intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Thực trạng tổ chức trò chơi vận động cho trẻ nhà trẻ ở trường Mầm non hiện nay và các giải pháp

Chia sẻ: Lê Thị Quỳnh Nga | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:30

460
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Thực trạng tổ chức trò chơi vận động cho trẻ nhà trẻ ở trường Mầm non hiện nay và các giải pháp được nghiên cứu với mục đích phát triển thể chất cho trẻ và đạt được kết quả khả quan. Qua đó, góp phần phát triển toàn diện về các mặt: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mĩ cho trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Thực trạng tổ chức trò chơi vận động cho trẻ nhà trẻ ở trường Mầm non hiện nay và các giải pháp

  1. ĐỀ  TÀI: THỰC TRẠNG TỔ  CHỨC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG CHO TRẺ  NHÀ TRẺ  Ở TRƯỜNG MẦM NON HIỆN NAY VÀ CÁC GIẢI PHÁP                                                                           Tên tác giả: Nguyễn Thụ Phúc                                                                           L ớp: ĐHGD Mầm non B­ K54                                                                           MSSV: DQB 02120116 1. ĐẶT VẤN ĐỀ          Theo các nhà tâm lý học và các nhà nghiên cứu khoa học thì vận động là một trong   số những điều kiện quan trọng nhất cho sự phát triển tâm lý và thể chất của trẻ nhỏ.  Vận động là nhu cầu tự  nhiên của cơ  thể, đặc biệt là đối với cơ  thể  đang phát triển  của trẻ mầm non.         Ngày nay khoa học đã chứng minh được rằng: phần lớn những trẻ ít vận động thì  các vận động phức hợp và các chức năng thần kinh thực vật thường kém phát triển,  hoạt động hệ tuần hoàn và hệ hô hấp bị hạn chế, khả năng lao động chân tay bị giảm   sút, trọng lượng cơ thể  tăng nhanh. Ngoài ra những trẻ  ít vận động còn có khả  năng   hay   mắc   các   bệnh   về   đường   hô   hấp.   Những   nghiên   cứu   của   nhà   khoa   học   N.M   Selovano và M.IU.Kixchiacovxkaia đã chứng minh trẻ càng thực hiện đa dạng các vận  động bao nhiêu thì lượng thông tin được chuyển về  não bộ  càng nhiều bấy nhiêu và   chính điều đó đã thúc đẩy trí tuệ một cách mạnh mẽ. Chế độ vận động của trẻ được   tổ chức một cách đúng đắn sẽ góp phần không nhỏ vào quá trình hình thành các phẩm   chất nhân cách quan trọng như  tính tích cực, tự  lực, lòng dũng cảm, tính cẩn thận,   trung thực…       Thực tế  hiện nay trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ  mầm non, nhiệm vụ  phát  triển vận động cho trẻ  được tổ  chức thông qua nhiều hình thức phong phú như  hoạt   động thể  dục, thể  dục sáng, trò chơi vận động, hoạt động ngoài trời…nhưng nhiều   giáo viên vẫn chưa thực sự  nắm được nhu cầu vận động của trẻ  cả  về  lượng cũng   như cường độ vận động cụ thể như việc tổ chức thực hiện phải phụ thuộc vào nhiều  yếu tố: lứa tuổi, giới tính, mùa trong năm, thời gian trong ngày.         Vai trò đầu tiên của các hoạt động phát triển thể chất là nâng cao phát triển vận   động qua hoạt động tập luyện, vui chơi, ngoài việc giúp trẻ phát triển các kỹ năng vận  động còn giúp trẻ  có sức khỏe tốt cân đối hài hòa. Có thể  thấy một số  công trình  nghiên cứu khoa học đã xác định được rằng: Giáo dục thể chất là một trong những nội  dung quan trọng nhằm đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển trí tuệ, cường tráng về  thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức, có kĩ năng vận động trong  các hoạt động hàng ngày. Do đó, thông qua các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ hàng   ngày giáo viên rèn nhân cách cho trẻ  nhằm phát triển tốt các mặt “ đức, trí, thể, mĩ” 
  2. tạo tiền đề cho trẻ có hứng thú với trường với lớp không còn nhút nhát hay sợ sệt mỗi   khi đến trường. Trong giáo dục thể  chất, trò chơi vận động chiếm phần quan trọng  không thể thiếu ở trẻ nó giúp cho trẻ phát triển thể chất và còn hình thành ở trẻ những  chức năng tâm lý, những cơ  sở  ban đầu của nhân cách con người. Vì vậy năm học  2013­ 2014 bộ  GD – ĐT   đưa ra chuyên đề:  “nâng cao chất lượng giáo dục phát   triển vận động của trẻ  trong các cơ  sở  giáo dục mầm non, nhằm phát triển thể   chất cho trẻ  ” với mục tiêu nâng cao chất lượng phát triển vận động cho trẻ  đóng   một vai trò cần thiết cho sự phát triển thể lực toàn diện cho trẻ.       Trong thực tế   ở  trường mầm non, đặc biệt là lứa tuổi 24­ 36 tháng rất khô khan  chỉ thực hiện đúng phương pháp trò chơi vận động cứ lặp đi lặp lại gây sự nhàm chán  đối với trẻ, dẫn đến trẻ nhút nhát càng nhút nhát hơn, không mạnh dạn tự tin tham gia   hoạt động, không phát huy tính tích cực của trẻ. Trường đã sử  dụng các loại trò chơi   như: trò chơi học tập, trò chơi đóng vai theo chủ  đề, trò chơi xây dựng, trò chơi vận   động. Trong sự đa dạng của các trò chơi dành cho trẻ, phải đặc biệt chú ý đến loại trò  chơi vận động, vì trong trò chơi này, tất cả  trẻ  tham gia đều được thu hút vào vận   động. Những vận động đó được quy định bởi nội dung và luật của trò chơi, đồng thời   nhằm đạt được một mục đích nào đó đặt ra trước khi chơi hay tự trẻ tham gia chơi đề  ra. Chẳng hạn như: rèn luyện kỹ năng vận động gì quy định điều kiện của trò chơi.     Vậy làm thế  nào để  tổ  chức các trò chơi vận động thực sự  có hiệu quả, lôi   cuốn và hấp dẫn được trẻ là một việc làm rất khó đối với giáo viên trực tiếp đứng lớp   nhà trẻ . Vì  ở  lứa tuổi này khả  năng chú ý có chủ  định của trẻ  còn kém, trẻ  thích thì   tham gia không thích thì sẵn sàng bỏ cuộc.  ­ Mục tiêu của giáo dục mầm non Theo tinh thần của chỉ thị 153 của Hội Đồng Bộ Trưởng ngày 12 tháng 08 năm  1966 mục tiêu của giáo dục mầm non nhằm giáo dục trẻ  bằng cách tổ  chức vui chơi   mà giáo dục các cháu đức tính tốt ,chăm sóc sức khỏe cho các cháu ,tập cho các cháu   vừa chơi vừa học,chuẩn bị cho các cháu vào trường phổ thông ,giáo dục mẫu giáo tốt  sẽ chuẩn bị cho một nền giáo dục tốt. Theo điều 22 luật giáo dục năm 2005 :Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp  trẻ em phát triển về thể chất tình cảm trí tuệ ,thẩm mỹ hình thành những yếu tố đầu  tiên nhân cách ,chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một ­ Các chính sách của nhà nước đối với giáo dục mầm non  Nhà nước coi giáo dục mầm non là một bậc học cần thiết và bắt buộc phải có  trong hệ  thống giáo dục.Từ  chỉ  thị  53/CP của Hội Đồng Bộ  Trưởng ngày 12 tháng 8 
  3. năm 1966 đã xác định mục tiêu của giáo dục mầm non “ Giáo dục mầm non tốt sẽ mở  đầu cho một nền giáo dục tốt. Sáng ngày 19 tháng 9 năm 2006 tại Hà Nội bộ giáo dục và đào tạo tổ chức giới  thiệu đề án “Phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006­2015”.Mục tiêu của đề án là  mở rộng mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non đặc biệt chú trọng phát triển mầm non   với đồng bào dân tộc ,vùng kinh tế khó khăn,hải đảo xa xôi.  Nội dung của đề  án là đa dạng hóa các phương thức chăm sóc giáo dục bảo  đảm chế  độ  chính sách cho giáo viên mầm non theo quy định của nhà nước .Đối với   vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2006­2010 sẽ đầu tư kinh phí đào tạo trình độ chuẩn  cho 3000 giáo viên trang bị cơ sở vật chất theo những tiêu chí đạt 2500 cơ sở giáo dục   ở các vùng này .Đồng thời đổi mới chương trình,phương pháp giáo dục mầm non,các  hoạt động tổ  chức vui chơi cho trẻ  phù hợp với tâm sinh lý của trẻ  khắc phục tình   trạng dạy lớp một cho trẻ  mẫu giáo năm tuổi .Thực hiện chương trình thí điểm tin  học kid smart cho trẻ làm quen với tin học phấn đấu đến năm 2010 khoảng 1/3 số cơ  sở giáo dục mầm non được tiếp cận với tin học ngoại ngữ .Cung cấp các thiết bị học  tập và vui chơi cho trẻ.  Đề án phát triển giáo dục mầm non đựoc chia làm hai giai đoạn:  + Giai đoạn 1 từ 2006 đến 2010 + Giai đoạn 2 từ năm 2010 đến 2015 Tổng kinh phí đầu tư cho đề án này là 5000 tỷ VNĐ Mục tiêu lớn nhất của đề  án này rút ngắn khoảng cách giáo dục mầm non nông thôn với giáo dục mầm non   thành thị .Đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006 đến 2015 là đề  án đựoc  đầu tư kinh phí cho giáo dục mầm non nhất từ trước đến nay. Các nghị quyết gần đây  nhất của đảng về  nâng cao chất lượng hiệu quả  giáo dục đào tạo đều coi giáo dục  mầm non là tiền đề cho một nền giáo dục ,là điểm khởi đầu để hình thành nhân cách   con người .Giáo dục mầm non là mốc thang đầu tiên mở  đầu cho cả  một nền giáo   dục. Nhưng bên cạnh đó, việc thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục mầm non  ngày càng giúp phát huy tính sáng tạo của giáo viên và khuyến khích sự ham thích học  hỏi của trẻ  mầm non đã đặt ra những yêu cầu mới đối với giáo viên mầm non trong  quá trình lựa chọn và tổ  chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ. Nếu trong 
  4. chương trình giáo dục mầm non cải cách giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp trực   quan và dùng lời để  dạy trẻ  môn Môi trường xung quanh, thì trong chương trình giáo   dục mầm non mới lại yêu cầu giáo viên phải tăng cường sử dụng các phương pháp thí   nghiệm, thực nghiệm để giúp trẻ  được trải nghiệm, được khám phá khi tham gia các  hoạt động khám phá khoa học. Và tuy nhiên trong xã hội hiện nay việc sử dụng các trò   chơi học tập chưa được quan tâm hoặc chỉ quan tâm khi thanh tra đến kiểm tra mà thôi  nhưng không biết rõ: * Trò chơi học tập có vai trò rất quan trọng đối với sự  phát triển tính tích cực   hóa hoạt động nhận thức của trẻ 4­5 tuổi. Nó vừa là con đường quá trình để phát triển trí tuệ  cho trẻ  4­5 tuổi. Trong quá   trình chơi trẻ phải huy động và sử dụng các giác quan của mình để thực hiện thao tác   chơi nhiệm vụ  chơi. Nhờ  vậy mà các giác quan của trẻ  trở  nên tinh nhạy hơn, ngôn  ngữ  trở  nên mạch lạc hơn và đặc biệt khả  năng nhận thức phát triển hơn. Mặt khác  trò chơi học tấp sẽ giúp cho trẻ củng cố được, khắc sâu được các biểu tượng các trí   thức khái niệm một cách có hệ  thống hơn. Các trò chơi học tập sẽ  giúp cho trẻ  biết   nhìn nhận, phân tích so sánh, khái quát các tri thức để được lĩnh hội trước đó.Trò chơi  học tập còn giúp cho trẻ rèn luyện và phát triển trí nhớ, các biểu tượng tri thức được   long ghép vào nội dung chơi sẽ  giúp trẻ  hứng thú trong quá trình chơi cũng như  quá  trình nhận thức vì thế trẻ nhớ được lâu hơn. Là giáo viên chủ  nhiệm, khối lớp nhà trẻ  (24 – 36 tháng tuổi) đồng thời cũng là tổ  trưởng chuyên môn khối nhà trẻ, tôi luôn nhận thức được tầm quan trọng của việc  tổ  chức trò chơi vận động với trẻ mầm non. Vì vậy, ngay từ đầu năm học 2013­2014, tôi  đi sâu nghiên cứu tổ  chức trò chơi vận động nhằm phát triển thể chất cho trẻ  và đạt  được kết quả khả quan. Qua đó, góp phần phát triển toàn diện về  các mặt: thể  chất,  nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mĩ cho trẻ           Đó là lý do tôi chọn đề  tài: “Thực trạng tổ  chưc trò chơi vận động cho trẻ   nhà trẻ ở trường mầm non hiện nay và các giả pháp” 2. Lý luận chung về vấn đề nghiên cứu. 2.1 Một số vấn đề về tổ chức trò chơi vận động cho trẻ ở trường mầm non 2.1.1 Khái niệm.\
