intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện năng lực tìm đoán cho học sinh thông qua dạy học giải phương trình ở trường THPT

Chia sẻ: Hồ Dũng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:144

141
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện năng lực tìm đoán cho học sinh thông qua dạy học giải phương trình ở trường THPT. Đề tài này được nghiên cứu với các nội dung: Nghiên cứu lý luận về các loại hình tư duy, về mối quan hệ giữa năng lực tìm đoán và các loại hình tư duy; Trực tiếp nghiên cứu dạy học giải phương trình ở trường THPT; Đề xuất phương án dạy một số bài toán giải phương trình nhằm rèn luyện năng lực tìm đoán; Đánh giá bước đầu tính khả thi và tính hiệu quả của việc rèn luyện năng lực tìm đoán thông qua dạy học giải bài tập phương trình ở trường phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện năng lực tìm đoán cho học sinh thông qua dạy học giải phương trình ở trường THPT

  1. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.         Hiện nay để đáp ứng nhu cầu của sự phát triển xã hội,việc dạy và học   toán không ngừng đổi mới và nâng cao. Hoạt động giải bài tập toán học là   điều kiện để thực hiện tốt các mục đích dạy học toán ở trường phổ thông. Vì  vậy tổ chức có hiệu quả việc dạy giải bài tập toán học có vai trò quyết định   tới chất lượng dạy và học toán.                Yêu cầu của việc dạy giải bài tập toán học là: “Cùng với phương   pháp   có   tính   thuật   toán,   thầy   giáo   phải   truyền   thụ   cho   h ọc   sinh   nh ững   phương pháp có tính chất tìm đoán để giải một số kiểu bài toán. Tuy nhiên  thầy giáo phải làm cho họ  hiểu rằng mục đích hàng đầu không phải chỉ  nắm vững cách giải từng kiểu bài tập,thậm trí từng bài tập mà là rèn luyện  khả năng giải bài tập nói chung để  có thể  ứng phó với những bài toán mới   mẻ không lệ thuộc vào khuôn mẫu có sẵn.”         Ở trường phổ thông hiện nay, học sinh không gặp khó khăn khi giải các   bài tập có thuật toán. Nhưng thực tế có nhiều bài tập không có thuật toán nên  khi gặp những bài tập này học sinh rất lúng túng. Mặt khác do thời gian trên   lớp có hạn,  giáo viên chưa chú ý nhiều đến việc hướng dẫn học sinh tìm lời  giải bài tập không có thuật toán.         Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài: “  Rèn   luyện   năng   lực   tìm   đoán   cho   học   sinh   thông   qua   dạy   học   giải   phương trình ở trường THPT ” 1
  2.  II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.          Nghiên cứu việc rèn luyện năng lực tìm đoán trong dạy học giải phương  trình ở trường THPT. III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.          1. Nghiên cứu lý luận về các loại hình tư duy, về mối quan hệ giữa  năng lực tìm đoán và các loại hình tư duy.                  2. Trực tiếp nghiên cứu dạy học giải phương trình  ở  trường   THPT.          3. Đề xuất phương án dạy một số bài toán giải phương trình nhằm  rèn luyện năng lực tìm đoán.               4. Đánh giá bước đầu tính khả  thi và tính hiệu quả  của việc rèn  luyện năng lực tìm đoán thông qua dạy học giải bài tập phương trình ở  trường phổ thông.         IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.  