intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: Lê Thị Diễm Hương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

1.452
lượt xem
218
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5” rèn cho học sinh có kĩ năng làm văn, viết văn hay về cỏc thể loại văn trong chương trình môn Tập làm văn lớp 5. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5
  2. MỤC LỤC Phụ bìa ………………………………………………………….. trang 1 Mục lục …………………………………………………………… trang 2 PHẦN I: ĐẶT vÊn ®Ò I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ………………………………………. trang 3 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ………………………………….. trang 4 III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.………... trang 4 IV.PHẠM VI NGHIÊN CỨU . …………………………….. … trang 5 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……………………………. trang 5 IV .ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU………… trang 5 PHẦN II: NỘI DUNG A. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN …………………….. trang 5 B.CÁC GIẢI PHÁP …………………….. trang 8 C. KÕt QU¶ …………………….. trang 22 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ A. KẾT LUẬN ……………………..trang 23 B.KIẾN NGHỊ …………………….trang 25 TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………trang 30
  3. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học… Qua chuyên đề Tập làm văn lớp 5 và qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 5, tôi nhận thấy việc việc dạy và học phân môn này đang gặp nhiều khó khăn, không chỉ đối với học sinh mà cả đối với giáo viên cũng cảm thấy băn khoăn ái ngại. Do đó giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn trong việc rèn năng lực viết văn cho học sinh, kh«ng chØ ®èi víi nh÷ng em häc sinh yÕu, kÐm hay trung b×nh mµ kÓ c¶ c¸c häc sinh giái còng vËy. Båi d-ìng häc häc sinh giái lµ mét c«ng viÖc rÊt quan träng ®-îc tiÕn hµnh ®ång thêi víi c«ng t¸c d¹y häc sinh ®¹i trµ vµ phô ®¹o häc sinh yÕu. Trong m«n TiÕng viÖt, viÖc d¹y ph©n m«n TËp lµm v¨n lµ mét viÖc lµm khã, ®ßi hái sù bµi b¶n vµ cÈn thËn ë hai phÝa gi¸o viªn vµ häc sinh. Trong suốt thời gian d¹y lớp båi d-ìng häc sinh giái líp 5, một vấn đề có tính nổi cộm đó là việc các em học sinh thường “rất ngán” học môn Tập Làm Văn. Tại sao vậy? Để làm được một bài tập làm Văn học sinh phải huy động vốn kiến thức từ nhiều mặt như: các hiểu biết về cuộc sống, tri thức về văn học, khoa học, xã hội… Học sinh lại còn phải biết kết hợp hài hòa nhiều kĩ năng như: dùng từ đặt câu, dựng đoạn, tạo văn bản, kĩ năng phân tích đề, tím ý, lập dàn ý. Do đó Tập làm văn mang
  4. tính h×nh thµnh tích cực, toàn diÖn, tổng hợp. Ngoài ra Tập làm văn mang còn đòi hỏi mang tính sáng tạo của học sinh. NhiÒu em không biết bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những gì, viết như thế nào. Chính vì vậy mà trong các tiết học phân môn này các em thường rất lúng túng có em thì viết lan man không đúng trọng tâm đề yêu cầu, em thì ý nghèo nàn bài viết chỉ mang tính liệt kê khô khan không biết liên kết câu và lồng cảm xúc của người viết vào...và khi nhận được bài trả thì với những con số khô khan 3,4...điểm chẳng nói lên được điều gì, có chăng chỉ là một vài câu nhận xét quá cụt ngủn: lạc đề, văn nghèo ý, không biết liên kết câu, bài viết lan man...từ phía giáo viên mà thôi. Điều đó đã làm cho các em chán nản, lo sợ, mất tự tin, ngại nói và cuối cùng là ®¹t kÕt qu¶ kh«ng cao ë ph©n môn này. Thế thì nguyên nhân do đâu ? Làm thế nào để khắc phục tình trạng này, giúp các em lấy lại tự tin học tốt vµ ®¹t kÕt qu¶ cao ph©n môn Tập Làm Văn ? Đấy chính là lí do khiến tôi trăn trở. Lóc nµy ®©y c¸c em muèn ®ßi hái ë ng-êi thÇy c¸i t©m, c¸i tµi ®Ó truyÒn cho c¸c em niÒm say mª, ®Ó ®éng viªn båi d-ìng c¸c em ®Ó trë thµnh häc sinh cã n¨ng khiÕu, nh÷ng nh©n tµi cã t©m hån v¨n häc. ChÝnh v× nh÷ng lý do trªn t«i chän quyÕt ®Þnh nghiªn cøu ®Ò tµi: "Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5". II. Mục đích nghiên cứu RÌn cho häc sinh cã kÜ n¨ng lµm v¨n, viết văn hay vÒ các thÓ lo¹i v¨n trong ch-¬ng tr×nh môn Tập làm văn lớp 5. III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. 2.1. Khách thể nghiên cứu Đó là vấn đề quản lý hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn Tập làm văn lớp 5 ở trường Tiểu học Văn Tiến . 2.2. Đối tượng nghiên cứu Trong đề tài này tôi nhằm nâng cao chất dạy học phân môn Tập làm văn lớp 5 ở các trường Tiểu học Văn Tiến
