intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích bài thơ Tây Tiến - Ngữ văn 12

Chia sẻ: Nguyễn Hải Yến | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:114

4.384
lượt xem
600
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời bạn tham khảo bài văn mẫu khắc họa hình ảnh người lính với những phẩm chất tốt đẹp trong bài thơ "Tây Tiến" của tác giả Quang Dũng, hi vọng sẽ mang lại hiệu quả cho việc học tập của bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích bài thơ Tây Tiến - Ngữ văn 12

  1. Phận tích bài thơ Tây tiến – Quang Dũng
  2. 1. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"... Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Khổ thơ này là một bằng chứng "thi trung hữu hoạ". Thủ pháp đối lập ở đây được sử dụng triệt để và có hiệu quả. Các từ lấp láy "khúc khuỷu", "thăm thẳm" góp phần làm tượng hình lên hình ảnh Tây Bắc gập ghềnh hiểm trở. Ở câu thứ hai, từ ngữ được sử dụng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn "heo hút". Người lính như đi trên mây. Để tả chiều cao thăm thẳm của núi, Quang Dũng đã hạ ba chữ "súng ngửi trời" nghe vừa ngộ nghĩnh, vừa tinh nghịch. Câu ba diễn tả hai bên dốc núi nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo là một câu thơ toàn thanh bằng : "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Quy luật này cũng giống với cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh như xoa mát cả khổ thơ. Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy nguy hiểm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Trong cái không gian mênh mông của rừng thiêng hoang vu ấy, cái chết luôn luôn rình rập con người: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Đoạn thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ ấm áp, dịu ngọt mở ra một cảnh tượng thơ mộng thấm đẫm tình người, gắn liền với những kỉ niệm của Tây Tiến trên những chặng đường hành quân: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
  3. 2. Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc: Một Tây Bắc tươi mát, mĩ lệ, tài hoa, duyên dáng. Những nét vẽ bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, tinh tế. Hình ảnh một đêm liên hoan văn nghệ của bộ đội được gợi lên với những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ... Hơn ở đâu hết, đoạn thơ này bộc lộ nét tài hoa của Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ: xiêm áo lộng lẫy, dáng điệu "e ấp" của cô gái Tây Bắc, tiếng khèn, điệu múa độc đáo mang đậm bản sắc địa phương. Hai tiếng "kìa em" thể hiện một cái nhìn ngỡ ngàng, kinh ngạc trìu mến. Cũng ở đoạn thơ này, con người và cảnh vật Tây Bắc hiện lên tươi đẹp và thơ mộng. Ngòi bút tài hoa, tinh tế của nhà thơ đã vẽ lên hình ảnh con người mờ ảo trong chiều sương Châu Mộc, gợi lên cái hồn của rừng lau, cái dáng mềm mại của cô gái trên chiếc thuyền, cái đong đưa của những bông hoa trôi theo dòng nước lũ. 3. Trên nền hùng vĩ và diễm lệ của núi rừng Tây Bắc, hình ảnh người lính Tây Tiến xuất hiện mang vẻ đạp vừa bi tráng vừa thơ mộng. Nhà thơ không che giấu những gian khổ, hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều, những khó khăn, gian khổ, những mất mát, hi sinh ấy được thể hiện bằng một bút pháp lãng mạn. Qua cách nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng, đem đến cho hình ảnh người lính một vẻ đẹp hào hùng tráng lệ. Cái sự thực tàn khốc đoàn quân Tây Tiến tóc trụi, da xanh ngắt như tàu lá vì sốt rét, qua con mắt của nhà thơ vẫn toát lên cái vẻ "dữ oai hùm". Cái vẻ hào hùng, sang trọng của người lính toát lên từ thái độ dứt áo ra đi: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", từ tư thế: "Mắt trừng gởi mộng qua biên giới", từ những giấc mơ biết bao thơ mộng: "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Tác giả đã dành những câu thơ trang trọng để nói về sự hi sinh mất mát của người lính Tây Tiến. Những người lính ngã gục bên đường, sự thật là không