1. Nghiên cứu lý luận. 1.1. Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước có liên quan đến  giáo dục và đào tạo, có liên quan đến mục đích, nội dung, phương pháp dạy  học nói chung và phương pháp dạy học toán nói riêng. 1.2. Nghiên cứu tài liệu lý luận ( triết học, giáo dục học, tâm lý học, lý  luận dạy học bộ môn toán ) có liên quan đến đề tài của luận văn. 1.3. Nghiên c ứ u t ạ p chí Nghiên c ứ u giáo d ụ c, sách giáo khoa,  sách tham kh ả o ... 2. Điều tra, quan sát. 2
  3. 2.1. Dự giờ, tổng kết kinh nghiệm về dạy học chủ đề  phương trình ở  trường phổ thông. 2.2. Phỏng vấn, điều tra, thu thập các ý kiến của các giáo viên, học sinh   về  thực trạng dạy học chủ đề  này ở  trường phổ  thông, quan điểm của giáo  viên về  năng lực tìm đoán và việc rèn luyện năng lực tư  duy thông qua khâu  tìm đoán  trong dạy học giải bài tập phương trình. 2.3.   Tham   khảo   ý   kiến   đóng   góp,   học   hỏi   kinh   nghiệm   của   những   chuyên gia, giáo viên giàu kinh nghiệm trong giảng dạy và nghiên cứu toán  học. 3. Thực nghiệm sư phạm Về các biện pháp đề xuất trong luận văn. V. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC. Nếu trong dạy học giải phương trình, xây dựng được một số biện pháp   và hệ  thống bài tập, giúp học sinh tìm được lời giải phương trình khi chưa   biết rõ quy trình thuật toán thì có thể thông qua đó phát triển năng lực tư duy  đặc biệt là năng lực tư duy linh hoạt, sáng tạo cho học sinh. VI. BỐ CỤC LUẬN VĂN. Ngoài phần mở đầu,kết luận,danh mục và tài liệu tham khảo,luận văn  gồm ba chương. Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn. Chương II: Hướng dẫn học sinh một số phương pháp giải phương  trình thông qua hệ thống  bài tập chọn lọc và đề xuất một số biện pháp  sư phạm nhằm rèn luyện năng lực tìm đoán trong dạy học giải bài tập  phương trình ở trường phổ thông.            Chương III: Thực nghiệm sư phạm. 3
  4. CHƯƠNG I CƠ  SỞ  LÝ  LUẬN  VÀ  THỰC  TIỄN 1.1. MỘT SỐ THAO TÁC TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HỌC TOÁN. 1.1.1. Khái quát hoá ­ đặc biệt hoá. 1.1.1.1. Khái quát hoá. Theo G.Pôlya, “ Khái quát hoá là chuyển từ  việc nghiên cứu một tập  hợp đối tượng đã cho đến việc nghiên cứu một tập lớn hơn, bao gồm cả tập   hợp ban đầu ” ([1];tr.21) Theo ([8];tr.19) những dạng khái quát hoá thường gặp trong môn Toán  có thể được biểu diễn bằng sơ đồ sau: 4
  5. Khái quát hoá Khái quát hoá từ cái  Khái quát hoá từ cái  riêng lẻ đến cái tổng  tổng quát đến cái tổng  quát quát hơn Khái quát hoá tới cái  Khái quát hoá tới cái  tổng quát đã biết tổng quát chưa biết                                                     Sơ đồ 1 Ví dụ 1: Ở lớp 8, HS đã biết giải một số PT dạng: x 2 − 7 x + 6 = 0, − x 2 + 6 x − 8 = 0   bằng phương pháp phân tích thành nhân  tử. Ở lớp 9, HS được học công thức nghiệm của PT bậc 2 một ẩn. Ví dụ  2: Sau khi HS đã giải được PT bậc 2 bằng cách sử  dụng công thức   nghiệm, ta yêu cầu HS giải PT:  ax 2 n +bx n +c = 0 (a 0) . Trong ví dụ 1, khái quát hoá từ cái riêng lẻ đến cái tổng quát. Ở  ví dụ  2, khái quát hoá từ  cái tổng quát đến cái tổng quát hơn. Và trong cả  hai ví dụ  đều khái quát tới cái tổng quát chưa biết. Bên cạnh đó còn có dạng khái quát  hoá đi đến kiến thức đã biết, dạng này được tiến hành chẳng hạn khi giải  những bài toán chứng minh toán học trong đó khái quát hoá được thể  hiện  ở  việc liên hệ  những tình huống cụ  thể  của bài toán với những tiên đề, định  nghĩa, định lý thích hợp, ở việc nhận biết cái tổng quát trong cái cụ thể. Ví dụ 3 ( Bài tập 1 ):  5