  5. IV.PHẠM VI NGHIÊN CỨU . - Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm chỉ gói gọn ở đối tượng giáo viên và học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Văn Tiến trong năm học 2012 – 2013 V. Ph-¬ng ph¸p nghiªn cøu: - Ph-¬ng ph¸p ®äc tµi liÖu; tæng hîp hÖ thèng kiÕn thøc trong ch-¬ng tr×nh. Học hỏi từ kinh nghiệm của đồng nghiệp trong giảng dạy tại trường, sinh hoạt cụm, trong các tạp chí, sách báo có liên quan mà đặc biệt là kinh nghiệm day học của bản thân được thể hiện trong từng tiết dạy, ngày dạy và từng năm dạy. Qua đó tôi sẽ rút kinh nghiệm cho bản thân mình và rút kinh nghiệm cho tiết dạy. Khắc phục những điểm chưa tốt trong giảng dạy nói chung và trong phân môn Tập làm văn nói riêng. Thùc hµnh ®iÒu tra: §èi t-îng häc sinh líp 5 n¨m häc 2012- 2013 Tr-êng TiÓu häc Văn Tiến. IV .ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Việc áp dụng "Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Tập làm văn cho học sinh lớp 5"ở trường Tiểu học Văn Tiến. Qua đó giúp giáo viên nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn lớp lớp 5 ở Trường Tiểu học PHẦN II: NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận. Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài Tập làm văn. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn lớp 5 nhất thiết
  6. người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ - câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh vật, thiên nhiên, con người, đoạn đối thoại, thuyết trình tranh luận... Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi. Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trò phải soạn giảng và học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả, mới mong nâng cao một cách bền vững chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học. § Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học (ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra. § Tôi tin rằng đề tài này nếu được áp dụng và vận dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho phân môn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5. 2. Cơ sở thực tiễn a. Thực trạng học sinh: Năm nay (2012 – 2013), tôi được phân công phụ trách lớp 5A với 33 học sinh. Hầu hết 33 học sinh của lớp 5A tôi chủ nhiệm còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm văn. Các hạn chế của học sinh là: - Bài viết của học sinh còn mắc nhiều lỗi chính tả. - Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả. - Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng. Nhiều em chưa biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
  7. - Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt. - Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả. Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập làm văn là một phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5. Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh không đạt yêu cầu ? Qua quá trình giảng dạy lớp 5, tôi nhận thấy học sinh học yếu Tập làm văn là do nhiều nguyên nhân. b. Nguyên nhân của thực trạng Theo tôi có sáu nguyên nhân như sau: 1. Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học, thiÕu sù quan s¸t tinh tÕ dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có thể đưa ®Ò v¨n văn vào triÓn khai bµi viÕt. 2. Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh. 3. Học sinh hay quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như: đọc sách, báo, truyện tranh nhảm nhí; chơi điện tử; xem phim ảnh không phù hợp với lứa tuổi nên vốn văn học rất hạn chế. 4. Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài. 5. Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó. 6. Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn Tập làm văn là một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt
  8. Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ. c.Về phía giáo viên: 1. Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập làm văn: Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung. 2. Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc vµ chän läc c¸c bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay; tai hại thay một số giáo viên còn cho học sinh học thuộc những bài văn mẫu điều đó đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng t-îng phong phú của học sinh. 3. Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình như tổ chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi – học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi næi tréi h¬n mới có thể tham gia trả lời còn những học sinh kh¸c thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến tên! Từ đó làm cho häc sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thó học tập. 4. Chưa xử lý kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá chưa đúng ý kiến của học sinh. 5. Trên đây là một số những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều GV khi day Tập làm văn. Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên? Cá nhân tôi sau nhiều lần thí nghiệm tại lớp mình và gãp ý cïng một số ®ång nghiÖp ë mét sè lớp khác đã thấy rất khả thi. * Sau đây là một số biện pháp giải quyết. II.CÁC GIẢI PHÁP 1. Đối với Giáo viên: * Người Giáo viên có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với häc sinh vì họ là những người chủ đạo tổ chức việc học của häc sinh, chính vì thế bản thân người Giáo viên cần phải: 1. T¹o ®éng c¬ häc tËp bÒn v÷ng ë häc sinh ®Ó cho c¸c em cã høng thó, cã mét néi lùc thóc ®Èy liªn tôc trong häc tËp nãi chung vµ trong häc tËp m«n tËp lµm v¨n nãi riªng. 2. Theo t«i, ng-êi gi¸o viªn cÇn x¸c ®Þnh râ: vÊn ®Ò c¬ b¶n ®Çu tiªn trong c«ng
  9. t¸c båi d-ìng häc sinh giái kh«ng ph¶i lµ cung cÊp kiÕn thøc, mµ lµ x©y dùng cho c¸c em mét ph-¬ng ph¸p häc tËp, c¸ch tiÕp cËn vµ chiÕm lÜnh kiÕn thøc mét c¸ch khoa häc, tõ ®ã c¸c em cã mét nh·n quan biÖn chøng ®Ó häc tèt kh«ng chØ ph©n m«n tËp lµm v¨n mµ cßn c¶ c¸c m«n häc kh¸c thËm chÝ c¶ c¸ch lµm viÖc vµ suy nghÜ. 3. Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cáo trình độ bản thân và nâng cao tay nghề. 4. Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp. 5. Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của häc sinh t×m ra ưu khuyết điểm chính của học sinh để nhận xét tổ chức sửa chữa, góp ý đánh giá. 6. Gi¸o viªn cũng cần rÌn cho häc sinh kĩ năng nhận xét bài bạn để từ đó nhận biết được những chỗ hay hoặc chưa hay khi làm bài của mình. Ví dụ: chỉ cần chØ rõ bài b¹n hay là vì b¹n biết dùng từ ngữ liên kết câu, b¹n biết sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa..., bạn biết lồng cảm xúc của mình vào bài viết và điều quan trọng là gi¸o viªn cần phải giúp häc sinh chỉ rõ ra những từ ngữ, câu hay cho lớp tham khảo. Điều này vừa động viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho häc sinh những ý tưởng, sáng tạo mới, häc sinh cảm thấy có thêm nguồn động lựcđể thi đua học tập, để bài của mình được cô và các bạn đọc trước lớp như vậy. Bên cạnh đó những hạn chế trong bài của häc sinh, gi¸o viªn cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại; ý nghÌo nàn qu¸, bài đủ ý, bài yếu hoặc em không có chuẩn bị bài sao ?...Điều đó sẽ làm cho các em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người gi¸o viªn cần thận trọng, trước tiên cần tìm cho bằng được những ưu điểm trong bài làm của bé dù nó chỉ là nhỏ nhoi để tuyên dương trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh hơn. 7. Người gi¸o viªn cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều häc sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình. VD: Tổ chức học nhóm 4 để các em được nói cho nhau nghe ý kiến của mình ( vì có những em rất ngại nói trước lớp và ngại nói cho giáo viên nghe, trái lại khi cùng tham gia vói các bạn mình thì các em rất tích cực ). Trong lúc này giáo viên cần đến tận nơi, từng bàn để lắng nghe và gợi ý, định hướng cho các em xây dựng
  10. bài...Được tham gia phát biểu, dần dần những em nhút nhát sẽ cảm thấy mạnh dạn và tự tin hơn khi đứng nói trước lớp. Bên cạnh đó phương tiện trực quan, các hình thức tổ chức trò chơi, thi đua... cũng không kém phần lôi cuốn HS học tập tích cực hơn. 8 .Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của học sinh để định hướng cho học sinh khắc phục trong lần sau. 9. Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay trong bài văn mẫu, đoạn hay, bài làm hay của bạn, từ sách báo tham khảo và được tạo thói quen ghi chép lại trong sổ tay văn học của mình. 2. Đối với học sinh: - Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp. - Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của đề. - Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình. - Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ sung cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn theo bài mẫu. 3. Làm thế nào để viết được một bài văn hay? 1.Thế nào là một bài văn hay? Một bài văn hay phải đạt được 3 yêu cầu: Nội dung, hình thức và cách trình bày. a) Nội dung: - Ý tưởng phải ăn khớp với đề bài. - Ý tưởng phải đúng, mới và đặc biệt. - Ý tưởng phải súc tích ( chứa nhiều ý trong một hình thức diễn đạt ngắn gọn). - Ý tưởng phải xếp đặt có thứ tự và mạch lạc. - Ý tưởng cuối cùng (ở phần kết bài) phải khái quát được các ý đã nêu ra. b) Hình thức: - Viết đúng từ vựng (sử dụng đúng từ ngữ). - Viết đúng nội dung (đặt câu đúng ngữ pháp, có đủ CN, VN). - Viết đúng dấu câu (sử dụng đúng các dấu câu đã được học). c) Trình bày:
  11. Chữ viết phải rõ ràng, ngay ngắn, đẹp; viết hoa đúng chỗ, các đoạn văn được phân bố hợp lí (không nên quá dài hoặc quá ngắn). 2. Làm thế nào để viết được một bài văn hay? Để viết được một bài văn hay, các em cần lưu ý một số điểm sau: a)Về cách dùng từ: - Phải dùng từ cho chính xác, lựa chọn từ ngữ nào hay nhất để làm cho câu văn có hồn. VD: Tả bông hoa: àNụ hoa chúm chím nở như như hớp từng giọt sương. àNhững cánh hoa nhỏ xíu đung đưa trong làn gió sớm. - Muốn dùng từ đượchay, các em phải luôn luôn có sự liên tưởng các sự vật với nhau, so sánh hiện tượng, sự vật này với hiện tượng, sự vật khác để chọn lựa được những từ ngữ có hình ảnh và gợi cảm. Các em nên sử dụng nhiều từ láy (từ tượng thanh, tượng hình) và từ ghép. b) Về cách đặt câu: - Khi viết câu, cần linh hoạt, không nhất thiết cứ phải viết theo một công thức đơn điệu mà có thể thay đổi cách diễn đạt (dùng biện pháp đảo ngữ). VD1: Trước mắt em là thảm lúa xanh bao la. Có thể đổi lại là:Thảm lúa xanh như mở rộng dần ra trước mắt em. VD2: Hai bên đường vàng rực hoa cúc. Đổi lại là: Vàng rực hai bên đường là những thảm hoa cúc. - Muốn viết được câu hay,còn phải sử dụng cách so sánh, nhân hoá. VD: + Nhìn từ xa, cánh đồng như một thảm lúa xanh khổng lồ... + Những bông hoa ngả nghiêng cười đùa hớn hở... * Một yêu cầu cuối cùng khi viết văn đối với học sinh giỏi là phải hết sức tránh sự cẩu thả về chữ viết, về cách trình bày, tránh các sai sót về chính tả. Muốn thế, trong khi viết, chúng ta phải hết sức chú ý suy nghĩ và vận dụng cho đúng,
  12. trình bày cho sáng sủa. Đặc biệt, khi viết xong bài, phải dành thời gian đọc lại để sửa lại những sai sót (nếu có thể). 4. Các giải pháp cụ thể: a. Dạy Tập làm văn qua giờ Luyện từ & câu. - Các em ít tham gia phát biểu trong giờ học Tập làm văn là do không biết thể hiện ý tưởng của mình bằng những câu như thế nào bởi lẽ vốn từ của các em quá ít. - Phạm vi vốn từ cần cung cấp cho học sinh ở tiểu học chủ yếu xoay quanh các chủ đề về thế giới xung quanh công việc của học sinh ở trường và ở nhà, tình cảm gia đình và vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người...chúng ta cần làm giàu nhận thức, mở réng tầm mắt cho HS, giúp em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, dạy các em biết yêu quý và trân trọng tình cảm đó. - Ở chương trình SGK mới này không cung cấp sẵn vốn từ mới cho các em mà thông qua hệ thống bài tập học sinh phải cùng suy luận và cùng nhau tìm tòi, bổ sung và làm giàu vống từ cho mình. Sau đó GV có thể cung cấp thêm tư liệu cho HS ( tư liệu cung cấp cần thực tế và gần gũi nằm trong sự hiểu biết của các em ). Sau đó GV cũng cần giúp các em HS làm rõ một số từ cần thiết, đó là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Việc dạy nghĩa từ được tiến hành trên tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu cũng cung cấp từ ngữ thì ở đó có dạy nghĩa của từ đòi hỏi GV phải nắm rõ nghĩa của từ và giải thích cho phù hợp với ngữ cảnh, với nội dung bài học với hoàn cảnh thực tế với đối tượng học sinh. Tuy nhiên việc giải nghĩa hết tất cả các từ là không thể và kh«ng cần thiết, GV phải có sự chọn lọc từ để giải nghĩa. Những từ được chọn lọc phải là những từ trung tâm có vai trò quan trọng trong hoạt động nói của HS trên một đề tài đã xác định, phải để cho các em giải nghĩa lấy ( kích thích tư duy HS làm cho HS lúc nào cũng cảm thấy mới lạ – Tạo hứng thú cho HS trong học tập ) cũng cần lưu ý rằng: từ nào GV nắm rõ nghĩa thì hãy giải thích còn nếu từ nào chưa rõ nghĩa thì không nên giải thích vì giải thích qua loa, sơ sài sẽ làm cho HS chán nản vì không đáp ứng nhu cầu tò mò của trẻ thậm chí làm cho trẻ hiểu sai lệch nghĩa của từ và khi vận dụng vào bài viết của mình sẽ không hiệu quả, làm sai lệch ý muốn diễn đạt. * GV có thể áp dụng một số phương pháp giải nghĩa của từ sau đây: - Giải nghĩa bằng trực quan: đưa ra các vật thật, hình ảnh, sơ đồ...