  4. có đến một manh chiếu bọc thân, qua cách nhìn của nhà thơ lại được khâm liệm bằng những tấm áo bào sang trọng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Những nấm mồ người lính rải rác nơi rừng hoa biên giới xa xôi bỗng trở thành những nấm mồ tôn nghiêm nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" v.v... Đoạn thơ kết thúc bằng tiến gầm dữ dội của dòng sông Mã như khúc nhạc hào hùng đưa tiễn linh hồn người chiến sĩ: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Anh, chị hãy phân tích đoạn thơ sau đây: "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Mai Châu mùa em thơm nếp xôi..." (Trích Tây Tiến - Quang Dũng, Văn học 12, tập một, nxb Giáo dục, Hà Nội - 2004, tr. 76) a) Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm: - Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp với hồn thơ hào hoa, lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. - Hoàn cảnh sáng tác, cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến. b) Phân tích đoạn thơ: học sinh có thể lựa chọn cách phân tích phù hợp để bày tỏ cảm nhận của riêng mình về đoạn thơ, nhưng phải nêu được các ý cơ bản sau đây: - Nội dung bao trùm đoạn thơ: hoài niệm thiết tha về một thời Tây Tiến. + Nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc: hùng vĩ, hiểm trở (phân tích dẫn chứng), hoang dại, bí hiểm (phân tích dẫn chứng), thơ mộng (phân tích dẫn chứng)... + Nỗi nhớ về người lính Tây Tiến: hành trình vất vả, gian truân nhưng vẫn hóm hỉnh lạc quan, mở rộng tâm hồn để cảm nhận vẻ đẹp của Tây Bắc (phân tích dẫn chứng). - Nghệ thuật: ngôn ngữ giàu nhạc tính, tính hình tượng và giá trị biểu cảm... (chú ý điệp từ , thanh điệu, láy...)
  5. Phân tích vẻ đẹp của người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. YÊU CẦU Nội dung : Nêu được cách nhìn và cách miêu tả độc đáo của nhà thơ về vẻ đẹp của người lính cách mạng những năm đầu kháng chiến gian khổ. Khi làm bài, cần lưu ý các đối tượng phân tích là người lính trong bài thơ dưới cái nhìn nghệ thuật riêng của Quang Dũng. Kiểu bài : Đây là kiểu bài phân tích một khía cạnh của một bài thơ hoàn chỉnh. Bài làm đòi hỏi học sinh phải biết chọn lựa từ bài thơ những chi tiết cần phân tích để phục vụ cho chủ đề của bài làm. GỢI Ý Nên tập trung vào mấy ý chính sau đây: - Người lính hiện về trong hồi ức như một biểu tượng xa vời trong thời gian và không gian (Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi... Nhớ về rừng núi... Tây Tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi, Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy...) Nhưng vẫn là hoài niệm không dứt, một nỗi thương nhớ mênh mang (Nhớ về, nhớ chơi vơi...). - Người lính được miêu tả rất thực trong những sinh hoạt cụ thể hàng ngày, trong những bước đi nặng nhọc trên đường hành quân, với những đói rét bệnh tật, với những nét vẽ tiều tuỵ về hình hài song vẫn rất phong phú trong đời sống tâm hồn với những khát vọng rất mãnh liệt của tuổi trẻ (dẫn thơ minh hoạ). - Tác giả phát hiện ra vẻ đẹp trong đời sống tâm hồn của người lính : + Con người nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng với những cảnh sắc độc đáo rất tinh tế (Hồn lau nẻo bến bờ, dáng người trên độc mộc, dòng nước lũ, cánh hoa đong đưa). + Con người vẫn cháy bỏng những khát vọng chiến công vẫn ôm ấp những giấc mơ đẹp về tình yêu tuổi trẻ (Mắt trừng rởi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Một dáng kiều thơm hay một vẻ đẹp của con người rừng núi có nhiều hoang sơ, kiều diễm đến sững sờ (kìa em xiêm áo tự bao giờ).