  5. Trò chơi  vận động là những trò chơi trong đó lượng vận động chiếm  ưu thế. Đa số  các trò chơi vận động dành cho các lứa tuổi mầm non là những trò chơi   mang tính chủ  đề, phù hợp với các đặc điểm tâm sinh lí và khả  năng tư  duy, tưởng tượng của trẻ.   Khi tham gia trò chơi, trẻ  phải tập trung chú ý, ghi nhớ những lời giải thích của giáo   viên để  thực hiện đúng vận dộng cần thiết. Cho nên, đặc điểm nổi bật của trò chơi   vận động là sự đòi hỏi phối hợp hoạt động của quá trình nhận thức và vận động. Khi   chơi trò chơi vận động hệ thần kinh được củng cố, làm thỏa mãn cảm xúc, đem lại sự  vui sướng, tăng quá trình tuần hoàn hô hấp cơ thể trẻ, làm thay đổi trạng thái cơ thể,   các hệ cơ bắp của cơ thể trở nên rắn chắc hơn, các khớp xương và dây chằng trở nên  linh hoạt, có tác dụng củng cố, tăng cường sức khỏe cho trẻ, tạo điều kiện cho việc   rèn luyện thể lực, phát triển tố  chất vận động trong điều kiện thay đổi. Sử  dụng trò   chơi vận động để  trẻ  tiến hành bài tập. Được tham gia trò chơi vận động trẻ  vận  động tích cực, tự nhiên, thoải mái, tự  tin, linh hoạt hơn có tác dụng rèn luyện kĩ năng,  kĩ xảo phát triển tố chất vận động khi thực hiện các thao tác vận động trong trò chơi. 2.1.2 Đặc điểm của trò chơi vận động. Trò chơi vận động củng có ba phần. Nội dung chơi, hành động chơi và luật chơi. ­ Nội dung chơi. Đó chính là nhiệm vụ vận động mà trẻ thực hiện Ví dụ: trò chơi “ mèo đuổi chuột” trong trò chơi này trẻ thực hiện nhiệm vụ là  chạy, và việc chạy này giúp rèn luyện sức khỏe cho trẻ ­ Hành động chơi. Đó là những thao tác mà trẻ vận động trong quá trình chơi. Ví dụ: củng trò chơi “ mèo đuổi chuột” trẻ thực hiện những thao tác vận động  như đuổi bắt, chui, luồn lách... ­ Luật chơi. Là những quy ước, quy định mà trẻ thực hiện trong lúc chơi. ­ Ví dụ. Trò chơi “ mèo đuổi chuột” luật chơi là: mèo không được đón đầu chuột  để bắt, nếu mèo bắt được chuột thì chuột phải làm mèo, nếu mèo không bắt  được chuột thì vẫn làm chuột. 2.1.3 Cách tổ chức trò chơi vận động ­ Bước 1: Hướng dẫn trò chơi + Cố giới thiệu tên trò chơi , phổ biến nội dung chơi , giới thiệu các hành động chơi  và phổ biến luật chơi cho trẻ ­ trò chơi cũ thì cố gợi ý trẻ nhắc lại nội dung – HĐ­  luật ­ Bước 2 : Theo dõi quá trình chơi + Nếu là trò chơi mới sau khi hương dẫn trò chơi cô tổ chức cho trẻ chơi theo từng  nhóm, cô theo dõi trẻ chơi . + Đối với những trò chơi có hành động chơi , luật chơi phức tạp thì cô có thể chơi  cùng trẻ 1­ 2 lần ( nhất là để gây hứng thú cho trẻ ) 
  6. + Nếu trò chơi cũ thì sau khi nhớ lại nội dung ,luật chơi cô phân nhóm để trẻ tiến  hành chơi .Cô theo dõi trẻ chơi đúng luật hay không , theo dõi thái độ của trẻ đối với  nhau + Cô kịp thời khen ngợi động viên trẻ. + Nếu trẻ chơi sai luật thì chơi xong 1 lượt cô gợi ý cho các bạn nhận xét , trên cơ sở  đó cô giúp trẻ nhớ lại luật chơi để thực hiện cho đúng. ­ Bước 3 : Nhận xét sau khi chơi  + Cô giáo căn cứ vào luật chơi để đánh giá khả năng chơi cho trẻ.  + Thái độ chấp hành luật chơi , thái độ với bạn trong khi chơi , thái độ của trẻ đối với  đồ chơi . + Tùy thuộc vào lứa tuổi cô lựa chọn hình thức nhận xét cho phù hợp .  Nhà trẻ: Cô động viên khen ngợi trẻ dưới dạng xác nhận để trẻ nhớ và khẳng định  luật chơi , thích tham gia chơi .  2.1.4 Dựa vào các phương tiện Với nội dung phong phú, trò chơi vận động sử dụng rất nhiều phương tiện  khác nhau, người ta có thể chia thành các dạng hoạt động chính trong khi sử  sụng các phương tiện chơi như sau: ­ Chơi theo dạng mô phỏng( bắt chước) gồm có + Diễn xuất cho giống người hay con vật + Làm theo quy ước giả định, có đối kháng Các trò chơi này có thể kèm theo bài hát, câu đồng dao, bài thơ, hò vè, hoặc âm  thanh dẫn nhịp) ­ Các trò chơi tiếp sức + Nhiều người cùng luân phiên thực hiện một công việc có thêt là chạy, nhảy,  nói, hát, vẽ ...vv ­ Vượt qua chướng ngại vật ( có độ cao độ khó khác nhau) ­ Chơi với các đạo cụ cầm tay( khăn, bóng, gậy ...) ­ Có hoạt động đối kháng( một chọi một. Một đối kháng tập thể, tập thể đối  kháng tập thể) ­ Hoạt động phán đoán, tìm kiếm để đạt được một kết quả nào đó từ những  thông tin được thu nhận(các suy luận mang tính lôgic, âm thanh, hình ảnh, cảm  giác thông qua các giác quan.) ­ Các trò chơi có sự hỗ trợ của phương tiện kỹ thuật hiện đại. 2.1.5 Dựa vào  mối tương quan của người chơi. ­ Trò chơi cá nhân ( không phân chia đồng đội)
  7. + Là những trò chơi hoạt động tập thể, có những đặc điểm chính, là khi tham  gia vào cuộc chơi thì mỗi người đều độc lập, chịu trách nhiệm với riêng mình  về vai trò và hành động, không bị ràng buộc đối với các thành viên khác. Trong  nhóm trò chơi này có thể mọi người tham gia cùng lúc hoặc tham gia lần lượt,  trong quá trình chơi có thể có sự “ đối chọi” ( đấu trí, đấu lực...) hoặc khong có  sự “đối chọi” trong trò chơi. ­ Trò chơi cá  nhân chuyển thành đồng đội. + Là các trò chơi lúc đầu mọi người hoạt động riêng lẽ, xuất hiện tình huống “  bất ngờ” bắt phải kết hợp thành nhóm( tổ) để phối hợp hành động, sự phối  hợp đó không ổn định trong suốt một trò chơi. ­ Trò chơi đồng đội. + Các trò chơi thuộc nhóm này mang tính chất thi đua của cả đơn vị tập  thể( nhóm, tổ, đội) có đặc điểm là mỗi hành động, dẫn tới kết quả thành công  hay thất bại đều ảnh hưởng đến cá nhân người làm và ảnh hưởng đến cacr tập  thể đó. Mỗi đơn vị phải biết tổ chức, hợp đồng trách nhiệm để mang lại phần  thắng. 