiên không phải bất cứ rủi ro nào cũng tất yếu dẫn tới lợi nhuận cao. Trước sức hấp dẫn của các khoản lợi nhuận khổng lồ, một nhà đầu tư thông minh sẽ không dấn thân một cách mạo hiểm vào những vụ đầu tư nếu anh ta không nhìn thấy sự an toàn tối đa. Trong quãng thời gian “chú bò” thị trường chứng khoán được nuôi lớn thái quá, bạn có thể mất tiền từ niềm đam mê cổ phiếu của mình, hay đơn giản là công ty mà bạn cho rằng sẽ thành công có thể nổ tung bất cứ lúc nào. 12. Bạn có thể không biết mình phải đối mặt với những rủi ro nào, cho đến khi bạn hứng chịu những mất mát thực sự. Cũng giống như các trường hợp ngộ độc thực phẩm, rủi ro là một cái gì đó rất khó để hiểu về mặt lý thuyết. Một sự thật khó nghe đó là Nasdaq đã “chôn vùi” không biết bao nhiêu nhà đầu tư công nghệ,
  3. những người nghĩ rằng mình không thể bị tổn thương. 13. Quy tắc 72. Một mánh khóe để tính toán xem bạn sẽ cần bao nhiêu thời gian để nhân đôi số tiền của mình. Ví dụ bạn phải mất bao nhiêu năm để khoản tiền 1000 đồng chuyển thành 2000 đồng ở mức lợi nhuận 8%? Hãy lấy 72 chia cho 8, bạn có 9 năm. Từ ví dụ này, bạn có thể tính toán cho mình khoảng thời gian sinh lợi nhuận. 14. Tái đầu tư. Nếu bạn kiếm được 6% lợi nhuận trên 1000 đồng trái phiếu và để dành hết số tiền lời này, thì sau 20 năm, bạn sẽ có 1200 đồng. Nhưng nếu bạn tái đầu tư hết số lợi nhuận thu được, bạn sẽ có 2662 đồng cũng sau 20 năm. Đó là sức mạnh của tái đầu tư - lợi nhuận mẹ sẽ sinh ra lợi nhuận con. 15. Bắt đầu sớm. Đối với hoạt động đầu tư, bạn càng dành thời gian cho nó nhiều bao nhiêu, bạn sẽ càng thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. 16. Dành dụm nhiều hơn: Một cách khác để tăng thêm lợi nhuận đó là dành dụm thêm một khoản tiền nhỏ nhất định mỗi tháng để đầu tư. Cùng với thời gian, những đồng tiền đó sẽ sinh sôi thành hàng nghìn đồng khác. 17. Khi bạn đặt kế hoạch cho những mục tiêu dài hạn, bạn hãy đảm bảo rằng toàn bộ số vốn đầu tư của bạn sẽ sinh lời 5% đến 6%/năm. 18. Khi bạn mua một cổ phiếu, bạn nghĩ nó sẽ đem lại lợi nhuận cho bạn, nhưng bạn cần nhớ rằng bạn đã mua những cổ phiếu này từ một người nào đó cũng đang cảm thấy mãn nguyện khi bán được chúng. 19. Đừng dựa vào các cơ quan quản lý. Các nhà đầu tư cần có cái nhìn tỉnh táo và thực tế về những gì chính phủ có thể làm và những gì không thể. Các cơ quan quản lý chắc chắn sẽ đẩy mạnh việc tìm ra các gian lận và buộc các công ty phải phơi bày thông tin nhiều hơn và minh bạch hơn. Nhưng các nhà đầu tư thường sử dụng một cách không hiệu quả những thông tin mà họ có được từ sự công khai đó. Bao nhiêu nhà đầu tư đã từng thực sự đọc và phân tích những tường trình trong bản cáo bạch IPO thường niên trước khi ra quyết định đầu tư? Không có quy định nào buộc các nhà đầu tư phải quyết định thận trọng hay giữ thị trường khỏi suy thoái. 20. Đừng để những mối quan tâm về thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của bạn. 21. Bạn muốn tăng lợi nhuận kiếm được? Nếu bạn xem TV vào buổi trưa, tốt hơn hết bạn đừng nên xem những thông tin về tài chính kinh doanh. Bạn thực sự không cần biết những gì xảy ra với cổ phiếu của các công ty, thay vào đó hãy
  4. xem chương trình mà bạn yêu thích. Đơn giản là vì lúc này bạn không cần những cái nhìn và phân tích bên trong nhằm tránh cho bạn những cám dỗ lôi kéo mình vào những vụ đầu tư mới với rủi ro cao hơn nhiều. 22. Ở đây có sự khác biệt giữa đầu tư và đầu cơ: các nhà đầu tư thường thích mua cổ phiếu như một thương vụ kinh doanh và sẽ nắm giữ trong thời gian dài, còn các nhà đầu cơ nhìn cổ phiếu như những tờ giấy và họ mua chúng với hy vọng một ai đó sẽ trả giá cao hơn. 23. Tình hình tăng trưởng của công ty sẽ điều khiển giá cổ phiếu. Có thể có sự khác biệt khá lớn về giá cổ phiếu từ năm này qua năm khác, nhưng về lâu dài, giá cổ phiếu sẽ biến động dựa trên doanh thu và lợi nhuận của công ty - nếu lợi nhuận ngày một thu hẹp thì giá cổ phiếu sẽ giảm, còn nếu lợi nhuận càng lúc càng lớn hơn thì đương nhiên giá cổ phiếu cũng sẽ tăng cao. 24. Trước khi quyết định mua một cổ phiếu nào đó, bạn hãy chuẩn bị “bài diễn văn tóm tắt” để thuyết phục chính bản thân bạn, cô vợ đa nghi, con chó của bạn, hay bất kỳ ai và giải thích tại sao bạn muốn mua cổ phiếu. Đó có phải là một cổ phiếu tăng trưởng nhanh, ổn định và sẽ tạo nên một kỳ tích về doanh thu? Liệu chiến lược đầu tư bạn đưa ra có hợp lý? Liệu bản cân đối tài chính của công ty đó đã đủ lành mạnh? Liệu công ty này có thắng thế trước các đối thủ cạnh tranh? Đơn giản khi bạn nói ra những điều này, bạn sẽ phải tập trung hơn vào những gì bạn nghĩ và những gì bạn đã nghiên cứu, phân tích. Cuối cùng, việc này có thể giúp bạn tránh những rủi ro thua lỗ. 25. Khi bạn đã dành vài phút để suy nghĩ, bạn hãy dành tiếp mấy phút nữa để tự hỏi tại sao bạn không nên mua cổ phiếu đó. Liệu công ty có chìm sâu trong nợ nần? Liệu vị CEO có đáng tin cậy không hay sẽ “lẩn như trạch” khi có rắc rối? Liệu giá cổ phiếu có quá đắt để mua? Việc nắm bắt những thông tin đó không những sẽ giúp bạn hiểu hơn về công ty, mà còn giúp bạn tính toán được thời điểm nên bán cổ phiếu đi. 26. Những công ty lớn không nhất thiết sẽ tạo ra những cổ phiếu đáng để mua. Đơn giản là vì nếu bạn chỉ đầu tư vào những công ty đang dẫn đầu thị trường, thì thu nhập của bạn có thể sẽ rất cao, tuy nhiên, một khi những công ty lớn rơi vào khủng hoảng, thì thu nhập của bạn có thể bị khủng hoảng nặng nề hơn nhiều. 27. Cổ phiếu 20 đồng có thể quá đắt - Cổ phiếu 100 đồng lại có thể quá rẻ. Bạn hãy tính toán, nhưng không chỉ là giá mỗi cổ phiếu, mà là lượng tiền bạn thu được từ mỗi đồng tiền trong doanh thu, lợi nhuận, tài sản và tiền mặt lưu thông của công ty mà bạn đầu tư vào. Điều này bạn có thể biết được từ các tỷ lệ đánh giá cổ phiếu sau đây.