  6. - Người lính hiện lên chân thực, thơ mộng, lãng mạn ( đến đa tình đa cảm), đồng thời cũng rất hào hùng, rất tráng sĩ. Với nhiều từ ngữ Hán Việt vốn mang sắc thái cổ điển sang trọng (Áo bào thay chiếu anh về đất, Sông mã gầm lên khúc độc hành...) tác giả tạo được không khí thiêng liêng làm cho cái chết tiều tuỵ của người lính hình thành một hành vi lịch sử thấu động lòng sông. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện ra đi cho mùa xuân đất nước : “Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến của Quang Dũng : Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ...Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Tìm hiểu đề - Đề bài thuộc dạng phân tích tác phẩm văn học. Cụ thể là phân tích một đoạn thơ. - Để có thể phân tích sâu sắc đoạn thơ này, cần phải có cái nhìn tổng quát về cả bài thơ Tây Tiến. Bài thơ có hai đặc điểm nổi bật, bao trùm : cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cả hai đặc điểm ấy đều được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ cần phân tích. - Đoạn thơ này, về thực chất khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến. Vì thế, khi phân tích, cần phải làm sáng tỏ vẻ đẹp của hình tượng này.
  7. Gợi ý làm bài I. Đặt vấn đề : - Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian. - Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên. - Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng. II. Giải quyết vấn đề : 1. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến : Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc. - Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ : Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ... Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm - Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng
  8. không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ ... - Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ. 2. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến : - Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng: Rải rác biên cương mồ viễn xứ ....Sông Mã gầm lên khúc độc hành. - Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã : Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
  9. Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. - Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại. III. Kết thúc vấn đề : - Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại. - Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình. Tây Tiến vs. Đồng Chí Hình tượng anh Vệ quốc quân - Người lính Cụ Hồ - được kh ắc h ọa đ ậm nét trong nhiều bài thơ của nhiều tác giả. Ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, hình tượng người lính trong mỗi bài thơ có sức hấp dẫn, cổ vũ và với vẻ đẹp riêng, nét riêng nổi b ật th ể hi ện trong c ảm hứng. "Đồng chí" của Chính Hữu, chủ yếu là cảm hứng hiện thực giữa cảnh và người; "Tây tiến" của Quang Dũng phát triển cảm hứng lãng mạn nhằm khắc họa nét phi thường, kỳ vĩ, hùng tráng của người lính. "Tây tiến" quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mỹ cổ điển, truyền thống; còn "Đồng chí" tô đậm nét hiện th ực, bình d ị, s ự lam lũ, chất phác của người nông dân chân chất hiền lành, không có ý định làm anh hùng hoặc để được tôn vinh là anh hùng. Họ tìm th ấy s ức m ạnh ở đồng chí, đồng đội, ở một tình cảm thiêng liêng, cao cả và m ới m ẻ trong những người nông dân được giác ngộ trở thành người lính. Trong thơ Quang Dũng và thơ Chính Hữu nói riêng, có sự "đổi ngôi" của cái "Tôi" trữ tình. Cái "Tôi" trong thơ ca là một khái ni ệm "kép", bao g ồm