  6. Giải PT:  3 + 3 + x =x (1) Nhận xét: +) Nếu PT có nghiệm  x  thì  x 3+ 3 (2) +) PT có thể đưa về  hệ đối xứng nếu đặt  u = 3 + x (3) u = x −3 ( x − u )( x + u + 5) = 0 Khi đó PT (1) có dạng:  � � (4) x = u −3 u = x2 − 6x + 9 7 + 13 .  Giải hệ  (4) kết hợp với điều kiện (2),(3) thu được nghiệm   x = 2 Trong việc giải PT  ở  ví dụ 3 đã liên hệ giữa cái cụ thể  với cái tổng quát đã  biết là hệ PT hai ẩn đối xứng loại 2. Như  vậy, khái quát hoá là thao tác tư  duy nhằm phát hiện những quy  luật phổ biến của một lớp các đối tượng hoặc hiện tượng từ một hoặc một  số  các trường hợp riêng lẻ. Với ý nghĩa đó, khái quát hoá thuộc về  các phép  suy luận có lí, nên các kết luận được rút ra từ khái quát hoá thường mang tính  chất giả thuyết, dự đoán. Tuy nhiên trong  nhiều trường hợp kết luận từ khái  quát hoá có thể thu được nhờ quy nạp hoàn toàn. Khái quát hoá thường được sử  dụng trong việc hình thành khái niệm,  chứng minh định lí, phát hiện và đề xuất những kiến thức mới,… Ví dụ 4 ( Bài tập 2 ):  Sau khi giải PT:  x − 2006 + 2008 − x = 2 (1) chúng ta khái quát hoá có thể giải được các PT :              x − 2n + (2n + 2) − x = 2 (2)                                   x − (2n + 1) + (2n + 3) − x = 2 (3) 6
  7. 1.1.1.2. Đặc biệt hoá. Theo G.Pôlya: “Đặc biệt hoá là chuyển từ việc nghiên cứu một tập hợp  đối tượng đã cho sang việc nghiên cứu một tập hợp nhỏ hơn chứa trong tập   hợp đã cho” ([1],tr.22) Những dạng đặc biệt hoá thường gặp trong môn toán có thể được biểu   diễn bằng sơ đồ sau: Đặc biệt hoá Đặc biệt hoá từ          Đặc biệt hoá từ          cái tổng quát đến cái  cái riêng đến cái      riêng lẻ riêng hơn Đặc biệt hoá tới cái  Đặc biệt hoá tới cái  riêng lẻ đã biết riêng lẻ chưa biết                                                     Sơ đồ 2 Đặc biệt hoá thường được sử dụng trong việc trình bày các khái niệm,  chứng minh định lý, giải bài tập… Trong bài toán giải PT, đặc biệt hoá được  sử  dụng trong mò mẫm, dự  đoán nghiệm, trên cơ  sở  đó định hướng phương  pháp giải cho PT. Ví dụ 1 ( Bài tập 3 ):  Giải PT:  3x + 4 x = 5 x (1) Thay  x  với một vài giá trị cụ thể: Với  x = 1 , ta có (1) trở thành:   3 + 4 = 5        vô lý. 7
  8. Với  x = 2 , ta có (1) trở thành:  32 + 42 = 52  đúng. Với  x = 3 , ta có (1) trở thành:  33 + 43 = 53   vô lý. Ta được  x = 2  là một nghiệm của PT. Ngoài ra, chưa tìm được nghiệm  khác. Một câu hỏi đặt ra là  x = 2 có phải là nghiệm duy nhất không. Và đây  chính là câu hỏi gợi ý cho hướng giải của PT. Có thể  nói đặc biệt hoá là thao tác tư  duy ngược của khái quát hoá.  