  5. 28-31. Bốn cách để đánh giá một cổ phiếu - Tỷ lệ giá/lợi nhuận (P/E): Cho đến nay, đây vẫn là tỷ lệ đánh giá cổ phiếu được sử dụng phố biến nhất, bởi vì nó cho biết bạn sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi đồng lợi nhuận của công ty. - Tỷ lệ giá/doanh thu (P/S): Chỉ số này có thể được sử dụng để nhận ra những công ty có mạng lưới kinh doanh ổn định, nhưng lợi nhuận có thể giảm sút sau quá trình tăng trưởng quá nóng. - Tỷ lệ giá/lưu lượng tiền mặt (P/C). Con số doanh thu và lợi nhuận mà công ty báo cáo là sản phẩm của những quy tắc tính toán phức tạp, do đó số liệu có thể bị sai lệch. Lưu lượng tiền mặt từ các hoạt động kinh doanh có thể vẽ nên bức tranh chân thực hơn. - Tỷ lệ giá/giá trị sổ sách (P/B): Tỷ lệ này được dùng để đánh giá toàn bộ máy móc, thiết bị và các tài sản khác, thường được sử dụng khi nhà đầu tư tìm kiếm các mục tiêu tiếp quản. 32. Sự khác biệt giữa chỉ số Forward P/E và Trailing P/E. Chỉ số Trailing P/E được dựa trên doanh thu trong năm hiện tại hay bốn quý gần nhất của công ty. Còn chỉ số Forward P/E là ước đoán dựa trên doanh thu mong đợi của công ty trong năm tiếp theo hay bốn quý sắp tới. 33. Sự khác biệt giữa cổ phiếu tăng trưởng và cổ phiếu giá trị. Một cổ phiếu tăng trưởng sẽ hứa hẹn một lợi nhuận lớn hơn trong tương lai, trong khi đó một cổ phiếu giá trị có tính thanh khoản cao, bạn có thể bán bất cứ lúc nào với mức giá cao hơn hay thấp hơn giá trị thực của chúng. Cổ phiếu tăng trưởng thường là cổ phiếu của các hãng dầu mỏ còn cổ phiếu giá trị là cổ phiếu của các hãng tiêu dùng luôn có doanh thu và lợi nhuận ổn định, mức độ tin cậy cao. Về dài hạn, cổ phiếu giá trị có mức tăng trưởng chậm hơn, một phần vì chúng có chiều hướng được mua để đầu cơ trên thị trường. 34. Cách tốt nhất để tìm kiếm cổ phiếu tăng trưởng giá rẻ. Để trả lời câu hỏi liệu một cổ phiếu tăng trưởng hiện có được rao bán ở mức giá hợp lý hay không, bạn hãy xem tỷ lệ PEG. Để tính toán tỷ lệ PEG của một công ty, bạn hãy chia tỷ lệ P/E với tỷ lệ tăng trưởng doanh thu dự đoán. Nếu tỷ lệ PEG thấp hơn 1,2 nghĩa là cổ phiếu đó là cơ hội tốt để đầu tư. 35. Bạn có thể bắt đầu xây dựng danh mục đầu tư các cổ phiếu dài hạn chỉ với 9 công ty. Khi xây dựng một danh mục đầu tư cơ bản, bạn hãy bắt đầu với những công ty lớn có mặt trong 5 lĩnh vực công nghiệp tăng trưởng năng động
  6. nhanh nhất. Ví dụ, bạn có thể lựa chọn A trong lĩnh vực công nghệ, B trong lĩnh vực dược phẩm, C trong lĩnh vực dịch vụ tài chính… 36. Đừng đặt quá 10% vốn đầu tư bạn có vào cổ phiếu của chính công ty bạn. Nếu bạn buộc phải nắm giữ một số lượng lớn hơn 10% - có thể do những quy định của công ty - bạn hãy cố phân tán rủi ro bằng cách đầu tư vào những lĩnh vực khác ổn định hơn lĩnh vực của bạn. Ví dụ, nếu bạn làm việc cho một công ty công nghệ cao, hãy kiếm cho mình những cổ phiếu của các công ty công nghiệp trả cổ tức cố định. 37. Đừng đặt quá 10% vốn đầu tư cổ phiếu của bạn vào một công ty. Những bài học lớn như Enron và WorldCom là minh chứng rõ nét cho nhận định rằng: một danh mục đầu tư quá tập trung sẽ giá tăng sự mất ổn định và tăng rủi ro thua lỗ. 38. Sự phân tán cổ phiếu cũng không làm bạn trở nên giàu có. Việc chia tách cổ phiếu để đầu tư là cần thiết, nhưng việc phân tán quá rộng lại rất có thể phản tác dụng. Khi bạn chia tách cổ phiếu để đầu tư, bạn cũng sẽ không giàu hơn hay nghèo hơn chính bạn trước đây. Ví dụ, sau khi phân tán cổ phiếu, bạn kết thúc năm tài chính với số lượng cổ phiếu nhiều gấp đôi, nhưng chúng được giao dịch với giá chỉ bằng một nửa. Tuy nhiên, một vài nhà đầu tư nhìn nhận việc phân tán là dấu hiệu của việc đa dạng hoá đầu tư tới nhiều công ty hấp dẫn hơn. Nhưng rồi, các nghiên cứu cho thấy rằng cổ phiếu được phân tán thường ít đem lại lợi nhuận hơn so với việc không phân tán, nếu thời gian đầu tư của bạn chỉ từ một đến hai năm. 39. Tìm kiếm thông tin để tìm hiểu về công ty bằng cách đọc các báo cáo tài chính hàng quý hay hàng năm. Bạn cũng có thể tìm kiếm các thông tin về các công ty trên Internet hay trang web của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. 40. Theo sát chỉ số thị trường chứng khoán. Đây là chiến lược để mua lại những cổ phiếu có giá trị sinh lời cao nhất vào mỗi tháng 1 đầu năm. Bạn giữ chúng trong một năm, sau đó bán đi những cổ phiếu sa sút nhất trong bản danh sách và mua một cổ phiếu khác thay thế. 41. IPO sẽ không như mong đợi. Trong thời kỳ hoàng kim của các công ty Internet, mọi người đều muốn lao vào các đợt phát hành chứng khoán ra công chúng (IPO). Tuy nhiên, IPO không đem lại kết quả về lâu dài. Những cổ phiếu này thường đem lại phần lớn lợi nhuận trong những những ngày giao dịch đầu tiên, sau đó, các đợt phát hành mới sẽ chỉ “ì ạch” trên thị trường trong những năm tiếp theo. 42-45. Bốn lý do đúng đắn để bán cổ phiếu. Bạn đừng bán cổ phiếu chỉ vì chúng sụt giá hay vì thị trường có dấu hiệu đi xuống. Những lý do để bán cổ phiếu đi