  13. - Giải nghĩa thông qua ngữ cảnh: GV cần được giải nghĩa vào câu hoàn chỉnh để làm rõ nghĩa từ đó. - Giải nghĩa bằng cách đối chiếu: GV so sánh nghĩa từ cần được làm rõ nghĩa với từ khác. VD: giải nghĩa từ “ ao” bằng cách so sánh với nghÜa từ “hồ” -> ao nhỏ hơn hồ. - Giải nghĩa từ bằng cách tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa: VD : Gần nghĩa với “lười biếng” là “biếng nhác” Trái nghĩa với thông minh là “đần độn” - Giải nghĩa từ bằng cách phân tích từ thành các từ tố ( tiếng ) VD : giải nghĩa từ “tâm sự” – (tâm:lòng ; sự:nỗi ) -> tâm sự:nỗi lòng của một người. - Giải nghĩa bằng định nghĩa: là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa, bằng một định nghĩa: VD : Quê hương là nơi sinh mình ra và lớn lên. b. Dạy tập làm văn qua giờ tập đọc: Trong giờ tập đọc, GV phải làm cho HS hiểu nghĩa một số từ cần thiết trong bài. Hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa “văn chương” của từ ngữ, điều này sẽ có ích cho HS khi vân dụng từ. GV có thể kết hợp với những bài tập điền từ thích hợp. VD : chọn từ “náo nức” hay từ “rộn ràng” điền vào chỗ trống cho thích hợp: Chúng em..................chào đón ngày khai trường. Trong phần tìm hiểu bài, GV gợi ý khuyến khích HS trả lời câu hỏi theo ý mình, hạn chế dần cách trả lời rập khuôn câu văn trong SGK. Nhất là đối với những bài học d¹ng thơ, nên cho HS sinh diễn đạt thành lời văn hoàn chỉnh ( nếu đề không yêu cầu tìm câu thơ ). Điều này tạo điều kiện cho HS vận dụng tối đa vốn từ sẵn có của mình, đồng thời giúp GV nắm được lượng từ có được ở mỗi HS để từ đó có biện pháp thích hợp cung cấp từ mới cho các em. c. Dạy Tập Làm Văn qua giờ Chính tả Để viết đúng chính tả HS phải nắm được nghĩa của từ. VD : Học sinh phải phân biệt được nghĩa của từ “lượng” và “lượn” - Lượn : bay lượn, lượn lờ.....
  14. - Lượng : trọng lượng, khối lượng, chất lượng..... Giáo viên nên vận dụng những bài tập để mở réng vốn từ cho HS. Ví dụ bài tập ghép từ. VD : Tìm từ ghép với “ mến” : mến yêu, mến thương, thân mến... Trong những giờ dạy Chính Tả so sánh là lúc GV khai thác và cung cấp thêm nguồn từ mới cho HS. Đối với dạng bài này, HS càng phải nắm rõ nghĩa của từ để phân biệt các từ phát âm sai của địa phương so với chuẩn. VD : Tuú tõng ®Þa ph-¬ng c¸c em th-êng phát âm thiếu chính xác các cặp từ có âm đầu là l/n ; ch/tr; d/gi/r... d. Dạy tập làm văn qua giờ kể chuyện: Khi nghe chuyện HS phải hiểu truyện, muốn thế trước hết HS phải hiểu từ. Chỉ cố diễn đạt câu truyện qua giọng nói, điệu bộ không thì chưa đủ mà GV cần cho HS nêu ra những từ ngữ các em chưa hiểu và hãy để các em đi tìm câu giải đáp cho chính mình, tất nhiên phải có sự gợi ý của GV. Nếu là những từ có nghĩa không rõ ràng GV có thể đưa vào ngữ cảnh để từ đó HS có thể nắm được nghĩa của từ đó. VD : Trong truyện “ Lời hứa của sâu róm” ( truyện đọc lớp 3 ), các em cần hiểu nghĩa của các từ : sâu róm, kén, sửng sốt. GV có thể giải thích nghĩa của từ “ sửng sốt” bằng cách đưa ra một câu trong đó có từ “ sửng sốt”. - Tôi vô cùng sửng sốt về kết quả học tập của cậu ấy. Từ VD này, HS sẽ dễ hiểu hơn nghĩa của từ “sửng sốt”: hết sức ngạc nhiên, lấy làm lạ... e. Sử dụng từ ngữ trong miêu tả: Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (đỏ mọng, đặc sệt, trong suốt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ...). Ví dụ 1: Cho các từ “ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập, là là, từ từ...” Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng chim... báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời... nhô lên sau luỹ tre xanh. Khói bếp
