intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu luật tố tụng dân sự

Chia sẻ: Nguyen Quan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

451
lượt xem
214
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo Điều 9 Bộ luật dân sự (BLDS), tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật dân ự hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu luật tố tụng dân sự

  1. Tài liệu luật tố tụng dân sự CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1. Khái niệm Luật tố tụng dân sự Việt Nam Theo Điều 9 Bộ luật dân sự (BLDS), tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; khi  quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm  quyền công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi  thường thiệt hạị. Theo Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, các Toà án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiệm vụ xét xử những vụ  án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật để bảo vệ pháp chế  xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản,  tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Do vậy, khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền yêu cầu Toà  án bảo vệ. Nhận được yêu cầu bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể theo quy định của pháp luật Toà án phải xem xét giải quyết kịp thời để bảo vệ bảo  vệ quyền dân sự của họ. Phân loại vụ việc dân sự Các vụ việc được Toà án giải quyết, phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động được gọi là  vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những vụ việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên thì được gọi là vụ án dân sự; đối với những vụ việc  không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên, đương sự chỉ yêu cầu Toà án xác định một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền,  nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác hay yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền dân sự thì được gọi là việc dân sự. Để giải quyết được vụ việc dân sự, Toà án phải triệu tập các đương sự ­ các bên của vụ việc dân sự đến yêu cầu họ trình bày yêu cầu của mình, cung  cấp chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu đó; triệu tập người làm chứng đến trình bày về những vấn đề của vụ việc mà họ đã chứng kiến sự. Ngoài  ra, trong một số trường hợp Toà án còn phải triệu tập cả những người có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn hoặc những người khác đến yêu cầu họ  cho ý kiến về những vấn đề của vụ việc dân sự. Từ đó, việc giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh các quan hệ khác giữa các cơ quan tiến hành tố  tụng (Toà án, Viện kiểm sát) với những người tham gia tố tụng; giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau và giữa những người tham gia tố tụng với  nhau. Để bảo đảm việc giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ việc dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể Nhà nước phải đặt ra các  quy phạm pháp luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Trong  khoa học pháp lý, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự được gọi là “tố tụng dân sự” và tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ  phát sinh trong tố tụng dân sự thành một ngành luật được gọi là luật tố tụng dân sự. Như vậy, luật tố tụng dân sự Việt Nam là ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy  phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự  nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. Hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về tố tụng dân sự. ý kiến thứ nhất cho rằng thi hành án dân sự cũng là một giai đoạn của tố tụng dân sự. Ý  kiến khác lại cho rằng thi hành án là hoạt động hành chính ­ tư pháp vì thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất chấp hành nhưng là chấp hành  quyết định của Toà án ­ quyết định của Cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, số đông các luật gia cho rằng thi hành án dân sự là một bộ phận của tố tụng dân  sự do nó chịu sự chi phối bởi những nguyên tắc tố tụng dân sự 2. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của Luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2.1. Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam là các quan hệ giữa Toà án, Viện kiểm sát, những người tham gia tố tụng và cơ quan thi  hành án phát sinh trong tố tụng dân sự. Căn cứ vào mục đích tham gia tố tụng của các chủ thể có thể chia các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự thành các loại: ­ Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát với đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; ­ Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát với người làm chứng, người giám định, người phiên dịch; ­ Các quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án với nhau. Trong mỗi loại quan hệ, yêu cầu đối với các chủ thể có thể khác nhau. Việc xác định, quy định và thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tố tụng của các  chủ thể có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, đúng đắn. 2.2. Phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự Việt Nam Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật phụ thuộc rất lớn vào tính chất của các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Xuất  phát từ tính chất các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự chủ yếu là các quan hệ giữa Toà án, Viện kiểm sát với những người  tham gia tố tụng nên luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ này bằng hai phương pháp bảo đảm mệnh lệnh – phục tùng và bảo đảm quyền tự định  đoạt của đương sự. CHƯƠNGII. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự Việt Nam Theo khái niệm chung nhất, các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự được hiểu là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng và thi  hành pháp luật tố tụng dân sự đồng thời thể hiện những đặc trưng cơ bản của ngành luật.  Chương II, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định 22 điều luật từ điều 3 đến điều 24. Tuy nhiên, đại đa số các điều luật là những nguyên tắc chung của cả hệ  thống pháp luật hoặc một số bảo đảm pháp lý chung chứ không phải tất cả đều là những nguyên tắc riêng có của tố tụng dân sự.  Trong chương trình này, chúng tôi chỉ trình bày những nguyên tắc thể hiện rõ những đặc trưng của tố tụng dân sự. 2. Nội dung các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự Việt Nam 2.1 Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 Bộ luật TTDS) Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự bắt nguồn từ nguyên tắc bảo đảm quyền tự quyết của các bên đối với các vấn đề liên  quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ dân sự. Trong tố tụng dân sự, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện ở khả  1
  2. năng những người tham gia tố tụng tự do định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp  bị xâm hại. Đó cũng là quan niệm chung nhất về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được nhiều luật gia trên thế giới chia sẻ. Tuy nhiên, cũng  như mọi quyền tự do khác, người ta chỉ được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và không ảnh hưởng tới quyền tự do của người khác. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là một trong những nguyên tắc cốt lõi, đặc trưng nhất của Luật tố tụng dân sự và được biểu  hiện dưới nhiều nội dung khác nhau: ­ Toà án không tự đưa các tranh chấp dân sự ra Toà để giải quyết, việc khởi kiện hay không khởi kiện là do các bên đương sự tự quyết định. Chính các  bên đương sự vừa là người quyết định việc khởi động tiến trình tố tụng bằng cách đưa vụ án dân sự ra Toà, đồng thời cũng là người quyết định các hành  vi tố tụng tiếp theo, như: nguyên đơn có thể rút đơn khởi kiện hoặc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình; bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố  đối với nguyên đơn, bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, thừa nhận hoặc không phản đối  những tình tiết, sự kiện mà bên nguyên đơn đưa ra; các bên đương sự có quyền thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự một cách tự  nguyện, không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội; tự mình quyết định việc kháng cáo hay không kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm…; ­ Bộ máy xét xử sẽ chỉ hoạt động khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ trong phạm vi mà các bên đương sự có yêu cầu. Toà án thụ lý  đơn khởi kiện chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu khởi kiện và chỉ trong phạm vi những bị đơn đã được nêu trong đơn khởi kiện đó (ngoại lệ là đối với  trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Toà án có quyền tuyên bố giao dịch vô  hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu mà không phụ thuộc vào yêu cầu của các bên đương sự); ­ Thủ tục xét xử phúc thẩm chỉ được bắt đầu khi và chỉ khi có đơn kháng cáo của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện (hoặc quyết định kháng nghị của  Viện kiểm sát) đối với bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo (hoặc Viện  kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị) thì Toà án cấp phúc thẩm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ việc. Bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo,  kháng nghị, đối với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét nội dung  kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có thẩm quyền xem xét, quyết định. 2.2. Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6 Bộ luật TTDS) Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự tranh chấp quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau  nhưng bình đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai bên đương sự: người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải  chứng minh. Quy tắc chung về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự cũng đã được đề cập đến trong các Pháp lệnh thủ tục giải  quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động. Bên cạnh đó, xuất phát từ nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án trong suốt quá trình tố tụng dân  sự, các Pháp lệnh tố tụng trước đây quy định Toà án phải giữ vai trò tích cực và chủ động trong việc xác minh, thu thập chứng cứ, theo đó Toà án không  chỉ giới hạn ở những tài liệu, chứng cứ đã được đương sự xuất trình mà còn có thể (nếu xét thấy cần thiết) áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ do  pháp luật quy định để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác. Tuy nhiên, quy định này dễ dẫn đến tình trạng Toà án lạm dụng quyền lực,  thiên vị cho một bên hoặc “làm thay” cho các bên đương sự khi giải quyết vụ việc và hậu quả là quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh  của đương sự trong tố tụng dân sự chỉ còn mang tính hình thức, không còn mấy ý nghĩa trong thực tiễn. Để khắc phục một phần những khiếm khuyết  trong các Pháp lệnh, đồng thời mở rộng nguyên tắc tự định đoạt của đương sự cũng như tăng cường yếu tố tranh tụng trong tố tụng dân sự, Điều 6 Bộ  luật TTDS quy định nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự như sau: “1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng  minh như đương sự. 2. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này là: ­ Mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình. Nghĩa vụ  này cũng được áp dụng trong trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc quyền, lợi ích hợp pháp  của người khác. Bên cạnh đó, nguyên tắc chung về nghĩa vụ chứng minh của các bên đương sự cũng có những ngoại lệ. Những ngoại lệ này có thể  được quy định ngay trong Bộ luật TTDS (ví dụ như quy định tại Điều 80 Bộ luật về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh) hoặc có thể do pháp  luật nội dung quy định. Ví dụ: theo quy định tại khoản 1 Điều 308 và quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 621 BLDS 2005, trong trường hợp người dưới 15  tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian học tại trường hoặc trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp  quản lý thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có lỗi. Điều đó cũng có nghĩa, nếu áp dụng một cách máy  móc quy định tại Điều 6 Bộ luật TTDS thì người có quyền (người bị thiệt hại) phải chứng minh lỗi của trường học, bệnh viện hoặc tổ chức khác trong việc  vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc suy đoán lỗi của người vi phạm nghĩa vụ, nên trong trường hợp này, người có quyền sẽ không phải  chứng minh lỗi của trường học, bệnh viện, tổ chức khác, mà ngược lại, việc chứng minh mình không có lỗi sẽ thuộc trách nhiệm của trường học, bệnh  viện, tổ chức khác đó (khoản 3 Điều 621 BLDS 2005); ­ Đương sự có nghĩa vụ chứng minh nên khi không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng  minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó (khoản 4 Điều 79 Bộ luật). Hậu quả đó có thể là yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu mà đương sự đưa ra sẽ  không được Toà án chấp nhận hoặc chỉ được Toà án chấp nhận một phần…; ­ Vai trò của Toà án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ được đổi mới theo hướng Toà án chỉ áp dụng một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ  trong những trường hợp luật định và việc tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do Bộ luật này  quy định (từ Điều 85 đến Điều 94 Bộ luật); trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán không được  tự mình xác minh, thu thập mà phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ (khoản 1 Điều 85 Bộ luật). 2.3. Nguyên tắc hoà giải trong tố tụng dân sự (Điều 10 Bộ luật TTDS) Hoà giải là sự thoả thuận giữa các bên đương sự về việc giải quyết toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện và tự nguyện chấm dứt tranh chấp bằng con  đường tố tụng. Trong Bộ luật TTDS Việt Nam, hoà giải vừa được quy định với ý nghĩa là quyền tự định đoạt của đương sự, đồng thời cũng được khẳng  định là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng dân sự. Tại Điều 10 Bộ luật TTDS quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và  tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này là: ­ Hoà giải là một thủ tục tố tụng được thực hiện đối với một số việc dân sự (chẳng hạn như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn…) và mọi vụ án dân sự,  trừ trường hợp vụ án dân sự Bộ luật quy định không tiến hành hoà giải được (bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng  mặt; đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi  2
  3. dân sự) và trừ trường hợp vụ án dân sự không được hoà giải (yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; những vụ án dân sự phát  sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội). Là thủ tục tố tụng, hòa giải được tiến hành ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi thụ  lý vụ án cho đến khi Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự tại phiên toà phúc thẩm; ­ Hoà giải trong tố tụng dân sự Việt Nam là hoà giải trước Toà án, hay còn gọi là hoà giải trong quá trình tố tụng và được thực hiện với sự hiện diện của  Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Tuy Toà án không phải là chủ thể của quyền hoà giải, và cũng không đại diện cho lợi ích của bất cứ bên đương sự  nào, nhưng với tư cách là cơ quan xét xử có trách nhiệm tiến hành hoà giải, Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hoà giải. Toà án  có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự hoà giải với nhau, giúp cho các bên đương sự hiểu rõ pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội đang tranh  chấp, giải thích cho họ về hậu quả pháp lý trong trường hợp hoà giải thành và hoà giải không thành. Bên cạnh đó, Toà án có nhiệm vụ giám sát việc  thực hiện quyền tự định đoạt trong việc hoà giải của các bên đương sự nhằm đảm bảo tiến trình hoà giải diễn ra theo đúng quy định của pháp luật và có  quyền không công nhận kết quả hoà giải, nếu sự thoả thuận đó trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người  khác. CHƯƠNG III. NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ 1. Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật chỉ gồm Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, vai trò của Viện Kiểm  sát nhân dân trong tố tụng dân dự cũng chỉ là phụ. Nhiều vụ việc được thụ lý, giải quyết tại Toà án nhân dân không nhất thiết phải có sự tham gia của  đại diện Viện Kiểm sát nhân dân (Công nhận thuận tình ly hôn…). 