  7. là: - Thứ nhất, một vài yếu tố quan trọng về hoạt động kinh doanh hay triển vọng lợi nhuận của công ty đã thay đổi so với thời điểm bạn mua chúng. - Thứ hai, bạn nhận ra rằng những nhận định, đánh giá trước đây của bạn về hoạt động kinh doanh và triển vọng lợi nhuận của công ty là sai lầm. - Thứ ba, công ty bạn đầu tư đang cho thấy họ hoạt động quá tốt so với mong đợi – giá cổ phiếu tăng trên mức mà bạn tin rằng phản ánh giá trị thực của công ty. - Thứ tư, cổ phiếu nào đó hiện đang chiếm một phần quá lớn trong danh mục đầu tư của bạn khiến rủi ro tăng cao. 46. Bạn giao dịch càng nhiều, lợi nhuận bạn thu được dường như sẽ càng ít đi. Bạn mua và bán càng nhiều, danh mục đầu tư của bạn sẽ phải chịu chi phí giao dịch càng cao hơn. Thử nghĩ xem liệu bạn có đánh bại thị trường bằng những ý tưởng thông minh không? Một nghiên cứu cho thấy các nhà quản lý quỹ thường không tăng lợi nhuận bằng các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nếu các giao dịch thường xuyên gây thiệt hại cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp, thì nó cũng có thể ảnh hưởng xấu đến bạn. 47. Đầu tư quá giới hạn cho phép. Bạn vay tiền từ những nhà môi giới và trả lãi suất để mua thêm cổ phiếu. Điều này dường như sẽ mang lại lợi nhuận nhiều hơn, nhưng đồng thời thua lỗ cũng có thể lớn hơn. Nếu cổ phiếu bạn nắm giữ xuống thấp dưới mức nào đó, nhà môi giới của bạn sẽ yêu cầu bạn hoàn trả lại một phần hay toàn bộ khoản nợ ngay lập tức. Do đó, mua ngoài giới hạn của bản thân là một rủi ro mà các nhà đầu tư nghiệp dư nên tránh xa. 48. Thế nào là đầu tư short-selling?. Nhà đầu tư “short-seller” sẽ mượn cổ phiếu từ một nhà môi giới để bán với hy vọng cổ phiếu này sẽ xuống giá và anh ta có thể mua lại với giá thấp hơn. Tuy nhiên, chi phí cao, tiềm năng thua lỗ lớn và thậm chí giá cổ phiếu tăng sau một thời kỳ dài đóng băng sẽ khiến mong muốn thu lại cổ phiếu của những nhà đầu tư “short-seller” trở nên viển vông. Đây là một điều mà bạn nên tránh. 49. Sự khác biệt giữa lệnh thị trường và lệnh giới hạn. Khi bạn ra một lệnh trên thị trường chứng khoán với nhà môi giới của bạn, bạn đang yêu cầu bán hay mua cổ phiếu ở một mức giá khớp lệnh. Còn lệnh giới hạn hướng nhà môi giới mua và bán cổ phiếu ở mức giá cụ thể nào đó, thì mức giá này được sử dụng như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ bạn trong một thị trường thường xuyên biến động. Nếu cổ phiếu không đạt tới giá đó, sẽ không có giao dịch nào được thực hiện. PHẦN 4: TRÁI PHIẾU
  8. 50. Những quy tắc cơ bản của đầu tư trái phiếu. Giá trái phiếu sẽ giảm khi tỷ lệ lãi suất tăng và ngược lại. Tại sao? Nếu bạn sở hữu trái phiếu có mức trả lãi 6% và tỷ lệ lãi suất tăng, lúc này, trái phiếu sẽ có mức trả lãi 7% , do vậy trái phiếu 6% của bạn sẽ mất giá. 51. Nếu bạn đầu tư trái phiếu và giữ chúng cho đến đúng kỳ hạn thanh toán, bạn sẽ không bao giờ mất tiền. Trái phiếu chính phủ, ngân phiếu không bao giờ vỡ nợ. Trái phiếu đô thị và trái phiếu công ty cũng hiếm khi vỡ nợ (tỷ lệ vỡ nợ dài hạn chỉ khoảng trên dưới 1% đến 2%). 52. Bán cổ phiếu trước khi đến hạn thanh toán có thể là một sai lầm. Cổ phiếu không như trái phiếu – chúng không được giao dịch mọi ngày và cũng sẽ không có nhiều người sẵn sàng mua trái phiếu khi bạn muốn bán chúng đi. Vì vậy, nếu bạn buộc phải bán trái phiếu, bạn có thể phải chấp nhận chịu thiệt một số tiền nhất định. 53. Làm thế nào để vừa có tiền vừa không thua lỗ? Trong danh mục đầu tư trái phiếu, bạn nên nắm giữ nhiều cổ phiếu với các kỳ hạn thanh toán khác nhau để bạn có thể có tiền vào bất cứ năm nào. Điều này cho phép bạn tận dụng lợi ích từ tỷ lệ lãi suất cao để mua trái phiếu khác, đồng thời giảm thiểu rủi ro. 54. Bạn có thể mất tiền nếu đầu tư vào các Quỹ đầu tư trái phiếu. Hàng ngày, giá trị của các cổ phiếu trong danh mục đầu tư trái phiếu luôn biến động, phụ thuộc vào sự dao động của tỷ lệ lãi suất và các yếu tố khác. Do đó, giá trị tài sản toàn Quỹ đầu tư trái phiếu cũng thay đổi theo. Vì vậy, khi bạn bán cổ phiếu của Quỹ đầu tư trái phiếu, giá cổ phiếu sẽ có thể thấp hơn – hay cao hơn – so với thời điểm bạn mua chúng. 55. Thế nào là trái phiếu Zero-coupon. Trái phiếu Zero-coupon (cuống phiếu bằng không) sẽ không có lãi suất, thay vào đó, bạn mua trái phiếu với mức giá thấp hơn giá danh nghĩa. Khi cổ phiếu đến hạn, bạn sẽ nhận lại khoản tiền đó bao gồm khoản tiền đầu tư ban đầu cộng thêm số tiền chênh ra từ giá gốc cổ phiếu so với giá mua. Ví dụ, bạn có thể phải trả 6659 đồng và nhận 10 ngàn đồng trái phiếu zero-coupon có lợi tức 4,15% và hạn thanh toán trong 10 năm. 56. Cuống phiếu (Coupon). Đây là mức lãi suất cố định mà bạn có thể nhận được mỗi năm từ số cổ phiếu nắm giữ. 57. Giá trị trung bình (Par value). Mức giá này được hiểu như giá trị danh nghĩa của trái phiếu, đó là lượng tiền mà một nhà phát hành trái phiếu đồng ý trả khi đến hạn thanh toán. Thông thường, trái phiếu được giao dịch ở mức cao hơn hay thấp hơn giá trị trung bình.