  10. 2 bình diện: một là cái "Tôi" với tư cách là chủ thể nhận th ức, ho ạt động tư duy, và hai là cái "Tôi" đối tượng cảm th ụ với vai trò khách th ể. Trong thơ kháng chiến nói chung, cái "Tôi" cơ bản ở bình diện quan sát, nhận thức, rung cảm với cuộc sống lớn. Điều đó tạo ra nét mới trong thơ, thơ rộng mở trong hơi thở cuộc sống, tắm mình trong không khí thời đại, sự giao hòa này tạo cho thơ thêm đa dạng, phong phú. Chân dùng tinh thần người lính trong "Tây tiến" mang nét hoành tráng, kỳ vĩ, bí hiểm nổi bật trong bối cảnh hoang sơ, dữ dội, nghiệt ngã và cũng vô cùng mơ mộng trong không gian cụ thể của vùng núi Tây Bắc: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Bằng bốn câu thơ nhưng hiện lên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ nét hoang vu, heo hút, dữ dằn và vô cùng hiểm trở trên ch ặng đ ường hành quân của người lính Tây tiến. Một loạt những từ giàu giá trị tạo hình mang tính hội họa, với những mảng hình khối, đường nét, màu sắc "Dốc lên khúc khuỷu" rồi lại "Dốc thăm thẳm"; các từ láy "heo hút", "thăm thẳm", "khúc khuỷu" như những nét chạm khắc đặc sắc tạo nên nh ững ấn tượng về dốc cao, vực sâu. Cả những thanh trắc tả chiều cao khi leo lên và những thanh bằng gợi khoảng không gian khi leo xuống: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Trong gian nan thử thách không đè bẹp nổi ý chí, nghị lực, sức sống của người lính Tây tiến, nét đẹp của họ một phần cũng chính là ch ỗ đó. V ẫn sống mãi với thời gian ấn tượng mãnh liệt không phai bạc, m ờ nhòa theo năm tháng: Tây tiến những đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Quang Dũng khéo chọn cách nói, có tóc rụng, có da xanh của anh lính ốm (ốm nhưng không yếu) nhưng không mất đi dáng vẻ kiêu bạc, anh hùng, vẫn phong thái "dữ oai hùm" giữa chốn sơn cùng thủy tận. Ngay cả sự "ra đi" cũng rất nhẹ nhàng của những anh hùng hào hoa, mã th ượng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Ba lần nói về sự hy sinh trong những hoàn cảnh khác nhau của người lính "Tây tiến" nhưng không một lần nh ư nhi ều nhà thơ vẫn dùng từ "hy sinh" hoặc "chết". Quang Dũng bằng ngòi bút tài hoa sử dụng những cụm từ "hồn về", "bỏ quên đời", "về đất" giản dị h ơn, nhằm tự nhiên hóa, bình thường hóa cái chết, đúng theo quan niệm lý
  11. tưởng của học sinh, sinh viên cầm súng thời kỳ đầu kháng chiến, còn hừng hực hào khí. Với bút pháp lãng mạn, cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của chiến sĩ - thi sĩ trên cả hai bình diện tác giả và tác ph ẩm, Quang Dũng đã t ạc b ằng ngôn ngữ thi ca vào lịch sử, hình tượng người lính Vệ quốc anh hùng. Mang nét riêng, người lính Vệ quốc trong "Đồng chí" của Chính Hữu bình dị trong nghĩ suy mà "sâu sắc đến giật mình" (Xuân Diệu). Ch ất li ệu hi ện thực cuộc sống được đưa vào thơ vừa đủ tạo men say cảm xúc và nâng tầm khái quát. Cách mạng Tháng Tám không chỉ phục sinh một dân tộc, khai sinh m ột thời đại, tân tạo những bảng thang giá trị tinh thần, mà còn tr ả l ại cho mỗi người cuộc sống mới; kiến tạo những quan hệ mới, tình cảm mới chưa hề có trong lịch sử, trong văn hóa ứng xử của cộng đ ồng. Đó là tình đồng chí đồng đội. Chính quan hệ mới, tình cảm mới này tạo nên những vẻ đẹp khác trong chân dung tinh thần người lính Vệ quốc. Không kỳ dị "đoàn binh không mọc tóc", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" như trong thơ Quang Dũng. Người lính Vệ quốc trong thơ Chính Hữu vô cùng bình dị, hiền lành, chất phác. Bức tranh về hai người vệ quốc được phác thảo bằng chất liệu cuộc sống đồng quê, trên n ền "n ước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" của những người có cùng cảnh ngộ; từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền đất nước có chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh, đồng cảm nên đồng tâm, đồng chí trong chọn lựa mục đích cống hiến, chiến đấu. Mở đầu bài thơ là sự gặp gỡ của hai người đồng cảnh: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Sự tương đồng về hoàn cảnh tạo nên cộng hưởng trong tình cảm gắn bó: Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Nhưng cái khốn khó, nghèo khổ của những con người ở những vùng miền khác nhau không vì vậy mà hèn kém (nghèo nh ưng không hèn), nghĩa là không bị cái cảnh nghèo bó buộc, câu thúc, người nông dân vượt lên s ố phận, vượt lên cảnh ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, người lính Vệ quốc hầu hết thoát thai t ừ nông dân, trong hành trang người lính mang theo có cái nghèo đeo đ ẳng "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ". Cái rét trong rừng sâu, cái rét trong