1.1. Tòa án nhân dân + Cơ cấu tổ chức hệ thống Toà án nhân dân ở nước ta, Toà án nhân dân được tổ chức theo 3 cấp: ­ Toà án nhân dân Tối cao; ­ Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Gọi chung là cấp tỉnh); ­ Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Gọi chung là cấp huyện). Tuy nhiên, phụ thuộc vào thẩm quyền giải quyết vụ, việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm đã được quy định tại các Điều 33, Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân  sự, thì các cấp xét xử cũng theo cấp Toà án tương ứng. + Các cấp xét xử trong hệ thống Toà án nhân dân Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì khi vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện, thì  Toà án nhân dân cấp tỉnh sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, nếu có kháng cáo hoặc kháng nghị; còn khi vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết  theo thủ tục sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp tỉnh, thì Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sẽ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, nếu có kháng cáo  hoặc kháng nghị. + Thẩm quyền giám đốc thẩm trong hệ thống Toà án nhân dân Giám đốc thẩm tuy không phải là một cấp xét xử, nhưng khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật  nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 282 Bộ luật Tố tụng dân sự. Thẩm quyền giám đốc thẩm được quy định tại Điều 291 Bộ luật Tố tụng dân sự như sau: 1) Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện bị  kháng nghị. 2) Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân Tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án  nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị. 3) Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân  sự, Toà kinh tế, Toà lao động của Toà án nhân dân tối cao bị kháng nghị. 4) Những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại  khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án. Như vậy, khi vụ việc dân sự được giải quyết qua nhiều cấp, nhiều khâu thì xuất hiện rất nhiều quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Quan hệ giữa các cấp  Toà án với nhau thông qua thẩm quyền sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm cũng thuộc nhóm các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phái sinh + Thành phần tiến hành giải quyết vụ việc dân sự Đối với các vụ việc dân sự, thẩm quyền chung là của Toà án nhân dân. Tuy nhiên, với mỗi vụ việc cụ thể, Toà án lại giao cho Thẩm phán, Thư ký Toà  án trực tiếp phụ trách trong giai đoạn chuẩn bị hồ sơ; khi đưa ra xét xử sơ thẩm Hội đồng xét xử được thành lập với thành phần một Thẩm phán, hai Hội  thẩm nhân dân. Ngoài ra, trong nhiều vụ việc, Viện Kiểm sát nhân dân cũng tham gia vào quá trình giải quyết theo thẩm quyền mà pháp luật có quy định. Trong mỗi phiên giải quyết vụ việc dân sự còn có sự tham gia của một thư ký phiên tòa. Như vậy, tuỳ thuộc vào từng vụ việc mà thành phần tiến hành  giải quyết vụ việc dân sự cũng khác nhau và theo đó các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự cũng nhiều, ít khác nhau. 1.2. Viện kiểm sát nhân dân + Cơ cấu tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân: Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tham gia theo từng cấp tương ứng với cấp Toà án, Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta cũng được tổ chức  theo 3 cấp: ­ Viện kiểm sát nhân dân tối cao; ­ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Gọi chung là cấp tỉnh); ­ Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Gọi chung là cấp huyện). + Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án nhân dân và thực hiện  quyền kháng nghị đối với các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm để Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết theo thủ tục  phúc thẩm; kháng nghị đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án để Toà án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục giám đốc  thẩm, tái thẩm. So với quy định trước khi có BLTTDS, vai trò tham gia của Viện kiểm sát nhân dân đã hạn chế rất nhiều. Viện kiểm sát nhân dân không  khởi tố vụ án dân sự. Viện kiểm sát cũng ít tham gia trực tiếp đối với quá trình giải quyết vụ án dân sự. Điều 21 BLTTDS quy định: Viện kiểm sát nhân  dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo  3
  4. đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được kịp thời, đúng pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân tham gia đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà  đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ này, giữa Viện Kiểm sát và Toà án, giữa Viện Kiểm sát và đương sự hay những người tham gia tố tụng khác cũng xuất  hiện những quan hệ mà Pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh. 2. Người tiến hành tố tụng * Chánh án + Chánh án Toà án cấp sơ thẩm Trong tố tụng dân sự, Chánh án Toà án cấp sơ thẩm (cấp tỉnh hoặc cấp huyện) có quyền xem xét vụ việc dân sự có thuộc thẩm quyền của Toà án mình  hay không, bao gồm cả thẩm quyền theo cấp Toà án, theo lãnh thổ hoặc theo vụ việc… Quyết định của Chánh án Toà án cấp sơ thẩm thụ lý vụ việc  dân sự để giải quyết sẽ làm phát sinh các quan hệ tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật. Quy trình tố tụng dân sự được bắt đầu, theo đó, các quan  hệ pháp luật tố tụng dân sự được dần dần xuất hiện. Ngoài tư cách là Chánh án, Chánh án Toà án cấp sơ thẩm với tư cách là Thẩm phán có thể trực tiếp giải quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm  và các quan hệ giữa Toà án với những người tham gia tiến hành tố tụng dân sự khác và những người tham gia tố tụng dân sự (các đương sự, người làm  chứng…) đều theo quy định của pháp luật. + Chánh án Toà án cấp phúc thẩm Trong tố tụng dân sự, Chánh án Toà án cấp phúc thẩm (cấp tỉnh hoặc Toà chuyên trách Toà án nhân dân Tối cao) có quyền xem xét thụ lý vụ án để xét  xử phúc thẩm theo quy định tại Điều 257 Bộ luật Tố tụng dân sự và thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ toạ  phiên toà. + Chánh án Toà án cấp giám đốc thẩm Theo quy định tại Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Chánh án Toà án nhân dân Tối cao, có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án,  quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Chánh án Toà  án nhân dân cấp tỉnh, có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh còn có quyền làm chủ toạ phiên toà giám đốc thẩm nếu vụ án được đưa ra xét xử giám đốc thẩm. Chánh án Toà án  nhân dân tối cao làm chủ toạ phiên toà giám đốc thẩm nếu vụ án được đưa ra xét xử giám đốc thẩm tại Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán. Như vậy, các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có vai trò chủ thể của chánh án Toà án nhân các cấp cũng được quy định rất cụ thể trong Bộ luật Tố  tụng dân sự. * Thẩm phán Trong tố tụng dân sự, Thẩm phán đóng một vai trò chủ thể không thể thiếu trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Ngay từ khi vụ, việc dân sự được Toà án thụ lý theo đúng thẩm quyền, Thẩm phán được giao chuẩn bị hồ sơ vụ việc dân sự đó đã trở thành chủ thể bắt  buộc của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Thẩm phán được giao chuẩn bị hồ sơ vụ việc dân sự không nhất thiết phải ngồi chủ toạ phiên toà sơ thẩm, do đó Thẩm phán được giao nhiệm vụ chủ  toạ phiên toà sơ thẩm lại là chủ thể trong quan hệ với các Hội thẩm nhân dân và chủ thể trong các mối quan hệ pháp luật tố tụng dân sự khác. * Hội thẩm nhân dân Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm. Khi tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và  như vậy họ cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự như Thẩm phán chủ toạ phiên toà. * Thư ký Tòa án Thư ký Toà án tham gia tố tụng dân sự với tư cách giúp Thẩm phán trong quá trình xây dựng hồ sơ và chuẩn bị xét xử. Trong thực tế, vai trò của Thư ký  Toà án cũng rất quan trọng trong việc chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết trước khi mở phiên toà. Trong trường hợp hoà giải, nhất là hoà giải thành mà Toà án ra quyết định công nhận sự thoả thuận giữa các bên đương sự thì Thư ký Toà án làm biên  bản hoà giải thành và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của nội dung biên bản đó, giúp cho Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận giữa  các bên đương sự được đúng pháp luật. Điều 43 BLTTDS quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Thư ký Tòa án như: Chuẩn bị các công tác nghiệp vụ cần thiết trước khi khai mạc phiên toà; Phổ  biến nội quy phiên toà; Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà; Ghi biên bản phiên toà; Thực hiện các hoạt  động tố tụng khác theo quy định của Bộ luật. Xuất phát từ các nhiệm vụ cụ thể đó, Thư ký Tòa án cũng là chủ thể quan trọng trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. 3. Người tham gia tố tụng dân sự 3.1. Đương sự Điều 56 BLTTDS quy định: Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên  quan. Đương nhiên, đương sự là chủ thể không thể thiếu trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Không có đương sự thì không có vụ việc dân sự và không có  quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh. Điều 58 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của đương sự. Với các quyền và nghĩa vụ này, đương sự tham gia với tư cách chủ thể các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Thành phần đương sự trong các vụ, việc dân sự có khác nhau và vai trò chủ thể của họ cũng khác nhau. Ngoài các quyền, nghĩa vụ chung giữa họ, mỗi  vị trí còn có các quyền, nghĩa vụ đặc thù. Hãy xem xét từng vị trí cụ thể. 3.1.1. Nguyên đơn Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải  quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình  phụ trách cũng là nguyên đơn. Theo quy định tại Điều 59 BLTTDS thì ngoài các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật, nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ  sau đây: ­ Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện; ­ Đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng; 4
  5. ­ Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án. ­ Nguyên đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện. 3.1.2. Bị đơn Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án  giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. Theo quy định tại Điều 60 BLTTDS thì ngoài các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật, bị đơn có các quyền, nghĩa vụ sau  đây: ­ Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; ­ Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu; ­ Được Toà án thông báo về việc bị khởi kiện. ­ Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án giải quyết vắng mặt bị đơn. 3.1.3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan  đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng  với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia  tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên  quan. Theo quy định tại Điều 61 BLTTDS thì ngoài các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 58 của Bộ luật, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan  có các quyền, nghĩa vụ sau đây: ­ Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn; ­ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 59 của Bộ luật này; ­ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có các quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy  định tại Điều 59 của BLTTDS; ­ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có các quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại  Điều 60 của BLTTDS. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự còn quy định về việc kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng  (Điều 62). 3.2. Người đại diện của đương sự Trong tố tụng dân sự, người đại diện của đương sự cũng đóng vai trò chủ thể quan trọng trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều  73 BLTTDS thì người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền. ­ Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế  quyền đại diện theo quy định của pháp luật. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người  được bảo vệ. ­ Người đại diện theo uỷ quyền được quy định trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự; đối với việc ly hôn, đương sự  không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Liên quan đến người đại diện trong tố tung dân sự, Điều 75 BLTTDS quy định những trường hợp không được làm người đại diện. Trong tố tụng dân sự việc chỉ định người đại diện cũng được quy định nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người  đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này thì Toà án phải chỉ  định người đại diện để tham gia tố tụng tại Toà án (Điều 76). Việc chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự và hậu quan của nó cũng cần chú ý khi xem xét quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Người đại diện theo pháp  luật, người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự  mình tham gia tố tụng dân sự hoặc uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự theo thủ tục do Bộ luật này quy định. Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo uỷ quyền thì đương sự hoặc người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc uỷ quyền cho người  khác đại diện tham gia tố tụng theo thủ tục do Bộ luật này quy định. Quyền, nghĩa vụ của người đại diện cũng được quy định cụ thể tại Điều 74 BLTTDS. 3.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự Điều 63 BLTTDS : 1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Toà án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và  lợi ích hợp pháp của đương sự. 2. Những người sau đây được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư; b) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xoá án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp  dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản chế hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các ngành  Toà án, Kiểm sát, Công an. 3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều đương sự trong cùng một vụ án, nếu quyền  và lợi ích hợp pháp của những người đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể cùng bảo vệ quyền và  lợi ích hợp pháp của một đương sự trong vụ án. Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (điều 64) 3.4. Người làm chứng Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án có thể được Toà án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng  lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng. 5
  6. Quyền, nghĩa vụ của người làm chứng được quy định tại Điều 66 BLTTDS. 3.5. Người giám định Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự  thoả thuận lựa chọn hoặc được Toà án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. Quyền, nghĩa vụ của người giám định được quy định tại Điều 68 BLTTDS. 3.6. Người phiên dịch Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng  được tiếng Việt. Người phiên dịch được các bên đương sự thoả thuận lựa chọn và được Toà án chấp nhận hoặc được Toà án yêu cầu để phiên dịch. Trong trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người câm, người điếc biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân  thích có thể được Toà án chấp nhận làm phiên dịch cho người câm, người điếc đó. Việc thay đổi người giám định, người phiên dịch cũng được quy định trong BLTTDS đó là: 1. Trước khi mở phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Chánh án Toà án quyết định. 2. Tại phiên toà, việc thay đổi người giám định, người phiên dịch do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi. Hội  đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa số. Trong trường hợp phải thay đổi người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc trưng cầu người giám định khác  hoặc thay người phiên dịch khác được thực hiện theo quy định tại Điều 67 và Điều 69 của Bộ luật này. CHƯƠNG IV. THẨM QUYỀN VỀ DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN  1. Khái niệm Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ  máy nhà nước do pháp luật qui định. Có thể hiểu một cách đơn giản: «thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án là quyền xem xét thụ lý, giải  quyết các vụ việc dân sự bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự ». Theo qui định tại Điều 1 của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS), Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án và các việc về dân sự, về hôn nhân  và gia đình, về kinh doanh, thương mại và lao động. Xét về bản chất, các quan hệ pháp luật này đều có cùng tính chất là các quan hệ tài sản hay quan  hệ nhân thân được hình thành trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết và tự định đoạt của các chủ thể. Nói cách khác đây là những  quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. 2. Các qui định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự 2.1 Thẩm quyền theo vụ việc Thẩm quyền theo vụ việc còn được gọi là thẩm quyền chung về dân sự của tòa án. Những vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án bao gồm các  vụ án dân sự và các việc dân sự phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các việc khác  do pháp luật qui định. Theo quy định của BLTTDS các loại việc này được qui định từ Điều 25 đến Điều 32, theo đó có thể phân ra các nhóm cụ thể như  sau. 2.1.1 Những vụ án dân sự ­ Tranh chấp dân sự (điều 25) ­ Tranh chấp hôn nhân, gia đình (điều 27) ­ Tranh chấp kinh doanh, thương mại (điều 29) ­ Tranh chấp lao động (điều 31) 2.1.2. Việc dân sự Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Toà án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là  căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức  khác; yêu cầu Toà án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Những yêu cầu này được tòa án  thụ lý và giải quyết nếu chúng thuộc các trường hợp được quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật TTDS. 2.2. Thẩm quyền theo cấp tòa án 2.2.