  9. Các chiến thuật kinh doanh cổ phiếu! Ngày 06 tháng 2 năm 2008 Xin giới thiệu một số chiến thuật kinh doanh cổ phiếu của những nhà kinh doanh cổ phiếu lớn tại thị trường Mỹ, được đúc kết trong cuốn “Lessons from the Greatest Stock Traders of All Time” - tạm dịch “Những bài học từ những nhà kinh doanh cổ phiếu thành công nhất” của John Boik, và cuốn “The 21 Irrefutable Truths of Trading” tạm dịch “21 sự thật về kinh doanh cổ phiếu” của John Hayden. Chiến thuật kinh doanh “không cảm xúc” và “phân tích cơ bản” của Bernard Baruh Bernard Baruh, xuất thân là nhân viên văn phòng của một công ty môi giới chứng khoán, là một nhà kinh doanh cổ phiếu thành công. Ông kiếm được bộn tiền nhờ vào dự đoán sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ vào năm 1907 và 1929. Không chỉ là một nhà kinh doanh cổ phiếu thành công, ông còn làm việc cho chính phủ của Tổng thống Woodrow Wilson. Bernard Baruh quan niệm rằng thị trường chứng khoán phản ảnh tình hình kinh tế, chứ thị trường chứng khoán không quyết định được nền kinh tế. Và ông cũng tin tưởng mãnh liệt rằng, kết quả kinh doanh được quyết định bởi tâm lý của những người kinh doanh cổ phiếu. Ông sử dụng cái đầu “lạnh”, chứ không để cảm xúc len vào khi kinh doanh chứng khoán. Ông là người đầu tiên đưa ra chiến lược phân tích cơ bản trong kinh doanh. Trong đó ông nhấn mạnh đến ba yếu tố: độ lớn tài sản của công ty, giá trị của sản phẩm đối với người mua, và năng lực của ban lãnh đạo, trong việc chọn cổ phiếu của mình. Chiến thuật “Kim tự tháp” và “Thăm dò” của Jess Livermore Jess Livermore, xuất thân từ nhân viên của một công ty chứng khoán, là người có những chuỗi thành công và cả thất bại lớn trên thị trường kinh doanh chứng khoán. Ông cũng kiếm được cả núi tiền nhờ vào việc tiên đoán sự sụp đổ của thị trường vào năm 1907 và 1929. Tuy vậy, năm 1940, ngay sau khi ông viết cuốn sách nổi tiếng “How to Trade in Stocks”, ông bị thất bại, phá sản và tự tử. Chiến thuật “Kim tự tháp” do ông phát triển: mua vào nhiều hơn những cổ phiếu đang tăng giá và bán ra những cổ phiếu đang rớt giá, là một trong những chiến thuật được các nhà kinh doanh cổ phiếu áp dụng cho đến bây giờ. Chiến thuật thứ hai là chiến thuật “Thăm dò”. Trong chiến thuật này ông sẽ thực hiện việc mua có tính cách thăm dò một số cổ phiếu. Sau một thời gian ngắn, dựa vào hiệu quả lợi nhuận của những cố phiếu thăm dò này, hoặc là ông bán hẳn; còn không
  10. thì sẽ mua thật nhiều để đưa vào kim tự tháp của mình. Jess Livermore, cũng giống như phần lớn các nhà kinh doanh cổ phiếu lớn khác, quyết định dựa vào nghiên cứu và phân tích của bản thân, chứ ít khi dựa vào tư vấn của các chuyên gia, hay các công ty tư vấn. Chiến thuật “kinh doanh tập trung” và “hành động nhanh” của Gerald M. Loeb Thừa hưởng một lượng tài sản lớn, Gerald Loeb có nhiều thuận lợi hơn các nhà kinh doanh, đầu tư khác. Một điều khá lý thú là vào năm khi Benjamin Graham - một trong những “ông tổ” về đầu tư, viết cuốn “Phân tích chứng khoán”, kêu gọi các nhà đầu tư mua cổ phiếu và giữ lại để được nhận giá trị thật của cổ phiếu trong tương lai, thì Gerald M. Loeb viết cuốn “Chiến đấu cho sự tồn tại trên trị trường chứng khoán” với quan điểm hoàn toàn đối nghịch. Ông quan niệm rằng, các nhà kinh doanh phải hết sức năng động trong việc mua bán, và thị trường là chiến trường. Trái với quan điểm truyền thống của đầu tư là đa dạng hóa danh mục đầu tư, chiến thuật của ông là “kinh doanh tập trung”, tức là chỉ mua một số loại cổ phiếu sau khi đã lựa chọn kỹ càng và chấp nhận rủi ro của những cổ phiếu đó. Chiến thuật thành công thứ hai của ông là “hành động nhanh”. Ông luôn quyết định mua và bán thật nhanh trước khi những diễn biến lớn xảy ra. Chiến thuật “Kỹ thuật và cơ bản” và “lý thuyết hộp” của Nicolar Darvas Nicolar Darvas là một nhà kinh doanh nghiệp dư. Nghề nghiệp chính của ông là vũ công. Thế nhưng, với sự tập trung cao độ vào kinh doanh, ông đã kiếm được 2 triệu đô la, đó là số tiền lớn vào những năm 50 của thế kỷ trước. Ông là người phát triển lý thuyết hộp. Theo lý thuyết này, giá cổ phiếu lên và xuống trong những giới hạn nhất định, và tạo ra một cái “hộp”. Đến một thời điểm nào đó, giá của cổ phiếu sẽ vượt qua cái hộp này, và tạo ra một cái “hộp” mới. Mua vào những cổ phiếu ngay giai đoạn nó thoát ly cái hộp cũ sẽ tạo ra những lợi nhuận cao. Ông cũng là người đề ra phương pháp phân tích kỹ thuật - phối hợp với cơ bản. Tuy quan tâm cả hai, nhưng ông nghiêng về yếu tố kỹ thuật - chuyển động của giá, và số lượng cổ phiếu mua bán - hơn là yếu tố cơ bản - tình hình kinh doanh và năng lực quản lý của công ty Chiến lược CANSLIM của William J. O’Neil Xuất thân là một người môi giới chứng khoán, William O’Neil trở thành nhà kinh doanh thành công và vẫn tiếp tục kinh doanh cho đến bây giờ. Ông là người sáng lập tờ Investor’s Business Daily và viết nhiều sách về đầu tư và kinh doanh cổ phiếu. Ông là người phát triển lý thuyết kinh doanh chứng khoán gọi là CANSLIM. Theo lý thuyết này của ông, giá một cổ phiếu sẽ chuẩn bị tăng khi có một hay nhiều đặc điểm sau đây:
  11. C - Current Quarter: Lợi nhuận trong quí tăng trưởng ít nhất 25%. A - Annual Earning: Lợi nhuận năm tăng trưởng so với ba năm trước ít nhất 25%. N - New Factors: Yếu tố mới, chẳng hạn sản phẩm mới, quản lý mới. S - Supply and Demand: Khi lượng cổ phiếu giao dịch tăng cao. L - Leader or Laggard: Giá cổ phiếu đi theo khuynh hướng những cổ phiếu hàng đầu. I - Institutional Sponsorship: Khi các nhà đầu tư tổ chức mua và sở hữu. M - Market Direction: Khi có 75% số cổ phiếu trên thị trường đi theo xu hướng của nó. Những điểm quan trọng Mặc dù những nhà kinh doanh thành công có những chiến thuật, chiến lược khác nhau nhưng họ chia sẻ những điểm chung sau: * Cần có một khoản tiền dự trữ đề phòng những rủi ro. Khoản dự trữ này sẽ giúp nhà kinh doanh tiếp tục kinh doanh chứ không thụ động phụ thuộc vào kết quả của những “phi vụ” trước. * Cắt lỗ càng sớm càng tốt. Khi đã lỡ mua cổ phiếu bị xuống giá, cắt ngay. Không bao giờ giữ cố phiếu đang giảm giá và chờ giá sẽ cao trở lại. * Mua giá cao và bán giá cao hơn. Để kinh doanh thành công, không chỉ là mua thấp bán cao, mà còn là mua giá cao và bán ra cao hơn. * Đôi khi rút khỏi thị trường. Không phải lúc nào nhà kinh doanh cũng thành công, mà phải biết rút khỏi thị trường. O’Neil, Darvas và Loeb thường không thích tham gia thị trường đang xuống giá, trong khi đó Livermore lại không tham gia khi thị trường đều đặn, bình ổn. * Mua tập trung chứ không nên đa dạng hóa danh mục đầu tư. * Quan tâm đặc biệt đến khối lượng giao dịch và giá. Đối với những nhà kinh doanh cổ phiếu, hai chỉ số này quan trọng hơn bất cứ chỉ số nào, kể cả P/E, các loại tỷ suất lợi nhuận. * Sau khi thực hiện các phi vụ, phải bỏ thời gian phân tích để rút kinh nghiệm, tại sao mình thua hay thắng phi vụ đó. * Cống hiến toàn thời gian. Để kinh doanh thành công, phải dành công sức, thời gian. Ngay cả trường hợp Darvas là vũ công nhưng cũng dành một thời gian lớn hàng ngày (trên 8 tiếng) để theo dõi và thực hiện việc kinh doanh. * Thực hiện các cuộc nghiên cứu phân tích độc lập, các nhà kinh doanh cổ phiếu thành công phải biết tự nghiên cứu và phân tích, không nên dựa vào ý kiến tư vấn của người khác. * - Quyết định dựa vào dữ kiện, không dựa vào cảm xúc. Ví dụ như nhà kinh doanh không tiếc khi phải bán ra cổ phiếu, không quá mừng rỡ mà bán lúa non
  12. khi giá cổ phiếu vẫn còn đang lên. * Quan trọng nhất là phải chấp nhận rủi ro. Một chiến lược đầu tư gọi là hiệu quả khi có thể giảm thiểu rủi ro và tăng cao lợi nhuận. Trong khi đó, các chiến lược kinh doanh hầu như phải chấp nhận mức rủi ro cao vì chính rủi ro cao đó là nguồn gốc của lợi nhuận cao. Nhà kinh doanh vì vậy phải chấp nhận những phi vụ thất bại, và đừng nên kỳ vọng rằng lúc nào họ cũng thắng được thị trường. Lời khuyên dành cho những người mới chơi cổ phiếu! Ngày 05 tháng 2 năm 2008 Phần lớn những người mới chơi chứng khoán đều không biết chính xác khi nào cần phải bán cổ phiếu. Thực tế thì việc chọn thời điểm bán thường khó hơn việc chọn thời điểm mua. Nhưng chính điều này mới quyết định lợi nhuận cho những người chơi cổ phiếu. Người đầu cơ (còn gọi là người chơi cổ phiếu) khác với một nhà đầu tư – đây là hai loại người khác nhau trong thị trường chứng khoán. Steve Anderton, người sáng lập ra Hãng Tactical Trader của Anh, khuyên rằng: “Nếu bạn quyết định trở thành một người chơi cổ phiếu thì hãy quên đi nguyên tắc chính của một nhà đầu tư là ‘mua và giữ’. Khi mua cổ phiếu, người chơi cổ phiếu phải biết khi nào sẽ bán chúng”. “Việc ra quyết định bán cổ phiếu đôi khi rất khó khăn. Mọi người thường không chịu thừa nhận sai lầm của mình và không muốn bán cổ phiếu khi chúng hạ giá vì hy vọng giá sẽ tăng trở lại. Và họ cũng khó khăn không kém khi ra quyết định bán những cổ phiếu đang tăng giá: có cảm tưởng rằng giá sẽ còn tăng nữa và người chơi cổ phiếu thường tiếc những khoản lợi nhuận còn ‘chưa có’ này”. “Bán là quyết định khó khăn nhất khi bạn quyết định đầu tư vào cổ phiếu, - Barry James, Chủ tịch Quỹ James Advantage Funds, cho biết. – Bạn sẽ là kẻ thua lỗ nếu chỉ xác định cho mình những nguyên tắc mua cổ phiếu mà không đề ra các nguyên tắc bán cổ phiếu”. Nên bán khi các chỉ số xấu đi Một trong những lý do xác đáng để đem bán cổ phiếu là khi xuất hiện những thông tin xấu về các chỉ số tài chính của công ty phát hành cổ phiếu. Vì đây, có thể không phải là những tin tức xấu cuối cùng, David Covach, Trưởng điều hành của Turner Investment Partners, cho biết. “Tốt nhất là bán những cổ phiếu này đi hơn là giữ và ngồi nhìn thấy giá cổ phiếu ngày càng tụt xuống thấp hơn”, ông nói. Năm 2004, cổ phiếu của e-Bay (Turner Investment Partners có nắm giữ cổ phiếu của e-Bay) tăng từ 32 đô-la lên 58 đô-la. Nhưng đến 01/2005, sau khi hãng công bố các kết quả tài chính không mấy khả quan của mình, cổ phiếu e-Bay
  13. trong một tuần giảm xuống còn 40 đô-la. Vào thời điểm này, David Covach bán số cổ phiếu e-Bay mà ông nắm giữ. Mặc dù, mất đi một phần lợi nhuận nhưng ông vẫn giữ được phần còn lại: ba tháng sau cổ phiếu e-Bay hạ xuống còn 30 đô-la. “Khi nhận được những thông tin xấu đầu tiên, bạn đừng thụ động ngồi nhìn”, Daniel Morgan, người điều hành Quỹ Synovus Investment Advisors, nói. Đặc biệt, nếu đây là những công ty nhỏ và đang phát triển nhanh, giá cổ phiếu của các hãng này đã không hiếm lần tăng quá mức mong đợi. Morgan cảnh báo rằng: cần phải bán loại cổ phiếu này ngay khi nhận được những tin tức cho thấy có sự thay đổi cơ bản theo chiều hướng xấu đi trong công việc kinh doanh của các hãng này. Ông cho rằng, đây là trường hợp không nên quyết định dựa vào những bài phân tích trên các phương tiện truyền thông. Xác định mức giá bán Các chuyên gia khuyên: khi mua cổ phiếu của một hãng nào đó, bạn nên định ngay giá có thể bán được chúng. Bạn có thể xác định mức giá này dựa vào những bảng phân tích của các nhà băng hoặc các công ty môi giới chứng khoán. Những thông tin này có thể được đăng tải trên những tờ báo và các tạp chí chuyên ngành. Người chơi chứng khoán phải tự xác định cho mình mức giá mà anh ta sẵn sàng bán những cổ phiếu mà mình đã mua. Khi mua cổ phiếu, những người điều hành Quỹ Needham Growth Fund đã xác định giá có thể bán ra dựa trên dự báo về mức lợi nhuận và khả năng phát triển kinh doanh của hãng phát hành cổ phiếu. Vào năm 2002, Seagate Technology, một công ty nghiên cứu công nghệ lưu trữ thông tin, lần đầu tiên lên sàn chứng khoán và Needham Growth Fund mua cổ phiếu của hãng này với giá 12 đô-la/một cổ phiếu. Những nhà điều hành quỹ xác định 25 đô-la là giá có thể bán được, theo họ ở mức giá này hệ số P/E đã là quá cao. Vì vậy, vào cuối năm 2003, khi giá đạt mức 25 đô-la, quỹ đã quyết định bán một phần cổ phiếu Seagate của mình. Nhìn lại sự việc, một nhà điều hành của quỹ nói: “Đáng lẽ ra chúng tôi phải bán hết số cổ phiếu này mới phải, vì chỉ một thời gian ngắn sau là giá bắt đầu giảm. Chúng tôi rút ra bài học: khi mua cổ phiếu phải xác định giá cần bán và khi cổ phiếu đạt đến mức giá này thì phải bán hết”. Ông còn nói thêm: tuy nhiên mức giá này, trong một số tình huống có thể được xem xét lại, ví dụ trong trường hợp lợi nhuận hoặc mức tiêu thụ sản phẩm/dịch vụ của hãng phát hành cổ phiếu tăng đột ngột. Khi giá cổ phiếu đạt mức xác định những người chơi chúng khoán nên ra lệnh bán (take profit) trên hệ thống giao dịch mà họ sử dụng (ví dụ như QUIK и NetInvestor). Hệ thống này sẽ thực hiện mệnh lệnh tự động. Những người chơi