2.2 Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhà trẻ    * Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo: ­  Tuổi nhà trẻ, mối quan hệ  của trẻ  với đồ  vật có chức năng nhất định và phương   thức sử dụng tương  ứng, với sự hướng dẫn của người lớn trẻ hướng hoạt động của  mình vào việc nắm cách sử dụng đồ vật và ngày càng giống với cách sử dụng đồ vật   của người lớn­gọi là hoạt động với đồ vật(hoạt động có đối tượng). ­  Hoạt động chủ đạo của tuổi này là hoạt động có đối tượng vì nhờ nó các chức năng   của đồ vật lần đầu tiên được bộ lộ và đồ vật trở thành đối tượng thu hút sự chú ý của  trẻ, giúp trẻ khám phá tìm tòi,nhờ đó tâm lý trẻ phát triển mạnh đặc biệt phát triển trí  tuệ. ­  Điều quan trọng khi lĩnh hội những hành động sử  dụng đồ  vật trẻ  lĩnh hội những   qui tắc hành vi trong xã hội.Đồ chơi đối với trẻ rất cần thiết giúp trẻ khám phá chức   năng và phương thức sử dụng,tuy nhiên người lớn cần mạnh dạn cho trẻ tiếp xúc vật  thật và đồ chơi có nhiều thao tác nhằm kích thích trẻ hành động. * Các loại hành động với đồ vật:
  8. Sự tiếp xúc thế giới xung quanh càng rộng thì phương thức hành động với đồ vật càng   phong phú,trong đó những hành động thiết lập các mối tương quan và những hành  động công cụ là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của trẻ. ­  Hành động thiết lập các mối tương quan. + Đó là những hành động đưa hai hoặc nhiều đối tượng vào những mối tương quan  nhất định trong không gian. + Ở tuổi hài nhi, trẻ đã bắt đầu thực hiện hành động với đồ vật như Tháo, lắp nhưng trẻ  chưa biết đến các thuộc tính của đồ  vật, chưa biết chọn đồ  vật  theo hình dáng, kích thước... + Đến tuổi nhà trẻ, trẻ đã biết tính đến các thuộc tính của đối tượng trong mối tương   quan của đồ vật. Đây là hành động khám phá phức tạp vì phải điều chỉnh bằng chính   kết quả thu được do đó cần phải được sự  giúp đỡ  của người lớn như  làm mẫu, giúp  trẻ thực hiện hành động... Sự lĩnh hội những hành động thiết lập mối tương quan của   trẻ phụ thuộc vào phương pháp dạy dỗ của người lớn nhờ đó các chức năng tâm lý: tri  giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy trực quan hành động phát triển. ­  Hành động công cụ: + Hành động công cụ là hành động trong đó một đồ vật nào đó được sử dụng như một  công cụ để tác động lên các đồ vật khác. + Trẻ  mới chỉ  học cách sử  dụng một số công cụ  sơ  đẳng nhất định như  thìa,cốc,bút  nhưng vẫn có ý nghĩa lớn đối với sự  phát triển tâm lý vì những công cụ  đó đã có   những đặc điểm chung của mọi công cụ: cách thức dùng chúng do xã hội qui định và  cấu tạo của công cụ do phương thức sử dụng qui định. +Công cụ là khâu trung gian giữa bàn tay với đồ vật mà trẻ cần tác động tới và sự tác   động đó diễn ra tuỳ thuộc vào cấu tạo của công cụ. Ví dụ: dùng thìa xúc cơm khác xa dùng tay bốc cơm cho vào miệng. Vì vậy việc sử dụng công cụ đòi hỏi thay đổi hoàn toàn động tác của bàn tay,làm cho  bàn tay phục tùng cấu tạo của công cụ, nếu trẻ biết chú ý đến mối quan hệ giữa công  cụ và đối tượng mà hành động hướng tới.Vì vậy cần sự  hướng dẫn có hệ  thống của  người lớn.
  9. +Hành   động   công   cụ   mà   trẻ   nắm   được   chưa   hoàn   toàn   thành   thạo,còn   phải   tiếp   tục.Song quan trọng trẻ nắm được chính nguyên tắc của việc sử dụng công cụ(nguyên   tắc hoạt động cơ bản của con người). * Đi theo tư thế thẳng đứng ­ Hình thái vận động đặc trưng của con người: + Cuối tuổi hài nhi, một số trẻ đã bắt đầu đi chập chững. Đi là hình thái vận động đặc  trưng của con người,không có sẵn trong chương trình di truyền. Việc điều khiển các  cử  động đi vẫn chưa được hình thành, vì thế  đứa trẻ  luôn luôn bị  mất thăng bằng.   Người lớn cần dìu dắt trẻ đi từng bước một và kịp thời cổ vũ khi trẻ đi được vài bước   từ  đó trẻ  cảm thấy thích đi, không chán nản mặc dù bị  ngã lên ngã xuống. Dần dần   động tác đi lấn át động tác bò và trở thành phương thức cơ bản để di chuyển. + Động tác đi ngày càng tiến bộ, trẻ đã làm chủ được thân thể của mình, bước đi của  trẻ mạnh dạn hơn, vận động được thực hiện và không gây căng thẳng nữa.Trẻ không   những đi mà còn chạy vì chạy dễ lấy thăng bằng hơn đi, do đó người lớn cần tập cho   trẻ những động tác khéo léo, linh hoạt. Đây là bước tiến cơ bản nhằm làm cho trẻ độc  lập về mặt sinh học và là một bước quan trọng trong việc xã hội hoá đứa trẻ. Trẻ được giao tiếp tự do và độc lập với thế giới bên ngoài, phát triển những khả năng   định hướng trong không gian. Trẻ có thể khám phá thế  giới đồ  vật phong phú hơn và   hành động với đồ vật nhiều hơn, tiếp thu nhiều kinh nghiệm, nắm những kỹ năng sử  dụng đồ  vật; trẻ  giao tiếp với nhiều người xung quanh giúp phát triển nhu cầu giao  tiếp ngôn ngữ. Trẻ biết đi là một bước trưởng thành về sinh học và mặt xã hội với tư cách là một con  người thực sự, có tính độc lập trong việc chiếm lĩnh thế giới đồ  vật và giao tiếp với  những người xung quanh. 3 Thực trạng tổ chức trò chơi vận động. *  Thuận lợi:          – Được sự  quan tâm của Phòng giáo dục, Uỷ  ban nhân dân xã và Ban giám  hiệu nhà trường tạo điều kiện về cơ sở vật chất, về chuyên môn      – Phòng học, sân gạch rộng rãi, sạch sẽ, đảm bảo an toàn cho trẻ. Khu vườn   cỏ có diện tích phù hợp với nhiều loại đồ chơi ngoài trời.         – Giáo viên trong lớp đoàn kết biết cùng nhau đưa ra các biện pháp tổ chức  các trò chơi vận động  nhằm phát triển tốt về thể lực cho trẻ.