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện Qui định tại các Điều 32 Luật Tổ chức toà án, Điều 25, 26, 27, 28, 29 và Điều 33 BLTTDS 2.2.2. Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Điều 34 BLTTDS 2.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền của toà án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu 2.3.1. Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ Điều 35 2.3.2. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu Điều 36 BLTTDS 2.3.3. Trả lại đơn khởi kiện, chuyển vụ việc cho tòa án có thẩm quyền và giải quyết tranh chấp về thẩm quyền Trước khi thụ lý vụ án nếu xác định vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án mình thì cán bộ tòa án trả lại đơn khởi kiện cho đương sự. Việc  trả lại đơn khởi kiện có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện và hướng dẫn họ đến cơ quan hay tòa án có thẩm quyền giải quyết (điểm e  khoản 1 và khoản 2 Điều 168 BLTTDS). Sau khi thụ lý vụ án Tòa án phát hiện không thuộc thẩm quyền giải quyết thì Tòa án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm  quyền và xóa sổ thụ lý. Quyết định này phải gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan (khoản 1 Điều 37 BLTTDS). Đương sự, các  nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời  hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án tòa án đã ra quyết định chuyển vụ việc dân sự phải giải quyết khiếu nại. Trường hợp  đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc dân sự không phải trả lại tiền tạm ứng án phí cho đương sự mà tiền tạm ứng án  phí đã nộp được xử lý khi Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, nộp đơn yêu cầu tại nhiều tòa án khác nhau có thẩm quyền thì Tòa án đã thụ lý đầu tiên  theo thời gian tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự. Các tòa án khác, nếu chưa thụ ký thì căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 168 BLTTDS trả lại đơn khởi  6
  7. kiện, đơn yêu cầu; nếu đã thụ lý thì căn cứ vào khoản 2 Điều 192 BLTTSD ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, xóa tên vụ việc dân sự đó  trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự. Nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì Tòa án  căn cứ vào khoản 3 Điều 193 BLTTDS trả lại tiền tạm ứng án phí cho người đã nộp (Mục 5.2 Nghị Quyết số 02/2005/NQ­HĐTP của Hội đồng thẩm phán  TANDTC, ngày 31/3/2005). Khi có sự tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định  Toà án có thẩm quyền giải quyết. Cụ thể: Tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án nhân dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, do Chánh án tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các tòa án cấp  tỉnh do Chánh án tòa án nhân dân tối cao giải quyết. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp tỉnh nhưng khó xác định được tranh chấp hoặc khó xác định yêu cầu đó thuộc  nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa chuyên trách nào thì Chánh án tòa án nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định phân công cho một Tòa  chuyên trách giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp sau khi thụ lý vụ việc dân sự mới phát hiện vụ việc dân sự thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa  chuyên trách khác thì Tòa chuyên trách đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc theo thủ tục chung nhưng cần ghi số, ký hiệu, trích yếu trong bản án, quyết  định theo đúng hướng dẫn của Nghị Quyết số 02/2005/NQ­HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC, ngày 31/3/2005. CHƯƠNG V. CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1. Chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam 1.1. Khái niệm chứng cứ Điều 81 đã đưa ra quy phạm định nghĩa khái niệm chứng cứ như sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự,  thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không  cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự". Lưu ý, « cái có thật » được hiểu là thật trong tư duy, nhận thức của con người. Nó không phải là thật, hay đúng như những gì mà nó được sinh ra. Một khi  không thể chứng minh một sự việc là giả, nó phải được coi là « có thật ». 1.2. Các đặc điểm của chứng cứ Chứng cứ có ba đặc điểm sau đây: ­ Tính khách quan của chứng cứ ­ Tính liên quan của chứng cứ ­ Tính hợp pháp của chứng cứ 1.3. Nguồn chứng cứ và căn cứ để xác định chứng cứ Theo quy định tại Điều 82 BLTTDS, chứng cứ được rút ra từ các nguồn: Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; Các vật chứng; Lời khai của đương  sự; Lời khai của người làm chứng; kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Tập quán; Kết quả định giá tài sản; Các nguồn khác mà  pháp luật có quy định. Nghị quyết số 04/2005/NQ­HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh và chứng cứ” trong tố tụng dân sự  đã đặt ra cách thức xác định chứng cứ như sau : (i) Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức  có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở để lập ra các bản sao. Ví dụ, A được cấp giấy khai sinh (bản gốc), vì lý do nào đó A làm mất giấy khai sinh này. A làm đơn đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy khai  sinh. Cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy khai sinh cho A (bản cấp lần 2). Bản cấp lại này được