  12. vùng địch hậu, cái rét được đề cập phản ánh trong nhiều bài thơ kháng chiến, không chỉ chuyển tải nét khắc nghiệt của khí hậu, mà còn đối sánh cảnh nồng ấm của nghĩa tình đồng chí - đồng đội, nghĩa tình quân - dân. Câu thơ của Chính Hữu vừa nói lên một th ực tế về sự thi ếu th ốn c ủa người lính Vệ quốc trong kháng chiến, nhưng cao hơn là một thực tế khác: Cái rét đã tạo nên tình tri kỷ giữa hai người chung chăn. Thơ kháng chiến nói chung, thơ Chính Hữu nói riêng, cái "Tôi" trữ tình không đơn thuần là cái "Tôi" cá nhân, tâm trạng, cái "Tôi" phô di ễn, cái "Tôi" giãi bày, mà là cái "Tôi" thế hệ, cái "Tôi" công dân, cái "Tôi" s ử thi. Ở đây "Anh-Tôi" chuyển hóa trong biên độ cái "Ta" chung, cái "Ta" đa s ố đông đảo: Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Nhưng không vì vậy mà người lính mất đi niềm tin, niềm lạc quan, vẫn yêu đời, yêu người trong tình đồng chí - đồng đội: Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay Hai người lính Vệ quốc trong tình đồng chí, trong nhiều câu th ơ có hai v ế nhưng một hoàn cảnh. Do vậy, có khi ch ỉ một hoàn c ảnh nh ưng ng ười đọc liên tưởng cho cả hai. Có lúc câu thơ nói gia c ảnh m ột ng ười mà nh ư cả hai: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Điều này cho thấy thêm một bình diện trong chân dung tinh th ần ng ười lính vệ quốc, đó là sự hy sinh âm thầm không so đo, mặc cả, không toan tính thiệt - hơn cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Chính vẻ đẹp này ánh xạ rực rỡ cái tình của những người "đồng chí" trong thơ. Đóng góp của Quang Dũng và Chính Hữu cho nền thơ kháng chi ến trên nhiều lĩnh vực thi pháp. Bằng chính cuộc đời với những trải nghiệm, kiểm chứng, bằng vốn sống phong phú của đời lính, các anh đã ph ản ánh được nhiều nét thẩm mỹ khác nhau về chân dung tinh thần của một th ế hệ cầm súng trong "ba ngàn ngày không nghỉ", góp phần quan trọng làm nên những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc. Nét mới lạ về hình tượng người lính qua bài Tây Tiến của Quang
  13. Dũng Thứ ba, 22 Tháng 9 2009 16:41 MỘT SỐ GỢI Ý CHO BÀI LÀM 1. Vài nét về hình tượng người lính trong thơ ca Việt nam. + Dân tộc Việt Nam - một dân tộc luôn phải đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược. Lịch sử 4000 năm của dân tộc, về cơ bản là lịch sử chiến tranh vệ quốc. Vì vậy, hình tượng người lính luôn là hình tượng trung tâm trong đời sống xã hội cũng như trong văn học nghệ thuật. + Hình tượng người lính đã từng xuất hiện trong ca dao, c ổ tích, trong văn học Trung đại ( thơ văn Nguyễn Trãi, trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc... +Từ sau Cách mạng Tháng Tám, hình tượng người lính đã trở thành hình tượng trung tâm của văn học cách mạng. 2. Hoàn cảnh ra đời và cảm hứng sáng tạo bài thơ Tây Tiến - Bài thơ Tây Tiến ra đời năm 1948, sau một thời gian, Quang Dũng xa Tây Tiến...vì vậy cảm xúc bao trùm trong bài thơ là cảm xúc hoài niệm. Đây là điểm khác biệt so với hoàn cảnh ra đời c ủa các bài th ơ vi ết v ề người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp như: Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên... - Cảm hứng bao trùm của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ thiên nhiên Tây B ắc hoang sơ kỳ vĩ và thơ mộng; nhớ về tình quân dân ấm áp và bao trùm lên cả là nỗi nhớ về những đồng đội, những người đã cùng Quang Dũng trải qua những ngày tháng gian khổ ở Tây Tiến . - Khắc hoạ hình tượng người lính, Quang Dũng không nhằm kh ắc hoạ, thể hiện một con người cụ thể, riêng biệt, mà tạo dựng hình ảnh người lính Tây Tiến được hun đúc từ những phẩm chất tinh thần đ ẹp đ ẽ c ủa muôn ngàn người lính nơi miền Tây. Với Quang Dũng, người lính Tây Tiến trở thành niềm kiêu hãnh. Quang Dũng như tìm thấy bóng dáng của mình trong chân dung của đồng đội. 3. Những nét mới trong cách cảm nhận và khắc hoạ hình t ượng ng ười lính của Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến.