  10. – Một số phụ huynh nhiệt tình chia sẻ với giáo viên ở lớp về tình hình của trẻ ở  nhà và luôn quan tâm đến trẻ thường xuyên dành thời gian trao đổi với cô giáo để  cùng chăm sóc và giáo dục trẻ.  Mặc dù có những thuận lợi cơ bản tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài này của  lớp tôi vẫn có những khó khăn sau:         * Khó khăn:          – Việc tổ chức các trò chơi vận động cho trẻ đòi hỏi phải có sự linh hoạt và  tính sáng tạo cao.          – Thời gian tổ  chức chơi còn hạn hẹp vì trò chơi không thể  diễn ra trong   suốt cả một hoạt động của trẻ mà còn chủ yếu được lồng ghép tích hợp vào các   hoạt động mà thôi.          – Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn chưa cao. Trẻ dễ dàng nhập cuộc   chơi nhưng cũng nhanh tự rút ra khỏi trò chơi nếu  không còn hứng thú.          – Trong lớp còn một số trẻ rụt rè nhút nhát và không thích tham gia vào các  hoạt động tập thể. Một số  trẻ  được bố  mẹ  nuông chiều từ  nhỏ,    ít có cơ  hội  được rèn luyện nên lười vận động.          – Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các trò chơi theo từng chủ đề còn ít, chưa phong   phú.           Xuất phát từ  đặc điểm chung của trường của lớp và tầm quan trọng của   việc tổ chức các trò chơi vận động cho trẻ nhằm phát triển thể lực cho trẻ và đáp   ứng được nhiệm vụ  trọng tâm của năm học đã thôi thúc tôi đưa ra một số  biện  pháp tổ chức các trò chơi vận động nhằm phát triển tốt về thể lực cho trẻ. 3.1 Mục đích nghiên cứu          Tạo ra các trò chơi nhằm phát triển vận động cho trẻ thực sự lôi cuốn, hấp dẫn   và gây ấn tượng giúp trẻ tiếp nhận kiến thức, các kyc năng vận động một cách nhanh  nhất. ­ Giúp trẻ hứng thú và tích cực tham gia vào các hoạt động và phát triển vận động. ­ Cung cấp cho giáo viên nguồn tư  liệu để  lòng ghép tích hợp vào các bài dạy, giúp   giáo viên dễ dàng chủ động khi tổ chức các hoạt động phát triển thể chất cho trẻ. ­ Bổ sung vào nguồn tư liệu các bài tập các trò chơi phát triển thể chất cho trẻ đã có   sẵn. 3.2 Tìm hiểu nội dung và phương pháp của trò chơi vận động  * Khái niệm.  Lài trò chơi mà khi trẻ  tham gia chơi tức là trẻ  giải quyết nhiệm vụ  vận động như  một nhiêm vụ thực hành dưới hình thức vui vẻ. Củng như trò chơi học tập, trò chơi vận động đều có 3 yếu tố sau;
  11. ­ Nội dung chơi( nhiệm vụ vận động) Thể  hiện dươi một hình tượng nào đó như  “ mèo­ chuột” “ rồng­ rắn” để  gây   hứng thú cho trẻ. ­ Hành động chơi. Đó là những tác động trong khi chơi. ­ Luật chơi. Đó là các quy tắc, quy định mà trẻ tuân theo khi thực hiện hành động chơi + Trò chơi vận động thường có lời ca tiếng hát( có vần, có nhịp) kèm theo thể  hiện động tác vận động vận động mà tăng thêm tính sinh động, hấp dẫn trong  quá trình chơi. + Trò chơi vận động có loại có chủ đề chơi, có loại không có chủ đề. + Trò chơi vận động có chủ đề là các trò chơi mà nội dung vận động chứa đựng   trong nội dung trò chơi được núp dưới hình tượng. Ví dụ: mèo, chim sẽ. + Trò chơi vận động không có chủ đề là trò chơi mà nhiệm vụ vận động được  thực hiện rõ ràng, không ẩn nấu giữa các vai như “ chơi với bóng, chơi với dây,  chạy tiếp cờ” * Ý nghĩa. Nhằm phát triển và hoàn thiện các vận động. Phát triển rèn luyện các tố chất thể lực cho trẻ. Còn tác dụng nâng cao bền bỉ  hoạt bát, nhanh nhẹn dẻo dai của cơ  thể, giúp   chống lại sự mệt mỏi của cơ thể, căng thẳng trả lại trạng thái cân bằng của hệ  thần kinh, tạo ra cho trẻ niềm vui, tạo điều kiện để nạp thêm năng lượng 3.2.1 Hệ thống các trò chơi. Hái táo Chuấn bị : Một số quả bằng đồ chơi trẻ đã biết. Tiến hành : Cô làm cây táo. Mỗi tay cô cầm một quả táo. Tay làm cành dung dung theo  gió. Khi cô nói : “Táo chín rồi”. Trẻ kiễng chân, với tay “hái táo”. Trẻ nào hái được táo  rồi, phải tả cho các trẻ khác về một số đặc điểm của quả hái được (màu sắc, ăn có  phải bóc vỏ không, quả có nhiều hạt hay ít, ngọt hay chua...). Cô có thể thay bằng các  quả khác. Con rùa Cách chơi Cô và trẻ đi theo tư thế ngồi xổm, vừa đi vừa đọc theo nhịp đọc của cô : Rì rà, rì rà Đội nhà đi chơi Đến khi tối trời Úp nhà nằm ngủ...
  12. Bóng tròn to Cách 1 : Cô và trẻ nắm tay, đứng sát vào nhau thành vòng tròn (mô phỏng quả  bóng). Khi nghe cô nói : “Thổi bóng lên, thổi bóng lên thật to” ­ trẻ càng lùi về  phía sau, vẫn giữ chặt tay nhau cho đến khi cô nói : “Bóng vỡ !”. Nghe hiệu lệnh,  trẻ bỏ tay ra và cùng ngồi xổm xuống, hô to “Bốp”. Cách 2 : Cô và trẻ nắm tay, đứng sát vào nhau thành vòng tròn (mô phỏng  quả bóng). Khi có hiệu lệnh “Bóng võ !”, trẻ nắm tay nhau dịch vào giữa vòng  tròn và cùng phát âm “xì, xì, xì” ­ mô phòng bóng bị xi hơi. Sau đó tiếp tục “Thổi  bóng lên” bằng cách cầm tay nhau và đứng rộng ra để vòng tròn to lên, vừa di  chuyển vừa hát : Bóng tròn to, tròn tròn to Bóng xì hơi, xì xì xì hơi Nào bạn ơi, lại đây chơi, Xem bóng ai to tròn nào Xem bóng ai to tròn nào ! Lưu ý : Ở lần chơi thứ nhất, cho khoảng 6 ­ 8 trẻ tham gia chơi, sau đó số trẻ  tham gia chơi có thể tăng lên 15 ­ 16 trẻ. Hiệu lệnh của cô cần rõ ràng,  không quá nha BỒ CÂU TRẮNG và BỒ CÂU ĐEN Thể loại: Trò chơi vận động , ngoài sân, có nhiều người tham dự. Rèn luyện: Phân biệt sự khác nhau của lời nói mà thực hiện hành động. Giáo dục: Chú ý vào lời nói mà thực hiện một cách chính xác và nhanh nhẹn.  Luật chơi: Chia thành 2 phe, 01 phe làm bồ câu trắng 01 phe làm bồ câu đen. 2 phe  đứng đối diện nhau, cách nhau 2m. Sau lưng mỗi phe có 1 lằn mức cách đó 2m. Qt  đứng giữa 2 phe. Khi Qt hô “bồ câu trắng” thì phe bồ câu trắng rượt đánh chạm tay  vào người của phe bồ câu đen. Khi Qt hô “Bồ câu đen” thì ngược lại. * Qt hô bồ câu vàng, xám, đen... ai nhốm chân thì bị loại.  * Không được vượt qúa lằn ranh phía sau.  Mục đích: Làm sôi động, phấn khởi và có sự tranh đua.  Vật dụng: Phấn để vẽ đường. THỎ CÓC THI ĐUA Thể loại: Trò chơi vận động , ngoài sân, có nhiều người tham dự. Rèn luyện: Nhận định chính xác môi trường chung quanh mà thực hiện một cách  nhanh nhẹn.  Giáo dục: Chú ý vào tiếng còi mà thực hiện một cách nhanh nhẹn. Luật chơi: Số người chẵn, 1 người làm thỏ, 1 người làm cóc.  * Thỏ: đứng chống nạnh. 