  14. cổ phiếu nên định sẵn thời hạn thực hiện lệnh take profit hay stop loss, ví dụ sau hai hoặc ba tháng. Lệnh sẽ “treo” sẵn trên hệ thống giao dịch và chờ đến khi cổ phiếu đạt mức giá xác định thì thực hiện. Giới hạn tổn thất Ngoài ra còn có những cách khác để định mức giá bán cổ phiếu, nhưng đều phải xác định ngay từ khi mới mua chúng và sau đó tuân thủ tuyệt đối quyết định đã đưa ra, Anderton nhân viên Tactical Trader cho biết. “Không được có bất kỳ sự luyến tiếc nào. Nếu bạn mua cổ phiếu vì nghĩ rằng giá sẽ lên, thì phải bán lập tức khi giá hạ”, - ông nói. Có những biện pháp kỹ thuật nhằm giảm thiểu khả năng tổn thất cho những người chơi chứng khoán – xác định mức stop loss. Tức là người chơi cổ phiếu “treo” lệnh bán ở mức thấp hơn một số phần trăm nào đó so với giá hiện tại. Khi giá thị trường thay đổi, mức stop loss cũng có thể thay đổi theo nhưng khoảng phần trăm chênh lệnh giữa chúng không đổi. Bằng cách này, người chơi chứng khoán luôn biết số lợi nhuận thấp nhất mà anh ta có thể nhận được. “Stop loss là sự bảo vệ tốt cho những người chơi chứng khoán khỏi bị thua thiệt nặng, nó cho phép “thoát hiểm” khi mức lợi nhuận âm”, - David Fuller, giám đốc Stockcube Research của Anh và Nhà xuất bản Thông báo chứng khoán Fullermoney, cho biết. Khi thị trường chứng khoán đang trong chiều hướng ổn định thì khoảng cách giữa giá cổ phiếu hiện tại và stop loss có thể cao hơn. “Nếu chiều hướng đi lên kết thúc bằng sự tăng định giá đột ngột, thì tôi đặt stop loss cố định để bán cổ phiếu mà không có bất cứ sự thay đổi nào cả”, Fuller nói. Kiểm tra bản thân Người chơi chứng khoán cần phải hiểu rõ tại sao anh ta mua cổ phiếu và định kỳ kiểm tra lại những nguyên nhân dẫn đến quyết định mua xem chúng còn tồn tại không, Crag Hodges người lãnh đạo Quỹ Hodges Fund ở Dallas , cho biết. Hay nói một cách đơn giản hơn, “nếu tình hình biến đổi theo hướng tồi tệ, thì hãy bán số cổ phiếu đã mua”. Khoảng bốn năm trước, Hodges Fund đã mua cổ phiếu của hãng radio vệ tinh XM - Satellite Radio được thành lập vào năm 2001 với giá 3 đô-la/một cổ phiếu. Đầu tiên, Crag Hodges cho rằng giá loại cổ phiếu này có thể tăng lên đến 15-16 đô-la, nhưng ông đã tăng định giá mức bán sau khi nhận thấy Satellite Radio không những mắc mạng lưới sử dụng cho những cá nhân mà còn ký hợp đồng với những hãng sản xuất ô-tô để lắp radio của mình vào những chiếc ô-tô do các hãng này sản xuất. Theo đánh giá của Hodges, việc tăng mạng lưới khách hàng tất sẽ kéo theo sự tăng lợi nhuận cho hãng. Hodges bán cổ phiếu Satellite Radio của mình vào đầu năm 2005 với giá mỗi cổ phiếu là 35 đô-la. Ông đưa ra quyết định này sau buổi gặp gỡ hàng năm với
  15. những nhà đầu tư, ban lãnh đạo Satellite Radio nói về việc “mở rộng mạng lưới người sử dụng nhưng không có một lời nào nói về những lợi nhuận thu được”. Hodges hiểu rằng: quan điểm của ông cho rằng việc tăng số lượng người sử dụng sẽ có ảnh hưởng tích cực đến tình hình tài chính của Satellite Radio đã không đúng với sự thực. Và hóa ra quyết định bán số cổ phiếu này của ông là hoàn toàn đúng đắn: một thời gian ngắn sau cổ phiếu của Satellite Radio bắt đầu giảm. Giá cổ phiếu thậm chí giảm xuống tới 10 đô-la (Hodges lại một lần nữa mua cổ phiếu của hãng ở mức giá này), và hiện nay giá lại tăng lên 14 đô-la. Quan sát thị trường Nếu tình hình thị trường chứng khoán xấu đi, theo Morgan, những người chơi cổ phiếu nên bán bớt một số cổ phiếu của mình. “Có thể bạn không muốn hoàn toàn rút khỏi cuộc chơi, vì vậy hãy rút một phần vốn đầu tư của mình để bảo toàn lực lượng. Và sau đó một thời gian hãy phân tích lại tình hình thị trường để đưa ra những quyết định mới”, - ông nói. Trong trường hợp này, việc đầu tiên là bán đi phần đầu tư mạo hiểm nhất, sau đó bán một phần cổ phiếu của những công ty nhỏ vì nó có thể giảm giá nhiều hơn những cổ phiếu của những “cây đại thụ”, Skott Billodo - Giám đốc đầu tư vào những công ty vừa và nhỏ Fifth Third Asset Management - chia sẻ kinh nghiệm. Tuy nhiên, một số nhà chơi chứng khoán chuyên nghiệp lại cho rằng không nên chộp lấy các pha lên hay xuống của thị trường nói chung mà tập chung sự chú ý vào cổ phiếu của những công ty nhất định nào đó. “Chúng tôi không dự đoán chiều hướng của thị trường mà tập chung vào việc tìm kiếm những cổ phiếu có triển vọng”, - Hodges nói. Còn Fuller thì có hai chiến lược – đầu tư vào đầu cơ. Sau khi xác định những cổ phiếu có tính dài hạn, ông lập danh mục đầu tư lâu dài bao gồm những cổ phiếu mà ông sẽ giữ trong dài hạn có thể từ vài năm đến một chục năm. Đối với những cổ phiếu này sự dao động ngắn và trung bình về giá không làm ông bận tâm. Thậm chí, ông còn mua thêm mỗi khi giá xuống. Theo Fuller thì thông thường đây là những cổ phiếu của thị trường nguyên liệu, kim loại quý. Còn trong chiến lược đầu cơ thì bản danh mục đầu tư của ông lại phụ thuộc vào sự dao động trên thị trường và số lượng cổ phiếu thuộc lại hình đầu tư này của ông cũng nhiều hơn. Fuller thường thực hiện các giao dịch mua cổ phiếu loại này thông qua những hợp đồng với giá ấn định trước thời điểm giao nhận cổ phiếu. Trong danh mục này ông cũng có những đầu tư dài hạn. Thời điểm bán cổ phiếu được xác định bởi tình hình thị trường hoặc nhờ vào stop loss. Nguồn: Quỳnh Hương (Dịch từ Newsr