Trong quá trình dạy học không chỉ yêu cầu đi từ cái riêng đến cái chung ( khái   quát  hoá ) mà còn đòi hỏi họ đi từ cái chung đến cái riêng ( đặc biệt hoá ) và   làm rõ mối quan hệ  chung riêng giữa cái đạt được và cái xuất phát. Chẳng  hạn ở  ví dụ 4 ( mục 1.1.1.1 ), sau khi HS đã khái quát hoá được PT (2), với mục đích   kiểm tra việc khái quát hoá đó có thể yêu cầu họ đặc biệt hoá PT (2) sao cho  tìm lại được PT (1), thông qua đó nhấn mạnh mối quan hệ  chung riêng giữa   PT tìm được và PT ban đầu. Sự  đặc biệt hoá  ở  đây với mục đích để  sơ  bộ  kiểm tra tính giải được của PT tổng quát chứ chưa phải là giải PT tổng quát   đó. 1.1.2. So sánh­tương tự. 1.1.2.1. So sánh. So sánh là thao tác tư duy nhằm xác định sự  giống nhau hay khác nhau,  sự  đồng nhất hay không đồng nhất, sự  bằng nhau hay không bằng nhau giữa   các đối tượng nhận thức. So sánh liên quan chặt chẽ với phân tích, tổng hợp và   đối với các hình thức tư duy đó có thể ở mức độ  đơn giản hơn nhưng vẫn có  thể nhận thức được những yếu tố bản chất của sự vật, hiện tượng. 1.1.2.2. Tương tự. Theo G. Pôlya: “Hai hệ là tương tự nếu chúng phù hợp với nhau trong  mối quan hệ xác định rõ ràng giữa những bộ phận tương ứng”. ([1],tr.23) 8
  9. Tương   tự   là   một   dạng   so   sánh.   Trong   “Lôgic   học”,   D.Gorki   viết  “Tương tự là phép suy luận trong đó từ chỗ  hai đối tượng giống nhau ở một  số  dấu hiệu, ta rút ra kết luận rằng các đối tượng này giống nhau ở các dấu  hiệu khác”. Nếu đối tượng A có các dấu hiệu a, b, c, d và đối tượng B cũng có các   dấu hiệu a, b, c, thì ta rút ra kết luận giả định rằng đối tượng B cũng có dấu   hiệu d.Ta có thể biểu diễn sơ đồ của phép suy luận tương tự như sau: A có tính chất a, b, c, d B có tính chất a, b, c ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Kết luân B cũng có tính chất d  Người ta thường xét sự tương tự trong toán học trên các khía cạnh sau: ­Hai phép chứng minh là tương tự nếu đường lối, phương pháp chứng   minh là giống nhau. ­Hai hình là tương tự nếu chúng có nhiều tính chất giống nhau hay nếu   vai trò của chúng giống nhau trong vấn đề  nào đó, hoặc giữa các phần tử  tương ứng của chúng có quan hệ giống nhau. ­Hai tính chất là tương tự  nếu chúng biểu diễn các yếu tố  hoặc các  thuộc tính của hai hình tương tự. Ví dụ 1: Phương pháp giải PT  ax 6 +bx 3 +c=0(a 0) tương tự  như  phương pháp giải  PT  ax 4 +bx 2 +c=0(a 0) Phép tương tự được xem như là tiền thân của khái quát hóa, bởi vì việc   chuyển từ  một trường hợp riêng này sang một trường hợp riêng khác của  cùng một cái tổng quát, là một bước để đi tới những trường hợp riêng bất kì   của cùng một cái tổng quát đó. Nhiều khi HS đã có một sự  hình dung nhất   9
  10. định về  cái chung nhưng chưa hiểu nó một cách đầy đủ, chỉ  có thể  đưa ra   những  hiện  tượng  riêng  lẻ  coi  như   đại biểu  của cái  chung.  Vì  thế   trong   những trường hợp nhất định, ta có thể coi sự thực hiện phép tương tự như là  biểu hiện của khái quát hóa. Do đó, trong quá trình dạy học, cần khuyến   khích HS thực hiện phép tương tự coi như tiền thân của khái quát hóa, coi như  sự  biểu hiện khái quát hóa cho đến khi nào HS nhận thức được cái khái quát  một cách đầy đủ. Ví dụ 2( Bài tập 2 ):  Sau khi HS đã giải PT x − 2006 + 2008 − x = 2 (1) GV có thể yêu cầu HS giải những PT sau: x − 2007 + 2009 − x = 2 (2) 4 x − 2006 + 4 2008 − x = 2 (3) Như vậy ta đã tập luyện