  13. * Cóc: ngồi chống nạnh. ­ Mức khởi hành cách mức tới 4m. ­ Khi Qt thổi 1 tiếng còi  thì Thỏ bước. * 1 bước dài tối đa có thể, còn cóc thì nhảy 2 cái dài tối đa có thể.  * Ai đến mức trước thì thắng. Mục đích: Làm sôi động, phấn khởi và có sự tranh đua.  Vật dụng: Phấn viết TÌM GIÀY Thể loại: Trò chơi vận động mạnh, ngoài sân, có nhiều người (04­08 đội) tham dự. Rèn luyện: Nhận định chính xác môi trường chung quanh mà thực hiện một cách  nhanh nhẹn.  Giáo dục: Chú ý vào tiếng còi mà tương trợ và sẵn sàng thừa kế lẫn nhau để thực  hiện một cách nhanh nhẹn. Luật chơi: 1. Tập trung thành vòng tròn. Mọi người gom giày lại để giữa vòng tròn,  trộn giày lộn xộn. Bắt đầu một bài hát, đang khi hát vỗ tay, mọi người di chuyển theo  chiều kim đồng hồ. khi Qt thổi 1 tiếng còi, mỗi người chạy vào xỏ chân vào giày rồi  chạy về chỗ cũ, không được dùng tay. Người sau cùng sẽ bị phạt. 2. Hàng đội. Tập  họp hàng dọc. * Gom giày của cả đội, để lộn xộn, cách xa người thứ I của đội 3m. Số người mỗi  đội bằng nhau. * Có tiếng còi, người thứ I của mỗi đội chạy đến xỏ chân vàogiày mình, rồi chạy về  đánh vào người thứ II, người thứ II chạy lên... cứ thế tiếp tục cho hết cả đội.  * Đội nào xong trước thì thắng.  Mục đích: Làm sôi động, phấn khởi và có sự tranh đua.  Vật dụng: giày SĂN CỌP Thể loại: Trò chơi vận động , ngoài sân, có nhiều người tham dự. Rèn luyện: Nhận định chính xác môi trường chung quanh mà thực hiện một cách  nhanh nhẹn. Giáo dục: Chú ý để thực hiện một cách nhanh nhẹn để tranh đua với đối phương. Luật chơi: 1 người làm thờ săn, 1 số người làm cọp. Thợ săn rượt đuổi cọp, đánh vào  người cọp bất cứ chỗ nào: cọp chết, ngồi xuống tại chỗ. * Nếu cọp chạy không kịp, để khỏi bị đánh chết, thì cọp đưa tay phải vòng xuống  chân phải (co chân phải lên), rồi ngược tay lên, khum đầu xuống, bóp mũi. Làm như  thế, thợ săn không được quyền đánh cọp.  * Trong thời gian 3 phút, cọp nào chết sẽ bị phạt, cọp nào còn sống sẽ được thưởng.  * Đội nào xong trước thì thắng.  Mục đích:Làm sôi động, phấn khởi và có sự tranh đua. ĐUA XÍCH LÔ Thể loại: Trò chơi vận động , ngoài sân, khoảng 04­08 đội tham dự.
  14. Rèn luyện: Nhận định chính xác môi trường chung quanh mà thực hiện một cách  nhanh nhẹn. Giáo dục: Tương trợ và sẳn sàng giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau gánh vác trách nhiệm. Luật chơi: . 3 người làm thành 1 xích lô. . 2 người đứng sát nhau, choàng tay trên vai,  chân phải của người này cột với chân trái của người kia. 2 chân bị cột này co lên. .  Người thứ ba, lái xích lô, đứng sau 2 người kia, 2 tây cầm 2 chân bị cột của họ làm  cần lái. . Nhiều chiếc xích lô sẵn sàng ở mức khởi hành, cách mức tới 4m, đợi còi hiệu  xuất phát. . Chiếc nào đến đích trước: thắng. . Chiếc nào lật giữa đường: thua . Những  chiếc đụng nhau: thua.  Mục đích: Làm sôi động, phấn khởi và có sự tranh đua.  Vật dụng: Dây cột cho mỗi đội. nh, cô khuyến khích trẻ đọc bài thơ.  3.2..2 Tìm hiểu nhận thức của giáo viên Mầm non về trò chơi vận động. Đối với trẻ thì ngoài gia đình thì cô giáo dạy mầm non có thể xem như một “người mẹ  thứ hai” để giúp trẻ có thêm tự tin , học hỏi được nhiều điều và giáo dục những kiến   thức đầu tiên cho trẻ  trong môi trường trường lớp, chính vì vậy mà người làm giáo   viên mần non có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục ra một thế hệ    “mầm  non” tương lai cho đất nước  Điều trước tiên không thể thiếu ở giáo viên mầm non là  tình yêu thương đối với trẻ,  luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình, thực sự là người mẹ hiền thứ hai và   kiên trì trong quá trình dạy trẻ, có lòng nhiệt tình và có lòng ham muốn môn học.Nắm  vững phương pháp giáo dục dành cho trẻ, phải tìm các giải pháp và sử dụng các biện   pháp dạy trẻ  sao cho phù hợp, sáng tạo và thường xuyên thay đổi các hình thức tổ  chức cho trẻ để tránh sự nhàm chán.  ­ Giáo viên phải là người có kiến thức chuyên môn vững vàng. Có sáng tạo trong lời  dẫn dắt bài dạy để  gây hứng thú cho trẻ, thường xuyên nghiên cứu sưu tầm các bài  thơ, câu truyện, trò chơi phù hợp để lồng ghép tích hợp vào bài dạy.  ­ Giờ hoạt động phải biết sử dụng đồ dùng phù hợp, gây hứng thú cho trẻ.  Biết chọn bài kết hợp phù hợp theo nội dung bài dạy và sắp xếp bài dạy hợp lý, biết   chọn nội dung tích hợp, trình bày, hấp dẫn và phù hợp trẻ.    ­ Nắm vững đặc điểm nhận thức của từng cá nhân trẻ  để  có phương pháp dạy phù   hợp.  ­ Phát triển khả năng nhận thức về toán cho trẻ và đảm bảo chất lượng giáo dục đồng   bộ. Kết hợp trong giờ dạy khéo léo, sinh động hấp dẫn gây hứng thú cho trẻ.   ­ Trong quá trình dạy, giáo viên phải quan tâm đến kiến thức cá nhân để có biện pháp  bồi dưỡng phù hợp.