  16. Những sai lầm thường gặp của nhà đầu tư chứng khoán! Ngày 10 tháng 1 năm 2008 Để kiếm được tiền từ việc đầu tư chứng khoán, điều quan trọng nhất là bạn phải tránh được những sai lầm chết người. Các chuyên gia nghiên cứu đã tìm hiểu các hành vi tài chính của các nhà đầu tư, ví dụ như cách phân tích hay phản ứng của họ trước các thông tin tài chính, để tìm ra nguyên nhân dẫn đến các sai lầm này. Không chỉ các nhà đầu tư cá nhân mà ngay cả các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư cũng rất dễ mắc phải sai lầm khi đầu tư chứng khoán. Vì dù có giỏi đến đâu chăng nữa, họ cũng vẫn là những con người bằng xương bằng thịt. Hy vọng những nghiên cứu về các hành vi tài chính này sẽ giúp ích cho các nhà đầu tư. Những sai lầm lớn nhất Những sai lầm lớn nhất mà các nhà đầu tư thường mắc phải là: - Quá tự tin vào khả năng dự đoán trước diễn biến của thị trường và hoạt động của các quỹ đầu tư. - Quá trung thành với những thất bại. - Chỉ nhìn thấy lãi. - Quá thiển cận. - Phớt lờ những chi phí theo thời gian. Nếu biết nhìn nhận sâu sắc hơn về những sai lầm có thể mắc phải cũng như những ảnh hưởng của chúng đối với việc kinh doanh, bạn sẽ dễ dàng thành công hơn. Quá tự tin Hầu hết mọi người đều quá tự tin. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người thường đánh giá quá cao những khả năng của bản thân mình. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng mình luôn cao hơn người khác một cái đầu. Nếu xét về giới tính thì đàn ông có xu hướng tự tin hơn phụ nữ rất nhiều. Sự tự tin đúng mực mang lại nhiều lợi ích cho con người trên một số lĩnh vực của cuộc sống. Một người tự tin có xu hướng vui vẻ và làm việc chăm chỉ hơn
  17. những người khác. Họ cũng có khả năng đương đầu tốt hơn với những khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, quá tự tin trong đầu tư lại hết sức nguy hiểm bởi vì thị trường chứng khoán là nơi mà mọi thứ có thể thay đổi ngay trong tíc tắc. Quá tự tin thường dẫn tới việc kinh doanh vượt quá khả năng nguồn vốn. Việc mười triệu quỹ cổ phiếu được trao đổi, giao dịch trao tay mỗi ngày đã thể hiện xu hướng kinh doanh đó của các quỹ đầu tư. Ai cũng có quyền hy vọng rằng, bằng việc tích cực mua bán các quỹ tương hỗ, họ có thể trở thành một Peter Lynch thứ hai (người được mệnh danh là nhà quản lý tiền số một thế giới đã phát triển Quỹ Magellan Fund từ 20 triệu đôla năm 1977 lên đến mức 14 tỷ đôla năm 1990). Khoản thù lao hậu hĩnh cho môi giới có thể cho phép nhiều cá nhân hấp tấp, vội vàng nhảy từ quỹ này sang quỹ khác chỉ sau một cuộc điện thoại hoặc vài cú click chuột. Nhà đầu tư quá tự tin cũng có thể chơi trò đánh cược lớn bằng cách tập trung vào một quỹ ưa thích hoặc thậm chí dùng biện pháp cầm cố chứng khoán để lấy tiền đầu tư (margin trading). Sự tự tin có xu hướng thay đổi theo các chu kỳ lên xuống của thị trường chứng khoán. Nói chung, những nhà đầu tư nhập cuộc thị trường chứng khóan vào cuối thập niên 90 – khi cổ phiếu được các nhà đầu tư ôm vào để đầu cơ và làm giá, được đánh giá là tự tin hơn rất nhiều so với các nhà đầu tư thời nay. Sự thành công của nhiều nhà đầu tư trong thời điểm thị trường đầu cơ giá lên đó chính là kết quả của sự quá tự tin, chứ không phải có kỹ năng giỏi như nhiều người khi đó lầm tưởng. Lòng tự hào của một cá nhân đạt được những thành công liên tiếp sẽ có thể nhân sự tự tin lên nhiều lần. Và trong thực tế, đối với một nhà đầu tư thành công, ngoài khả năng tự tin thì yếu tố may mắn nhiều khi vẫn đóng vai trò quan trọng hơn kỹ năng. Tuy nhiên, sau khi giá cả thị trường đạt tới tột đỉnh vào cuối 1999 đầu năm 2000, thì nhiều cổ phiếu rơi vào tình trạng giảm giá không thể kiểm soát được. Kể từ khi đó, sự tự tin và hoạt động thương mại của các nhà đầu tư giảm đi một cách đáng kể. Quá trung thành với những thất bại Tất cả mọi người đều không thích sự thất bại. Nhiều người sẽ không chấp nhận sự thất bại trong đầu tư chừng nào họ chưa thu lại được vốn đầu tư ban đầu khi mua được cổ phiếu với giá gốc (get-even). Thất bại thực sự làm tổn thương lòng tự trọng. Trên thực tế, có nhiều nhà đầu tư lỗ vốn hơn là hòa vốn, chứ chưa nói gì đến có lãi. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nỗi đau của việc mất $10.000 bằng hai lần niềm hạnh phúc khi nhận được $10.000. Vì vậy, mọi
  18. người luôn cố gắng để tránh những cảm giác hối tiếc và đau đớn về mặt tâm lý. Tuy không thích sự thất bại, nhưng mọi người lại thường không phân tích nguyên nhân thất bại một cách hợp lý. Trớ trêu thay, những người thất bại, khi càng cố gắng giảm thiểu sự thất bại, họ lại càng làm gia tăng những nguy cơ rủi ro. Giống như những con bạc khát nước, các nhà đầu tư tiềm năng thường tăng khoản cá cược của họ lên khi đang may mắn để kéo dài vận may của mình. Một người bốc đồng có thể vội vàng nhân đôi số cổ phiếu của một quỹ không ổn định (có thể giảm giá tới 50%) để giảm mức chi phí trung bình khi mua cổ phiếu đó. Nhưng giá thấp có thể trở nên thấp hơn nữa. Ngay kể cả các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tâm lý sợ thất bại. Những nhà quản lý quỹ có thể sẽ gặp rủi ro lớn hơn trong những thời kỳ quỹ phải chịu tỷ lệ chi phí cao hoặc cổ phiếu liên tục rớt giá. Hội chứng “get-even” này có thể rất bất lợi cho các nhà đầu tư tài chính giỏi. Nếu việc đầu tư không thuận lợi, họ kiên định và hy vọng sẽ có bước đột phá. Họ có thể tránh bị rơi vào trạng thái hối tiếc vì sợ mình là một nhà đầu tư tồi nên đã vội vã bán quỹ đầu tư đi ngay khi nó xuống giá. Bởi vì, nếu bán thì họ đã kết thúc quá trình đầu tư bằng sự thất bại, còn nếu không bán, họ còn có hy vọng nó sẽ phục hồi và biết đâu nó sẽ phục hồi thật. Nhưng sự kiên nhẫn cũng phải có một giới hạn nhất định. Giả sử bạn muốn nhân tiền của bạn lên gấp đôi trong 8 năm. Như vậy, trung bình mỗi năm bạn phải đạt lợi nhuận ở mức 9,05%. Tuy nhiên, nếu bị mắc kẹt vào những kế hoạch vô dụng, không mang lại lợi nhuận như mong muốn, bạn sẽ càng khó khăn hơn để đạt được mục tiêu