  14. a. Nét mới trong cách cảm nhận về vẻ đẹp người lính: + Vẻ đẹp hào hoa - Nếu người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)Cá nước (Tố Hữu) mang dáng dấp của những người nông dân ra trận, ch ất phác, hồn nhiên , ra đi từ mái tranh gốc rạ, bến nước cây đa ..., thì người lính của binh đoàn Tây Tiến hầu hết là các chàng trai Hà thành thu ở ấy. Họ là những thanh niên trí thức mang trong mình sự sôi nổi, lãng mạn và một bầu nhiệt huyết đối với quê hương đất nước. Họ khao khát được khẳng định mình trong môi trường khốc liệt của chiến tranh (th ực ch ất đây là một sự ý thức sâu sắc về mình...). - Sự khác biệt ấy còn xuất phát từ chất tâm hồn của chính Quang Dũng. Cái chơi vơi, thăm thẳm, xa khơi, oai linh thác gầm thét, d ữ oai hùm,... c ủa cảnh và người trong Tây Tiến cũng là những giai điệu, những sắc màu của thế giới tâm hồn Quang Dũng. Chính vì thế, nhà thơ đặc bi ệt đồng đi ệu đồng cảm với chất lính Tây Tiến hào hoa, phóng khoáng, nên thơ. +Vẻ đẹp giản dị mà kiêu hùng - Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, l ẫm li ệt - có bóng dáng của các tráng sĩ xưa - coi cái chết nhẹ nhàng, thanh thản: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất… nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ. - Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên một cách chân thực, gần gũi trong nét hồn nhiên , tinh nghịch (Người lính trong Đồng chí của Chính Hữu không có dáng dấp tráng sĩ mà gần với Văn t ế Nghĩa sĩ C ần Giu ộc ). Họ là những người chiến sĩ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bước vào cuộc chiến khốc liệt với tư thế ngang tàng, bất chấp hiện thực nghiệt ngã: "Heo hút cồn mây súng ngửi trời"... "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm"; "Chiến trường đi chẳng ti ếc đ ời xanh". Nhưng điều làm nên sức mạnh thực sự của người lính Tây Tiến là nguồn lực tinh thần. Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh li ệt v ới quê hương đất nước mà biểu hiện cụ thể trong bài thơ là tình yêu với thiên
  15. nhiên miền Tây, với núi rừng, làng bản. Tình yêu cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến đấu gian khổ: "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói - Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" "Doanh trại bừng lên h ội đu ốc hoa - Kìa em xiêm áo tự bao giờ".... - Viết về người lính trong những năm thăng kháng chiến gian kh ổ, Quang Dũng không né tránh sự mất mát, đau thương. Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh của nh ững ng ười lính đã được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương, nhưng không bi luỵ. Cái chết đồng hành với mỗi bước chân trên con đường chi ến trận. Người lính có thể gục xuống, ngã xuống vì bom đạn vì sốt rét, vì đói kh ổ, nhưng đó không phải là sự gục ngã: Trong cái bi (nỗi đau mất mát, chiến tranh tàn khốc) vẫn tiềm tàng một sức mạnh bất khuất: "Anh b ạn dãi d ầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"...; "Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chi ếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành" +Tâm hồn lạc quan, lãng mạn - Tâm hồn lạc quan, lãng mạn vốn là phẩm chất tinh th ần n ổi b ật c ủa người lính. Nhiều tác giả đã viết về điều đó , song ở Tây Tiến, tâm hồn lạc quan, mơ mộng của những chàng trai Hà Nội không gi ống với cái h ồn nhiên chân chất của những người lính xuất thân từ từ gốc rạ bờ tre, từ cây đa, giếng nước. ( Giếng nước gốc đa...