  15. ­ Phải tạo điều kiện dạy trẻ   ở  mọi lúc, mọi nơi. Các bài tập chuẩn bị  cho giờ  hoạt   động chung cũng như dạy các kỹ năng về toán cho trẻ. ­ Tạo môi trường, tâm thế thoải mái để trẻ hoạt động môn làm quen với toán ­ Giáo viên phải có sự tham mưu với nhà trường và phối hợp với các bậc   phụ huynh  để có đủ đồ dùng phục vụ cho trẻ hoạt động môn làm quen với toán 3.2.2 Kết quả nghiên cứu. * Về phía trẻ ­ Trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn, năng động, tự tin, khéo léo. ­ Trẻ có sức khỏe và sự dẻo dai khi tham gia các hoạt động. ­ Trẻ tích cực hứng thúi tham gia vào hoạt động. ­ Trẻ có kỹ năng vận động. Các kỹ năng vận động của trẻ được nâng cao và tiến  bộ rõ rệt * Về phía giáo viên. ­ Giáo viên có thêm nguồn tư  liệu, thêm các bài tập các trò chơi trong các hoạt  động ­ Giáo viên chủ động lựa chọn những bài tập phù hợp với độ tuổi mình phụ trách  phù hợp với chủ  đề, chủ  điểm để  dạy trẻ   nâng cao chất lượng giờ  dạy của   mình. * Về phía phụ huynh. ­ Phụ huynh thấy rõ con mình khỏe mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin thích đi   học, yêu trường, yêu lớp, yêu cô, yêu bạn bè. Đặc biệt thấy con mình có nhiều   kỹ  năng tôt rất cần thiết cho cuộc sông nên thấy rất tin tưởng và yên tâm khi  cho con đi học. Chính vì vậy các bậc cha mẹ rất nhiệt tình  ủng hộ  lớp những   nguyên vật liệu, đồ  dùng chơi để  phục vụ  cho việc học tập của các con: hộp,   giấy, bút, bìa màu, dạ...vv 4. Các biện pháp, giải pháp tổ chức trò chơi vận động cho trẻ nhà trẻ ở trường   Mầm non hiện nay.  Biện pháp 1: Sưu tầm lựa chọn các trò chơi vận động phù hợp với trẻ theo từng   chủ đề.  – Sắp xếp các trò chơi theo đúng chủ đề là rất cần thiết. Tôi đã nghiên cứu phiên chế  chương trình cả  năm học, đặc điểm tình hình tâm sinh lý trẻ  cùng sự  phát triển vận   động của trẻ.  – Đã lập kế hoạch và lựa chọn, sắp xếp các trò chơi vận động phù hợp theo từng chủ  đề, từng môn học. Tổ  chức các trò chơi vận động nhằm phát huy tính tích cực chủ  động của trẻ   – Tích cực đưa trò chơi dân gian, kết hợp thay đổi một số lời hát của trò chơi cho phù   hợp từng chủ đề, vào các hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
  16.    – Các trò chơi vận động và trò chơi dân gian được sưu tầm và sáng tạo sắp xếp phù  hợp theo chủ đề.            * Chủ đề 1: Trường mầm non.           – Trò chơi vận động: “ Tung cao hơn nữa”; “Ai nhanh hơn”; “Tìm bạn”; “Ai   giỏi nhất”; “ Về đúng nhà”;“ Đổi đồ chơi cho bạn”           * Chủ đề 2:  Bé và gia đình.          – Trò chơi vận động: “Bắt chước tạo dáng”; “Chuyền bóng”; “Ai nhanh nhất”;   “Bé với cái bóng của mình”.          * Chủ đề 3: Nghề nghiệp.            – Trò chơi vận động: “Gánh gánh gồng gồng”; “Đuổi bắt” ; “Ai nhanh nhất”;   “Hái hoa tặng cô”.                 * Chủ đề 4: Thế giới động vật.          – Trò chơi vận động: “Gà trong vườn rau”; “Cáo và thỏ”; “Nhũng con vật ngộ   nghĩnh đáng yêu”;“Ai nhanh nhất”; “ Những chú  ếch tài giỏi”;“Mèo và chim sẻ”;   “Cho thỏ ăn”; “Tìm chuồng”.           * Chủ đề 5: Tết và lễ hội mùa xuân           – Trò chơi vận động: “Thi xem ai nhanh”;“Bé đi chợ tết”;“Bày mâm mũ quả”;   “ Chuyền bóng qua đầu ”;           * Chủ đề 6: Thế giới thực vật.            – Trò chơi vận động:“Trời nắng trời mưa”; “Về  đúng vườn ”;“Gieo hạt”; “   Hái quả”;“ Chuyển quả ”.            * Chủ đề 7: Phương tiện và quy định về giao thông.            – Trò   chơi   vận   động: “Bánh   xe   quay”,   “Ai   nhanh   nhất”;“Chèo   thuyền   ”;   “Thuyền vào bến”; “Ô tô vào bến ”;“Đèn xanh, đèn đỏ”; “Máy bay”; “Ô tô và chim   sẻ”; Về đúng bến”; “Tín hiệu”           * Chủ đề 8:  Nước và các hiện tượng tự nhiên.           – Trò chơi vận động: “Trời nắng trời mưa”; “Nắng mưa”; “Nhảy qua suối”; “Tung và bắt bóng”; “Ném bóng vào chậu”.           * Chủ đề 9: Quê hương­ Bác Hồ.            – Trò chơi vận động: “Ai nhanh hơn”;“Thi xem tổ nào nhanh”; “Ai nhanh hơn”            * Kết quả: Với cách sắp xếp các trò chơi phù hợp theo từng chủ đề. Trẻ lớp tôi  hứng thú, tích cực hơn rất nhiều mỗi khi được vận động, trẻ được vận động một cách  thoải mái không gò bó. Biện pháp 2: Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi, địa điểm trước khi tổ chức cho trẻ tham   gia vào các trò chơi vận động.            Trò chơi vận động thu hút được nhiều trẻ tham gia chơi.Vậy muốn tổ chức tốt   các trò chơi vận động có kết quả cần làm tốt các bước sau:
  17.           *  Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi.      Đồ  dùng đồ  chơi của các trò chơi vận động cũng vô cùng đa dạng và phong phú,  mang tính đặc trưng và được thiết kế  dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò  chơi. Mỗi trò chơi vận động có một hoặc nhiều loại đồ dùng, đồ chơi tương ứng mà  thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành được. – Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ chơi  trò chơi: “ Mèo và chim sẻ” dụng cụ cần có là mũ  mèo và mũ chim sẻ… Hay đơn giản như trò chơi “ Bịt mắt bắt dê” cũng không thể tổ  chức được nếu không có dải vải hoặc dải khăn bịt mắt. Chính vì vậy, trước khi tổ  chức cho trẻ chơi một trò chơi nào đó giáo viên cần tìm hiểu rõ về cách chơi để từ đó  chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết cho trò chơi. Ngoài những đồ  dùng, đồ  chơi có sẵn, tôi đã làm thêm được một số  đồ  dùng tự  tạo   khác để phục vụ cho các trò chơi của trẻ và phù hợp với nội dung chơi: + Mô hình đầu xe ô tô, xe máy, xe đạp những mô hình phương tiện giao thông  ứng  dụng vào trò chơi “ Tín hiệu” ở chủ điểm giao thông. + Mũ các con vật, tranh ảnh, các con rối là các con vật phục vụ cho trò chơi “ Tìm về  đúng chuồng”; “ Bắt bướm”. Và các đồ dùng đó được làm từ các nguyên vật liệu phế  thải đã qua sử dụng như: Vỏ hộp sữa, bìa cứng, thùng cát tông, quả  bóng nhựa bị  xịt   hơi, xốp,  ống nước nhựa, giấy màu, giấy báo, lốp xe máy, lốp ô tô,… đã được thiết   kế tạo ra những đồ dùng phù hợp với từng trò chơi tương ứng với từng chủ đề.   Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi vận động nào đó, giáo viên  cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay không có đồ dùng   đồ  chơi phục vụ  cho trò chơi để  từ  đó có thể  chuẩn bị  đầy đủ  các yếu tố  cần thiết   cho trò chơi. * Chuẩn bị địa điểm để tổ chức cho trẻ chơi.          Địa điểm tổ chức các trò chơi vận động cho trẻ là yếu tố rất quan trọng và cần   thiết. Nếu lựa chọn được địa điểm chơi phù hợp giúp cho trẻ  hứng thú khi tham gia   vào trò chơi sẽ đem lại hiệu quả cao từ đó giúp cho trẻ   phát triển tốt về thể lực. Mỗi  trò chơi vận động đều có một cách chơi khác nhau. Chính vì vậy trước khi tổ chức cho  trẻ  chơi các trò chơi vận động giáo viên cần nắm rõ cách chơi, luật chơi, đặc điểm   của từng trò chơi để từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp. Có trò chơi mang tính chất   tập thể thường có số lượng người tham gia chơi đông đòi hỏi địa điểm chơi phải rộng   như trò chơi: “Đuổi bắt”; “Kéo co”;  “Rồng rắn lên mây”; “Mèo đuổi chuột”; “Thả đỉa  ba ba”;  “Mèo và chim sẻ”;