  15. nhà ai... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường làng đã... người qua lại.” Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ tinh, dải lụa, giọng bà tiên). - Hoa xoan nở từng chùm trông giống như... ( những chùm sao ) - Nắng cứ như...xối xuống mặt đất. ( thuỷ tinh ) - Giọng bà trầm ấm ngân nga như... ( tiếng chuông ) Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS phải suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ. g. Vận dụng các phương pháp theo hướng chủ động khi dạy Tập Làm văn: - Sử dụng mạng ý nghĩa trong viết đoạn: Học sinh sẽ tìm ý dưới dạng sơ đồ hình tròn. Mạng ý nghĩa thường dùng trong giai đoạn trước khi viết văn. Những từ ngữ học sinh tìm được thường tập trung ở phần thân bài nên đây là một lợi điểm cho việc phát triển ý từ thành đoạn văn hoàn chỉnh. Ví dụ: Lá rập rình lay động Cao lớn Từng cánh Thân sần sùi bạc hoa rực lửa phếch theo tháng năm - Sử dụng sơ đồ khung trong viết đoạn : Thường được dùng trong miêu tả cây cối (tả bộ phận hay tả từng giai đoạn phát triển). Sơ đồ khung sẽ giúp cho học sinh dễ nhận ra cấu trúc của mỗi kiểu bài. - Dùng thẻ từ phối hợp với tranh ảnh : Thường được sử dụng khi học sinh lựa chọn những chủ đề chưa tận mắt thấy hay chưa từng được quan sát. - Trong bài “ Cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật” thay vì trả lời đơn thuần các câu hỏi: + Tìm các phần mở bài, kết bài. Mỗi phần ấy nói điều gì? + Phần thân bài tả cái cối theo trình tự nào? à Giáo viên sẽ dùng những thẻ từ cho HS ghi vào đó những từ chỉ đặc điểm
  16. của từng phần trước khi nêu ý nghĩa của các phần đó. - Giáo viên có thể kết hợp sơ đồ khung để xác định bài văn miêu tả đồ vật. - Chúng ta thường đặt câu hỏi “Vì sao lại có những bài văn giống nhau?”ở đây chúng ta không bàn đến vấn đề GV bắt học sinh học thuộc mà chúng ta sẽ phân tích theo hai sơ đồ dưới đây : + GV nêu từ à Gợi ý đặt câu mẫu à Sản phẩm của học sinh đa phần sẽ giống nhau. + Học sinh tìm từ à Đặt nhiều câu khác nhau à Sẽ có nhiều đoạn văn khác nhau. - So sánh hai cách làm trên, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy việc làm mẫu của giáo viên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu nhÇm đó là mẫu hay nhất. Tuy nhiên, không vì thế mà giáo viên không làm mẫu, do đó phải yêu cầu và nhắc nhở học sinh khi tả chọn mẫu câu, đề tài khác giáo viên. - Giáo viên cần tập cho học sinh thãi quen lập dàn ý trước khi viết bài và cần phải viết nháp trước, sau đó chỉnh sửa trước khi viết bài hoàn chỉnh. Trên thực tế, vì sợ thiếu giờ nên chính giáo viên không yêu cầu học sinh làm nháp. Điều này dễ làm mất khả năng tư duy và khả năng nhớ của trẻ. Trong quá trình làm bài nháp, giáo viên cần luôn nhắc học sinh trú trọng ý tưởng mới nảy sinh không quá tập trung vào lỗi chính tả, ngữ pháp ở giai đoạn này. - Quá trình chỉnh sửa nên tạo điều kiện cho học sinh làm theo nhóm đôi (hoặc có thể làm theo trình độ của học sinh ...) để các em phát huy hết khả năng nhận xét, cũng như có điều kiện để giúp đỡ và học tập lẫn nhau. Học sinh được đọc nhiều đoạn văn khác, điều này cũng sẽ làm nảy sinh ý tưởng mới cho các em khi được lắng nghe và đọc bài của bạn. Giai đoạn này cần được trau dồi về ngữ pháp và trình bày bài viết để học sinh có thể lưu trữ sản phẩm của mình. - Việc tổ chức các phong trào hỗ trợ cho việc viết văn như dành một góc học tập để các em có thể trưng bày những sản phẩm của mình (những bài văn hay) để cả lớp cùng tham khảo. - Rèn cho học sinh kỹ năng nói trong Tập làm văn rất quan trọng. Giáo viên cần khuyến khích HS “tự do nói”, nghĩ được điều gì thoải mái diễn đạt ra điều ấy, điều này giúp HS mạnh dạn phát biểu đưa ra ý kiến của mình. Thường thì các em mang nặng tâm lý đứng lên lỡ nói sai sẽ bị thÇy cô mắng hoặc các bạn chê cười. Để