cho HS phép tương tự. Tuy nhiên không dừng lại ở  đó, mà còn yêu cầu HS phát hiện dạng PT tổng quát, tức là yêu cầu HS từ  những phép tương tự tiến lên khái quát hoá. Tương tự  là nguồn gốc của nhiều phát minh. Bên cạnh đó cũng giống  như  khái quát hóa, tương tự  thuộc về  những suy luận có lý, những kết luận  rút ra từ tương tự thường có tính chất giả thuyết, dự đoán. Do vậy cần lưu ý  với HS rằng những kết luận rút ra từ  tương tự  có thể  dẫn đến những kết   luận sai. 1.1.3. Phân tích ­ tổng hợp. Phân tích là chia một chỉnh thể ra làm nhiều bộ phận để đi sâu vào các  chi tiết trong từng bộ phận. Thường thì phân tích đều nhằm một mục đích cụ  thể, nghĩa là việc nghiên cứu từng bộ phận phải mang tính hướng đích, không  10
  11. tràn lan. Đối với một bài toán trong đó có giả  thuyết và kết luận thì sự  phân   tích phải hướng vào mục đích tìm cho ra các mắt xích lôgic nối giữa giả thiết   và kết luận.                                                                                                      ([3],tr.123) Tổng hợp là nhìn bao quát lên một chỉnh thể  gồm nhiều bộ  phận, cố  mô tả được bức tranh toàn cảnh của cả chỉnh thể, các mối quan hệ  giữa các  bộ phận của chỉnh thể và của chỉnh thể với môi trường xung quanh. Phân tích   tạo điều kiện cho tổng hợp, vì nếu không đi sâu vào nghiên cứu tất cả các bộ  phận của chỉnh thể  thì khó lòng mô tả  được chính xác bức tranh toàn cảnh  của chỉnh thể. Tổng hợp lại chỉ ra phương hướng cho sự phân tích tiếp theo.  ([3],tr.125) Trong học tập môn Toán, phân tích ­ tổng hợp có mặt ở mọi hoạt động  trí tuệ, là thao tác tư duy quan trọng để giải quyết vấn đề. Ví dụ 1( Bài tập 4 ): x+3             Giải PT:  2 x 2 − 9 = ( x − 5) (1) x−3 Phân tích : x −3 Vế trái có nghĩa khi và chỉ khi:  x − 9 2 0 x 3 x+3 x −3 Vế phải có nghĩa khi và chỉ khi: 0 x −3 x>3 x −3 Tổng hợp lại ta được: PT (1) có nghĩa khi và chỉ khi x>3 +) Qua sự phân tích đặc điểm vế trái có  x 2 − 9 = ( x − 3)( x + 3) 11
  12. x+3 vế phải có  x−3 +) Ta nhận thấy  x = −3  là một nghiệm của PT (1). x < −3 x+3 +) Với  ,chia cả hai vế của PT (1) cho   ta được: x>3 x−3 2 x − 3 = x − 5 . Tổng hợp lại ta có lời giải của PT. 1.1.4. Cụ thể hoá ­ Trừu tượng hoá. Trừu tượng hoá là thao tác tách ra từ một đối tượng toán học một tính  chất ( về  quan hệ  số  lượng hoặc hình dạng hoặc lôgíc của thế  giới khách   quan ) để nghiên cứu riêng tính chất đó. Trừu tượng hoá có liên hệ mật thiết với khái quát hoá. Nhờ trừu tượng   hoá ta có thể khái quát hoá rộng và sâu hơn. Sức mạnh của toán học ở chỗ ngày càng tiến lên những đỉnh cao của sự  trừu tượng. Bởi vì càng trừu tượng bao nhiêu thì càng có khả năng ứng dụng  vào nhiều sự vật cụ thể bấy nhiêu. Muốn tiến lên đỉnh cao của khoa học không chỉ dừng lại ở chỗ làm sao   cho có nhiều cái cụ thể để minh hoạ dễ hiểu cái trừu tượng, mà còn phải tiến  công vào cái trừu tượng để cho những cái trừu tượng trở thành quen thuộc, trở  thành những hình  ảnh trong đầu óc chúng ta để  cuối cùng có khả  năng sáng  tạo những cái trừu tượng đó. Ví dụ 1.( Bài tập 5 ) Xét PT : 1 1   cos x + sin x + + + tan x + cot x = −2 cos x sin x Bằng trừu tượng hoá giải được PT bằng phương pháp đặt ẩn phụ. Đặt  t = cos x + sin x, t 2 ,  t 1 12