  18. “Ô tô và chim sẻ” tôi tổ  chức cho trẻ  chơi ngoài sân trường bằng phẳng có lát gạch  đảm bảo an toàn và đủ diện tích cho trẻ. Các trò chơi vận động có thể tổ chức cho trẻ  chơi  ở bãi cỏ  nhằm tạo cho trẻ  được vui chơi tự  do, gần gũi với thiên nhiên và đảm  bảo cho trẻ  khi ngã sẽ  không bị  đau hoặc xước da như  các trò chơi: “Gà trong vườn   rau”; “ Bịt mắt bắt dê”; “ Trốn tìm ”… Nhưng có những trò chơi trẻ  chơi theo nhóm  nhỏ  như  trò chơi: “Tập tầm vông”; “Chi chi chành chành”; “Lộn cầu vồng ”; “Bắt   bướm ”; “Đàn chuột con”…. tôi đã tổ chức cho trẻ chơi trong lớp. * Kết quả: Việc chuẩn bị địa điểm phù hợp để tổ chức các trò chơi vận động và làm  đồ  dùng đồ chơi phục vụ  cho các cho vận động. Sáng tạo ra nhiều đồ  dùng, đồ  chơi   đẹp, hấp dẫn giúp cho trẻ khi tham gia vào các trò chơi vận động một cách thoải mái,   trẻ  ghi nhớ  trò chơi được lâu hơn và trẻ  rất hứng thú tham gia vào các trò chơi vận   động. Biện pháp 3: Sáng tác lời ca, thủ thuật tạo hứng thú cho trẻ khi chơi trò chơi vận   động. * Sưu tầm, sáng tác lời ca, đồng dao.     – Để  các trò chơi vận động không bị  nhàm chán, tăng thêm hứng thú cho trẻ, kích   thích trẻ  hoạt động tích cực, mạnh dạn, tự  tin, yêu cầu của giáo viên phải luôn điều  chỉnh hình thức, nâng cao yêu cầu của trò chơi, đưa thêm trò chơi mới  thay đổi nhịp  độ  đội hình…Và tôi đã tìm nhiều hình thức để  lôi cuốn trẻ  vào trò chơi như: Giới  thiệu và tổ chức cho trẻ chơi trò chơi như đang chơi trong ngày hội làng.    – VD: Để đưa trẻ vào những trò chơi trong ngày hội làng, thêm sự hứng thú, tôi dựng  cảnh ngôi đình cùng những cây hoa, cây xanh, trang trí màu rực rỡ. Sau đó cô giới thiệu  trò chơi, cách chơi, luật chơi và cho trẻ chơi.    + Cô dùng các âm thanh, tín hiệu để thu hút trẻ lại, sau đó giới thệu tên trò chơi, cách  chơi, luật chơi. Dùng lời nói để động viên, khuyến khích trẻ hứng thú tham gia vào trò   chơi: VD: Cô lôi cuốn trẻ tập trung dưới hình thức : Cô cầm loa chạy ra và nói:                                 Loa…loa…loa…                                 Hôm nay  ngày hội                                 Của các thầy cô                                 Các bạn lớp B2
  19.                                 Về đây dự hội    Sau đó cô giới thiệu chương trình giao lưu về kỹ năng vận động của các bạn lớp B2   qua trò chơi: “ Gánh rau qua cầu” ở chủ đề “ Nghề nghiệp. – VD: Với trò chơi: “Tín hiệu” trẻ rất hứng thú khi mỗi trẻ được cầm một đồ dùng là  mô hình ô tô, hay xe máy, xe đạp và tập làm những người điều khiển    phương tiện  giao thông. + Để  tổ  chức cho trẻ  chơi trò chơi: “Dung dăng dung dẻ” phù hợp với chủ  điểm “  Giao thông”tôi thay đổi lời ca trò chơi:                             Dung dăng dung dẻ                                                         Dung dăng dung dẻ                             Dắt trẻ đi chơi                             Phố xá đông người                             Bé ơi nhớ nhé                             Đèn xanh được đi                            Vàng thì chậm lại                             Đèn đỏ bé nhớ                            Mau dừng lại ngay         + Hay trò chơi “Nu na nu nống”; “ Dung dăng dung dẻ” phù hợp với chủ  đề: “   Nước và các hiện tượng thiên nhiên”. Thay đổi lời trò chơi                                Nu na nu nống                                Nu na nu nống                                Sấm động mưa rào                                Rủ nhau chạy vào                                Chạy mau kéo ướt.
  20.                               + Trò chơi “ Lộn cầu vồng”; “ Tập tầm vông” lời ca phù hợp với   chủ điểm “ Bé và gia đình”:                               Lộn cầu vồng                               Lộn cầu vồng                               Nước trong, nước chả                               Các bạn nam giỏi                               Các bạn gái tài.                               Cùng nhau thi đua                               Tham gia học tập *  Dạy trẻ học thuộc lời ca, lời đồng dao.   – Thường thì các trò chơi vận động nhằm phát triển về  các cơ  tay, cơ  chân, đều có   lời ca, lời hát, đồng dao kèm theo khi trẻ  chơi trẻ  thường vừa hát vừa chơi hoặc đọc  đồng dao nào đó. Các lời hát, đồng dao khiến cho không khí của trò chơi vui vẻ, nhộn   nhịp hơn. – VD: Trò chơi “Trời nắng trời mưa” trẻ vừa hát vừa làm động tác giống các chú thỏ  đang chạy nhảy “Trời nắng trời nắng”; Thỏ  đi tắm nắng – vươn vai –    vươn vai –  Thỏ rung đôi tai – Nhảy tới – nhảy tới đùa trong nắng mới… Khi đến câu hát “Mưa to  rồi­ mưa to rồi” thì trẻ phải chạy nhanh về nhà.     Hay trò chơi “Lộn cầu vồng”,“Chi chi chành chành”, trẻ đọc lời ca câu hát đó dường  như  không có mạch ý nào rõ ràng nhưng thiếu nó thì không thể  tiến hành được. Trò  chơi chỉ  có thể  được tổ  chức khi trẻ  đã thuộc lời đồng dao, lời hát… vừa rèn luyện  thể lực vừa là phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt với trẻ nhà trẻ thì trẻ cần phải tập   đọc nhiều để vốn từ của trẻ được mở rộng. Chính vì vậy, tôi thường cho trẻ làm quen   với lời hát, thơ, ca, đồng dao, trước khi hướng dẫn trẻ  chơi vào các thời điểm trong   ngày của trẻ: Hoạt động chiều; Giờ đón – trả trẻ; Hoạt động ngoài trời. Khi trẻ thuộc  lời ca, tổ chức cho trẻ chơi tương  ứng với lời đồng dao đó. Vì thế  trẻ  chơi rất hứng  thú và tích cực tham gia chơi.            * Kết quả: Với việc sử  dụng thơ, đồng dao, ca dao trong khi tổ  chức các trò   chơi vận động trẻ  đã được lôi cuốn một cách tự  nhiên vào trò chơi, trẻ  rất hứng thú  một cách chủ động không bị gò bó hay ép buộc.                                                                   KẾT LUẬN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2