  17. giải tỏa gánh nặng tâm lý này, tôi thường để các em tự do đưa ra ý kiến của mình dù cho ý kiến đó chưa sát với yêu cầu của câu hỏi đặt ra. Đừng bao giờ phủ nhận sạch trơn những suy nghĩ của các em mà nên động viên để các em tự tin hơn khi phát biểu. Việc thực hiện “Sổ tay văn học” hay tạo “Thư viện nhỏ cho lớp” là rất cần và thiết thực. Nó còn giúp các em hạn chế việc mắc lỗi chính tả khi làm bài. Có nhiều giáo viên đặt ra câu hỏi tại sao có những em khi viết chính tả không hề mắc lỗi nào nhưng khi viết bài văn lại sai nhiều lỗi như thế ? Nguyên nhân chính là do khi viết bài văn các em không được nghe cô giáo phát âm từng tiếng như khi viết chính tả mà bản thân các em phải vận dụng tư duy để diễn đạt lại thành ý. Do đó, đa số các em thường viết theo những ngôn ngữ phát âm giao tiếp hằng ngày, hoặc cũng có khi do viết vội, viết câu dài gặp những từ khó thì lười đánh vần, từ đó viết sai chính tả. Nếu được chuẩn bị bài trước ở nhà (các em có thời gian kiểm tra chính tả, không bị khống chế thời gian làm bài) HS sẽ tự tin hơn và đỡ sai chính tả hơn khi làm bài. * Để hỗ trợ cho HS, chúng ta cũng cần cung cấp thêm cho các em một số từ (theo dạng chủ đề đang học) để các em tham khảo. VD1: Đối với dạng văn tả người - Tả vóc dáng : cao, lùn, gầy, mảnh mai, bụ bẫm, lụ khụ, yểu điệu … - Tả khuôn mặt, diện mạo : bầu bỉnh, rám nắng, xanh xao, trái xoan, hốc hác, đần độn, ủ rủ, cau có … - Tả làn da : nhăn nheo, xanh như tàu lá chuối, trắng trẻo, chai cứng, mốc thếch, da bánh mật… - Tả mắt : đen huyền, đen láy, bồ câu, ti hí, mắt ốc bươu… - ... VD2: Đối với dạng tả cây - Thân cây: sần sùi, ram ráp, trơn lùi. Đầy gai … - Lá cây: xanh th¾m, xanh mượt, xanh uá … - ... Ngoµi ra GV cÇn ®Æt mua gióp häc sinh b¸o Nhi ®ång ch¨m häc vµ V¨n häc tuæi th¬ cho häc sinh ®Ó c¸c em kh«ng nh÷ng cã thªm nh÷ng kiÕn thøc bµi häc, kiÕn thøc x· héi bæ Ých mµ cßn t¹o kh¶ n¨ng giao tiÕp khi c¸c em tham gia viÕt bµi.
  18. * Nói tóm lại, muốn giúp cho học sinh có được vốn từ tích cực, bền vững phải luyện cho các em vận dụng từ ngữ vào những dạng bài tuân theo nguyên tắc xác định và phải vận dụng thường xuyên trong cuộc sống. 5. Phương pháp chung khi làm bài Tập làm văn: Khi làm một bài Tập làm văn, chúng ta cần hướng cho học sinh làm bài theo 4 bước sau: 1.Đọc kĩ đề bài: Đọc kĩ đề bài để nắm vững ý nghĩa từng từ, từng câu và tự trả lời 4 câu hỏi sau: - Đề bài thuộc thể loại văn nào? - Đề bài đòi hỏi ta giải quyết những vấn đề gì? - Phạm vi bài làm đến đâu? - Trọng tâm đề bài ở chỗ nào? 2.Tìm ý - Lập dàn bài: *Sau khi nắm chắc đề bài (ở bước 1), các em không được vội vàng viết ngay bài làm, vì như thế ý tưởng sẽ lộn xộn, khó sắp xếp. Cần lập một dàn bài chi tiết gồm 3 phần: Mở mài, thân bài, kết bài. *Để lập dàn bài cho một bài văn, các em cần đi theo các bước sau: - Bước 1: Chuẩn bị một tờ giấy nháp trắng để nhập toàn bộ nội dung của dàn ý trên cùng một mặt giấy để tiện theo dõi (không nên ghi dàn ý vào 2 mặt của tờ giấy vì như thế sẽ khó quan sát được toàn bộ các ý chính cần có của bài văn). - Bước2: Ghi sẵn 3 phần lớn của bài văn: 1.MB / 2.TB / 3.KB (Viết phần 1 xong để cách khoảng 2-3 dòng rồi mới ghi phần 2; phần 3 ghi xuống cuối tờ nháp, chỉ cần 2-3 dòng là đủ. Các khoảng trắng để ta nhập các ý cần phải có ở mỗi phần vào. - Bước 3: Nhớ lại những đặc điểm về thể loại, nhớ lại đặc điểm dàn bài chung của thể loại, dựa vào ý chính của đề để lập một dàn bài chi tiết cho bài văn mình chuẩn bị viết. Tuỳ theo thể loại và ý chính của đề, ta tìm ý có liên quan đến đề bài. Tìm những ý chính (sẽ nói rõ ở phần chính) và những ý phụ (sẽ nói sơ qua ở phần phụ). Viết nhanh ra giấy nháp những ý đã tìm hoặc đã suy nghĩ được trong đầu óc.