  13. 2t 2 PT trở thành: t + + 2 = −2 � t (t + 1)2 = 0 t −1 t −1 2 3π Giải tiếp tìm được các nghiệm của PT là:  x = + kπ , k Z . 4 Ví dụ 2:( Bài tập 6 ) Giải PT: x2 − 4x + 5 − x2 − 10x + 50 = 5 (1) Sử  dụng  cụ  thể  hoá  biểu diễn được mỗi căn thức theo độ  dài một  đoạn thẳng và dùng tính chất hình học giải được PT (1). Chọn  A(2;1);B(5;5);M( x;0) . Ta có:  MA = ( x − 2)2 + 1 = x2 − 4x + 5             MB = ( x − 5)2 + 25 = x2 − 10x + 50             AB = 5 (1) MA-MB =AB Mọi bộ 3 điểm M,A,B, luôn có: MA-MB AB (2) Dấu bằng xảy ra ở (2) M, A, B thẳng hàng và M nằm ngoài AB. �5 � Giải tiếp bài toán tìm được  M � ;0 � là điểm cần tìm. �4 � Trong dạy học, đồ dùng dạy học là rất cần thiết tuy nhiên không nên lạm  dụng nó. Vì càng học lên cao, càng gặp nhiều vấn đề không thể minh họa bằng   đồ dùng giảng dạy. Đối với học sinh, ngay từ ban đầu không nên bằng lòng với  những ví dụ cụ thể, những đồ đùng giảng dạy của thầy cô, mà phải tự mình tìm   thêm những ví dụ minh hoạ khác. Đồng thời trong quá trình tấn công vào cái trừu  tượng phải luôn gắn với nguồn gốc thực tế của nó để  làm sáng tỏ  nguồn gốc   này.    13
  14. 1.2. MỘT SỐ LOẠI HÌNH TƯ DUY. 1.2.1. Tư duy hàm. 1.2.1.1. Khái niệm hàm. Định nghĩa hàm theo chương trình toán phổ  thông( Sách giáo khoa Đại số  10   ­Nâng cao ). Cho D là một tập con khác rỗng của tập số  thực R. Một hàm số  f xác  định trên tập D là một quy tắc cho tương  ứng với mỗi phần tử   x D  một và  chỉ một số thực y. 1.2.1.2. Khái niệm tư duy hàm. Tư duy hàm là một loại hình tư duy có đồng thời cả bốn hoạt động với   những thao tác trí tuệ như sau: ­Hoạt động 1: Nhận biết những quy tắc tương ứng có phải là một hàm số không. ­Hoạt động 2: + Phát hiện ra sự tương  ứng đơn trị  giữa hai đại lượng biến thiên trong một  hoàn cảnh có nhiều đại lượng biến thiên. + Thiết lập được quy tắc tương  ứng giữa hai đại lượng biến thiên vừa phát  hiện ra ( là một hàm hay một hàm số ). ­Hoạt động 3: Nghiên cứu những hàm, hàm số vừa thiết lập được. ­Hoạt động 4: Lợi dụng những kết quả  nghiên cứu về  hàm, hàm số  nói trên để  giải quyết  được vấn đề đặt ra. Trong các hoạt động trên thì hoạt động 1 là ngầm ẩn, hoạt động 2, hoạt  14
  15. động 3, hoạt động 4 diễn ra theo một mạch liên tục và tường minh trong tư  duy hàm, đó là các hoạt động: Phát hiện, thiết lập             Nghiên cứu             Lợi dụng. Ví dụ 1 ( Bài tập 7 ):  Giải PT:   2006 x + 2008 x = 2.2007 x (1) Hướng dẫn. Định lý Lagrange: Cho hàm số   f ( x)   liên tục trên [a;b] và f / ( x)   tồn tại  f (b) − f (a ) trên (a;b) thì luôn tồn tại  c (a; b)  sao cho  f / (c) = b−a +Phát hiện,thiết lập sự tương ứng: (1) � 2008 x − 2007 x = 2007 x − 2006 x (2) Và như vậy vế trái và vế phải của (2) đều là giá trị của hàm số  f (t ) = (t + 1)α − t α , t > 0 +Nghiên cứu sự tương ứng: Ta có f (2006) = f (2007) Theo định lý Lagrange tồn tại  c (2006;2007) ,sao cho: f / (c) = 0  mà  f / (c) = α [(c+1)α ­1 − cα −1 ] . Do đó   f / (c) = 0 � α [(c + 1)α −1 − cα −1 ]=0 α =0 α =0 � � (c+1)α ­1 = cα −1 α =1 +Lợi dụng sự tương ứng: Từ đó ta có: Phương trình (1) chỉ có hai nghiệm  x = 0; x = 1 . 1.2.1.3. Những tư tưởng chủ đạo về phát triển tư duy hàm. 15