ban đầu. Ví dụ, nếu giá trị đầu tư của bạn bị trượt giá 25% trong năm năm đầu, có nghĩa là bạn phải đạt được sự tăng trưởng lợi nhuận 38,67%/năm trong ba năm còn lại để đạt được mục tiêu đề ra là tăng gấp đôi số tiền của mình trong 8 năm. Một sự đầu tư mà không có lãi sẽ gây ra rất nhiều tổn thất nếu kéo dài. Với 0% doanh thu trong suốt năm năm đầu tiên thì bạn phải kiếm được 25,99% lợi nhuận trong những năm còn lại để gấp đôi số tiền trong 8 năm theo kế hoạch. Về mặt tâm lý của các nhà đầu tư, họ vẫn nuôi hy vọng vào một phép diệu kỳ nào đó. Bằng cách suy nghĩ tích cực, nhà đầu tư có thể đương đầu với những thất bại tốt hơn. Thay vì suy nghĩ “nếu bán tức là tôi sẽ thừa nhận sự thất bại nhục nhã to lớn”, hãy nghĩ đơn giản “Tôi sẽ chuyển tài sản của tôi sang một mục đích sử dụng hiệu quả hơn”. Câu nói này tương đối hữu ích nếu bạn đang cố gắng thuyết phục một ai đó chấp nhận sự thất bại một cách dễ dàng hơn. Chỉ nhìn thấy lãi
  19. Không có gì là khiếm nhã khi nói rằng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng con người rất nhanh nhạy trong việc thu về những lợi ích cho mình. Niềm tự hào và sự hối tiếc luôn song hành trong suy nghĩ của họ. Ví dụ, một nhà đầu tư nhìn thấy một cổ phiếu tiềm năng và anh ta muốn đưa nó vào danh mục vốn đầu tư của mình. Nhưng để đầu tư vào cổ phiếu này anh ta sẽ phải bán một cổ phiếu khác đi. Một nhà đầu tư “tìm kiếm sự tự hào” thông thường sẽ bán cổ phiếu có lãi hơn là cổ phiếu đang bị lỗ. Bằng cách bán một cổ phiếu ngay lập tức thu được lợi nhuận, dù nhỏ sẽ đem lại cho các nhà đầu tư đó cảm giác tự hào. Sự hối tiếc lúc này không được tính đến và gạt sang một bên, do vậy anh ta giữ cổ phiếu đang bị thua lỗ lại. Khi cổ phiếu đang thua lỗ có dấu hiệu hồi phục, nhiều nhà đầu tư lại bán nó quá nhanh để chỉ thu về được một khoản lãi nhỏ hoặc thậm chí không có chút lãi nào. Bằng việc nhanh chóng lấy về vốn, các nhà đầu tư đã loại bỏ cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn, mà đáng lý ra sẽ là phần thưởng xứng đáng cho họ sau những thời kỳ “đau khổ” kéo dài. Quá thiển cận "Sự thiển cận xuất phát từ tâm lý sợ thất bại” là một thuật ngữ khác để chỉ những nhà đầu tư thiển cận và nó làm những người có tầm nhìn xa cảm thấy xót xa. Những nhà đầu tư thiển cận có xu hướng quá thận trọng khi sử dụng tài sản của họ. Điều này rất phổ biến với những người muốn có được những khoản tiết kiệm sau khi nghỉ hưu. Một chân lý hiển nhiên là con đường dẫn tới những lợi nhuận dài hạn thường bị ngắt quãng bởi những mất mát ngắn hạn. Thị trường thay đổi nhanh chóng thường tạo ra sức ép tâm lý lớn. Những người quá lo lắng thường có xu hướng bán đi những quỹ đầu tư chứng khoán rất có tiềm năng ngay khi nhìn thấy dấu hiệu đầu tiên của sự xuống giá. Một người quá thiển cận có thể nhanh chóng bán ra khi giá trị trung bình của cổ phiếu trên thị trường giảm 5% hoặc 10% trong một tuần. Người này sợ sẽ mất tất cả! Thực tế thì giá cả thường sẽ tăng lên chỉ trong vòng vài ngày hoặc vài tuần. Có một quy tắc xác định mức độ rủi ro mà một cá nhân có thể vấp phải như sau: “Lấy 110 trừ đi số tuổi của bạn”. Ví dụ, một người 40 tuổi thì con số 70 (=110- 40) là số phần trăm rủi ro mà anh ta có thể gặp phải. Vì vậy, nếu đầu tư ở tầm nhìn ngắn hạn, nhà đầu tư này tốt nhất chỉ nên đầu tư một khoản tiền hết sức khiêm tốn (nếu có).
  20. Phớt lờ những chi phí theo thời gian Mọi người, đặc biệt là những người không hiểu biết về tài chính thường không nhận biết được sự khác nhau rất lớn giữa các con số, đặc biệt là những con số nhỏ. Bởi những con số nhỏ đó theo thời gian sẽ trở thành những con số khổng lồ, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng doanh thu, ví dụ như là tỷ lệ chi phí quản lý cho khoản đầu tư của bạn chẳng hạn. Và như bạn đã biết, lợi nhuận của một quỹ bằng doanh thu của nó trừ đi chi phí, chi phí càng cao, lợi nhuận càng thấp. Thông thường đối với các quỹ đầu tư, tỷ lệ chi phí dành cho quản lý được dao động từ ít hơn 0,20% đến hơn 2%. Giả sử một khoản đầu tư ban đầu là $10.000 cộng thêm 10% lợi nhuận. Một quỹ nội địa được quản lý tốt với 1,25% tỷ lệ chi phí, sẽ lấy đi $895 (hay 5,55%) của $16.105 tổng tài sản trong tương lai sau 5 năm. Ngược lại, trong vòng 40 năm, tỷ lệ chi phí sẽ tiêu tốn mất $166.062 của quỹ, chiếm tới 36,69% của $452.593 tổng tài sản có được sau chừng ấy thời gian. Nói một cách khác, số tiền còn lại chỉ bằng 63,31% tổng doanh thu. Đối với danh mục quỹ nội địa, chi phí có mức ảnh hưởng ít hơn rất nhiều. Với 0,20% tỷ lệ chi phí, một nhà đầu tư sau đó có thể mất đến $31.775 trong 40 năm, bằng 7,02% trị giá chỉ số index tương lai. Vì vậy, mức lợi nhuận của danh mục sẽ là 92,98%. Vì vậy khi nhìn vào bảng danh mục quỹ đầu tư và quỹ giao dịch thương mại, bạn cần quan tâm đến các quỹ có tỷ lệ chi phí thấp, đặc biệt khi có ý định đầu tư dài hạn. Tìm hiểu chỉ số P/E ! Ngày 25 tháng 12 năm 2007 P/E là một chỉ số được các nhà đầu tư sử dụng rất phổ biến trong phân tích tài chính. Tất nhiên tỷ lệ này cũng có những hạn chế nhất định nhưng nó có ưu điểm là dễ tính và dễ hiểu. Nếu bạn muốn biết thị trường sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi đôla lợi nhuận của một công ty, chúng ta hãy xem xét P/E. P/E là một tỷ lệ phần trăm giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập trên một cổ phhiếu. Nếu giá một cổ phiếu cuả IBM là 60 đôla và thu nhập của mỗi cổ phiếu là 3 đôla thì tỷ lệ P/E sẽ là 20 (60/3). điều này có nghĩa là nhà đầu tư sẵn sàng trả 20 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận của công ty. Nếu P/E giảm xuống còn18 có nghĩa là nhà đầu tư chỉ trả 18 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận. P/E truyền thống- tức là tỷ lệ P/E mà bạn vẫn thấy hàng ngày trên các tạp chí chứng khoán- còn gọi là P/E hiện tại. Để tính chỉ số này người ta lấy giá cổ phiếu chia cho lợi tức cổ phiếu của 12 tháng gần nhất.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2