  19. Ta có thể ví dàn bài của một bài văn giống như một cái sườn nhà. Có dựng được sườn rồi mới thì mới có thể lợp mái, đóng vách, ráp cửa, tô quét,... Trong dàn bài, ta sắp xếp các ý cho có thứ tự, điều gì đáng nói trước, điều gì nên để sau. Tránh những ý nhắc đi nhắc lại. Phần mở bài có những ý gì? Thân bài có mấy đoạn? đoạn nào trọng tâm?(Trong những ý lớn có những ý nhỏ nào?). Phần kết bài nên có những ý gì? Ghi nhanh xong dàn bài, đọc lại để sửa hoặc thêm những ý cần thiết, bỏ những ý thừa. 3.Viết thành một bài văn hoàn chỉnh: Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất.Trên cơ sở dàn bài vừa lập, em viết thành một bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (MB,TB, KB), 3 phần này nối tiếp nhau tạo nên một văn bản thống nhất từ đầu đến cuối để giải quyết vấn đề nêu ra ở đề bài. Khi viết, phải viết từng câu, nghĩ 2-3 câu liền rồi mới viết để các câu đứng cạnh nhau không bị khập khiễng về cách diễn đạt ý. Khi đặt lời văn để diễn đạt các ý (đã trình bày ở dàn bài chi tiết), các em lưu ý cách diễn đạt có hình ảnh, gợi cảm và sinh động bằng cách sử dụng các biện pháp tu từ, các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, các từ tượng thanh, tượng hình,...Ý hay là nhờ ở lời văn rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy, chúng ta cần đặt câu đúng ngữ pháp, tránh viét câu quá dài, tạo nên những câu văncó nhiều ý, ý luẩn quẩn, lộn xộn hoặc không rõ ràng. Đặc biệt, trong khi trình bày, cần đặt các dấu câu đúng chỗ, thể hiện đúng nội dung đang trình bày. Sử dụng dấu câu hợp lí, đúng chỗ cũng là một yếu tố quan trọng giúp cho bài văn của chúng ta trở nên rõ ràng, rành mạch, quyết định tới 40% thành công của một bài văn. Khi trình bày lưu ý không viết tắt, không viết chữ số, trừ những số về đo lường và ngày, tháng, năm. 4.Đọc lại bài làm: Sau khi viết xong, cần đọc lướt lại bài văn để sửa các lỗi (nếu có thể viết thêm các nét được) về chính tả, dấu câu,... *Lưu ý : - Khi soát lại bài trên giấy kiểm tra, tuyệt đối không tẩy xoá, sửa chữa hoặc chèn thêm từ hoặc câu vào, vì như thế bài viết trở nên lem nhem, rất mất cảm tình.
  20. Do vậy, ở khâu viết bài, các em cần trình bày bài cẩn thận, tránh viết cẩu thả (viết ngoáy), tránh bỏ từ, bỏ tiếng khi viết (lỗi này hay xảy ra với những học sinh hay viết ngoáy,viết vội vàng) - Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản. - Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm. - Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài vào vở, học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Đó là những yếu tố giúp học sinh thành công trong quá trình học Tập làm văn. Cuối cùng, khi đã làm bài xong học sinh cần kiểm tra lại bài viết của mình trước khi nộp bài. 6. Giáo viên chấm bài và trả bài viết Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả người, 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có chấm bài chu đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả. a. Chấm bài: Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những chỗ hay, chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng HS. Khi chấm điểm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới….. b. Trả bài viết:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2