  16. Những tư tưởng chủ đạo về phương diện phát triển tư duy hàm như sau: Thứ  nhất: Tập luyện cho HS phát hiện, thiết lập, nghiên cứu và lợi  dụng những sự  tương  ứng trong khi nhằm vào truyền thụ  kiến thức và rèn  luyện kĩ năng toán học. Thứ hai: Thực hiện gợi động cơ, đặc biệt là gợi động cơ kết thúc đối   với những hoạt động tư duy hàm, sao cho các hoạt động này trở thành những  khả năng gợi động cơ nội tại toán học. Thứ ba: Hình thành ở HS những biểu tượng tiến tới những tri thức về  sự  tương  ứng đơn trị  và tập luyện cho họ  những hoạt động ăn khớp với   những tri thức phương pháp về tư duy hàm. Thứ  tư: Phân bậc hoạt động về  tư  duy hàm theo số  lượng biến, theo  mức độ  trực quan của đối tượng, theo trình độ  độc lập và thành thạo của  hoạt động của người học. ([5],tr.16­tr.23) 1.2.2. Tư duy thuật giải. 1.2.2.1. Khái niệm thuật giải. Theo ([5], tr.51) thì: “Thuật giải là một quy tắc chính xác và đơn trị quy  định một số  hữu hạn những thao tác sơ  cấp theo một trình tự  xác định trên  những đối tượng sao cho sau một số  hữu hạn những thao tác đó ta thu được   kết quả mong muốn”. Mỗi thuật giải đều có những tính chất cơ bản và quan trọng sau: * Tính đơn trị * Tính dừng * Tính đúng đắn * Tính phổ dụng * Tính hiệu quả 16
  17. Thuật giải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong  môn toán và  trong thực tế người ta thường gặp những hình thức biểu diễn thuật giải sau: ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ toán học, sơ đồ khối, ngôn ngữ phỏng trình và  các ngôn ngữ lập trình. Ví dụ 1 : Quy tắc giải PT bậc hai có thể dùng ngôn ngữ tự nhiên và toán học   để liệt kê, mô tả các bước thực hiện như sau: B1. Xác định các hệ số a,b,c. B2. Tính  ∆ = b 2 − 4ac . B3. Xét  ∆ 1. Nếu  ∆ < 0 : PT vô nghiệm. b 2. Nếu  ∆ = 0 : PT có nghiệm kép  x = − 2a 3. Nếu  ∆ > 0 : PT có hai nghiệm phân biệt    x1 = −b − ∆ −b + ∆ ; x2 = 2a 2a 1.2.2.2. Quy tắc tựa thuật giải. Như  đã  trình bày  ở  trên, đặc trưng của thuật giải là hệ  thống các quy định nghiêm ngặt được thực hiện theo một trình tự  chặt chẽ. Tuy nhiên trong  quá trình và thực tiễn dạy học, ta cũng thường gặp một số  quy tắc tuy chưa   mang đầy đủ các đặc điểm đặc trưng của thuật giải nhưng có một số trong các  đặc điểm đó và chúng có nhiều tác dụng trong việc hướng dẫn học sinh giải   toán.  *Khái niệm quy tắc tựa thuật giải Theo Nguyễn Bá Kim: “Quy tắc tựa thuật giải được hiểu như một dãy  hữu hạn những chỉ dẫn thực hiện được theo một trình tự xác định nhằm biến   17
  18. đổi thông tin vào của một lớp bài toán thành thông tin ra mô tả  lời giải của  lớp bài toán đó”. ([4], tr.379) Ví dụ 1: Quy tắc tính đạo  hàm của hàm số y = f( x ). +Bước 1: Cho số gia của đối số tại điểm  x  là  x . Tính số gia của hàm số: ∆y = f (∆x + x) − f ( x) +Bước 2: y Lập tỉ số  . x ∆y +Bước 3: Tính giới hạn:  lim . ∆x 0 ∆x Giới hạn( nếu có ) của tỉ  số  trên gọi là đạo hàm của hàm số    y = f( x ) tại  điểm  x . Trong quy tắc này, học sinh dễ hình dung và nắm được quy tắc, các  bước tiến hành để tính đạo hàm của hàm số tại điểm  x . Tuy nhiên có những  chỉ dẫn chưa mô tả một cách xác định công