Đằng nớ vợ ch ưa đằng n ớ...Lũ chúng tôi...). Đã có một thời người ta phê phán câu thơ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm- cho rằng Quang Dũng mộng mơ quá, nhưng suy cho cùng, điều đó lại rất cần thiết. Đặc biệt, đối với những người lính phải chiến đấu trong một hoàn cảnh khắc nghiệt , nếu không có niềm lạc quan, mộng mơ thì họ sẽ chết vì nỗi buồn trước khi chết vì bom đạn của kẻ thù (nhất lại là đối với những chàng trai Hà Nội...). Từng là m ột ng ười lính nên Quang Dũng hiểu rõ điều đó. -Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến được bộc lộ không ph ải ch ỉ ở dáng vẻ oai hùm, phóng túng, mà luôn thăng hoa trong chất tâm h ồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh. Cái nhìn của nhà thơ cũng là cái nhìn từ đôi m ắt mộng m ơ c ủa ng ười lính. Đôi mắt ấy đã cảm nhận được về đẹp đầy chất thơ của thiên nhiên, con người, cuộc sống miền Tây Tổ quốc: "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy - Có thấy hồn lau nẻo bến bờ - Có nh ớ dáng người trên độc m ộc - Trôi
  16. dòng nước lũ hoa đong đưa". Cũng từ cái nhìn ấy, th ế giới của cái đ ẹp, của thi ca, nhạc hoạ, của tình yêu và tình người luôn hiện h ữu, bất ch ấp thực tại đầy gian nan, khắc nghiệt, bất chấp cái chết luôn đồng hành: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa em xiêm áo t ự bao gi ờ - Khèn lên man điệu nàng e ấp - Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"; "Mắt trừng g ửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".... Cũng b ằng c ảm quan đầy chất lãng mạn, lí tưởng hoá, sự hi sinh của nh ững ng ười lính vô danh đã được biểu hiện bằng hình tượng thơ mang vẻ đẹp thiêng liêng, kì vĩ: "Áo bào thay chiếu anh về đất -Sông Mã gầm lên khúc độc hành". b. Nét mới trong cách thể hiện: Đóng góp của Quang Dũng trong cách biểu hiện hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiến: - Đặt người lính trong một nền không gian có thiên nhiên hoang s ơ, kỳ vĩ, khắc nghiệt mà mỹ lệ . - Sử dụng nghệ thuật tương phản, đối lập (hiện thực khốc liệt dữ dội... > < những phẩm chất tinh thần của người lính...): Chất lãng mạn và chất anh hùng trong hình tượng người lính không tách rời, không mâu thu ẫn v ới nhau mà thẩm thấu, hoà nhập làm một để tạo nên vẻ đẹp vừa lí t ưởng, vừa hiện thực của hình tượng thơ. - Ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình ( không chỉ bằng hình ảnh mà còn b ằng cả thanh điệu) [Văn 12] Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến - Văn học - văn học, tài liệu ôn thi môn văn, đề thi văn, học văn online, học văn trực tuyến, học căn trên mạng Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Gợi Ý : MỞ BÀI Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình
  17. ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian "Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành" THÂN BÀI "Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ "Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành" Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
  18. " Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi " hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ "Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu" Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết "Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân" Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
  19. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: "Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long" Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ QDũng. Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu
  20. QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng. Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội "Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời" Trong Chinh phụ ngâm: "Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn" Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy. Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất" Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2