việc, chẳng hạn: chỉ dẫn ở bước   ∆y 3 về  việc tìm   lim  . Do vậy, có học sinh mặc dù áp dụng đúng trình tự  ∆x 0 ∆x trên nhưng vẫn không tìm được đạo hàm của hàm số cụ thể, mặc dù giới hạn   này tồn tại. *Quy tắc tựa thuật giải phân biệt với thuật giải như sau: + Mỗi chỉ  dẫn trong quy tắc đó có thể  chưa mô tả  hành động một cách xác   định. + Kết quả thực hiện mỗi chỉ dẫn không đơn trị. + Quy tắc không đảm bảo chắc chắn rằng sau một số hữu hạn bước thì đem   lại kết quả là lời giải của lớp bài toán. 18
  19. Mặc dù có một số hạn chế trên so với thuật giải song quy tắc tựa thuật   giải cũng vẫn là tri thức phương pháp quan trọng có ích cho quá trình hoạt  động và giải toán. 1.2.2.3. Khái niệm tư duy thuật giải. *Khái niệm tư duy thuật giải. Tương thích với khái niệm thuật giải có những hoạt động đáng chú ý sau đây: ­Thực hiện những thao tác theo một trình tự  xác định phù hợp với một  thuật giải. ­ Phân tích một quá trình hình thành những thao tác được thực hiện theo  một trình tự xác định. ­ Khái quát hoá một quá trình diễn ra trên một số  đối tượng riêng lẻ  thành một quá trình diễn ra trên một lớp đối tượng. ­ Mô tả chính xác quá trình tiến hành một hoạt động. ­ Phát hiện thuật giải tối ưu để giải quyết một công việc. Phương thức tư duy biểu thị khả năng tiến hành năm hoat động trên gọi là tư  duy thuật giải. *Sự cần thiết phải phát triển tư duy thuật toán cho học sinh. Trong dạy học môn toán, tiến hành phát triển tư duy thuật toán của HS  có những tác dụng sau đây: ­ Tư  duy thuật toán tạo điều kiện tốt để  HS tiếp thu kiến thức, rèn  luyện các kỹ  năng toán học. Khi các hoạt động được tách bạch các bước,   được thực hiện qua quy tắc có cấu trúc điều khiển thuật toán, HS sẽ thấy rõ  hơn tri thức cần học, ghi nhớ tốt hơn, thực hiện vận dụng cũng thuận lợi và  có kết quả hơn. ­ Tiến hành các hoạt động tư duy thuật toán có thể dẫn đến hình thành  thói quen, tri thức phương pháp để  giải quyết mọi vấn đề, góp phần hình  19
  20. thành năng lực giải quyết vấn đề   ở  HS trong học tập cũng như  trong cuộc   sống. 1.2.3. Tư duy biện chứng. 1.2.3.1. Cơ sở triết học của tư duy biện chứng. Triết học duy vật biện chứng thể hiện các quy luật chung nhất của sự  phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Nó là cơ sở phương pháp luận   của mọi khoa học, trong đó có phương pháp dạy học môn Toán. Nó cung cấp  cho ta phương pháp nghiên cứu đúng đắn: “Xem xét những hiện tượng giáo  dục trong quá trình phát triển và trong mối liên hệ  phụ  thuộc lẫn nhau, trong   sự mâu thuẫn và thống nhất, phát hiện những biến đổi về số lượng dẫn đến   những biến đổi về chất lượng v. v…”. ([3],tr. 22) *Các quy luật của triết học duy vật biện chứng. Quy luật mâu thuẫn là động lực của sự phát triển. Quy luật phủ định của phủ định. Quy luật lượng đổi, chất đổi. *Các cặp phạm trù đối lập của triết học duy vật biện chứng. 1.Lí luận và thực tiễn. 2.Cái chung và cái riêng. 3.Cụ thể và trừu tượng. 4.Chủ quan và khách quan. 5.Nội dung và hình thức. 6.Bản chất và hiện tượng. 7.Ngẫu nhiên và tất nhiên. 8.Vận động và đứng yên. 9.Suy diễn và quy nạp. 10.Phân tích và tổng hợp. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2