coi là bản dùng làm cơ sở để lập ra các bản sao. Như vậy, các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ trước tiên đương sự phải nộp cho Tòa án bản chính (hay còn gọi là bản gốc) các tài liệu  đọc được nội dung như hợp đồng mua bán, vay tài sản, thuê tài sản, di chúc, hợp đồng tặng cho tài sản… Trong trường hợp không có bản gốc đương sự  có thể nộp bản sao các tài liệu đó nhưng bản sao phải có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc bản sao do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung  cấp, xác nhận và Tòa án phải đối chiếu bản sao với bản chính trước khi nhận. Đương sự giao nộp cho Tòa án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng  thực hợp pháp. (ii) Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự  việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim ảnh… (iii) Các vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.  (iv) Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng.  (v) Kết luận giám định là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Pháp lệnh giám định tư pháp và Nghị định số  67/2005/NĐ­CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh giám định tư pháp và hướng dẫn tại mục 6 phần IV  của Nghị quyết này. (vi) Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ, nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Cụ thể là,  đương sự phải có đơn yêu cầu và trình bày căn cứ đối với yêu cầu của mình để đề nghị Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ. Tòa án xem xét và ra quyết  định xem xét, thẩm định tại chỗ. Quyết định này được gửi cho ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, được giao  hoặc gửi cho đương sự. Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ phải đảm bảo đúng quy định tại khoản 2 Điều 89 BLTTDS; (vii)Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận. (viii) Kết quả định giá tài sản, nếu việc định giá tài sản được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 92 của BLTTDS. 1.4. Phân loại chứng cứ 1.4.1. Phân loại chứng cứ dựa vào nguồn thu thập chứng cứ Chứng cứ theo người và chứng cứ theo vật. 1.4.2. Phân loại chứng cứ căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ Chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại. 1.4.3. Phân loại chứng cứ căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với những sự kiện cần chứng minh Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp. 7
  8. 2. Quá trình chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam 2.1. Khái niệm chứng minh Chứng minh là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc và lý lẽ. Dưới góc độ tố tụng, quá trình chứng minh là một quá trình diễn ra liên tục và  xuyên suốt quá trình giải quyết các vụ việc dân sự và được hiểu là : Chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình bao gồm hoạt động của Toà án và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên  cứu và đánh giá chứng cứ nhằm mục đích xác định sự thực khách quan của vụ án. Chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm nhiều hoạt động tố tụng dân sự khác nhau của các chủ thể tố tụng như cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh  giá chứng cứ ….Những hoạt động này chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Toà án. Xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn thì chứng minh  vẫn là biện pháp duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Thông qua hoạt động chứng minh là cơ sở để nhận thức rõ được các tình  tiết, sự kiện của vụ việc dân sự cũng như các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ, việc dân sự. 2.2. Chủ thể chứng minh Chủ thể chứng minh là những người tham gia vào hoạt động chứng minh. Theo quy định tại các Điều 6, 58, 64, 74, 79, 117, 118, 165, 230 v.v. của  BLTTDS các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm: Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan), người đại  diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và Toà án. Về nguyên tắc, các chủ thể chứng minh đều có quyền, nghĩa vụ chứng minh. Do  vị trí tố tụng của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự khác nhau nên BLTTDS quy định quyền, nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể khác nhau. Chủ  thể chứng minh có quyền chứng minh, tham gia vào hoạt động chứng minh, tuy nhiên không phải tất cả các chủ thể chứng minh đều có nghĩa vụ chứng  minh. 2.2.1. Đương sự Điều 6 Bộ luật TTDS quy định: “1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng  minh như đương sự. 2. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”. Từ quy định mang tính cơ sở, nền tảng này cho thấy sự khác biệt cơ bản giữ lý luận chứng cứ trong tố tụng hình sự và lý luận chứng cứ trong tố tụng dân  sự. Nếu như trong tố tụng hình sự, nghĩa vụ chứng minh hoàn toàn thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng hình sự. Bị  can,bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước tiên thuộc về đương sự. Mỗi  một bên đương sự khi tham gia tố tụng đều cần phải chứng minh tất cả các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà trên cơ sở đó họ đưa ra yêu cầu hay  phản đối yêu cầu của người khác. Tại khoản 1, 2 Điều 79 BLTTDS quy định về nghĩa vụ chứng minh như sau: “1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp  pháp. 2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh”. Việc các đương sự phải cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là một trong những nguyên tắc  xuất phát từ cơ sở quyền tự định đoạt của đương sự. Trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, nguyên đơn được quyền khởi kiện là cơ sở để mở ra một  quá trình tố tụng tại Tòa án. Toàn bộ quá trình tố tụng dân sự kể từ khi Tòa án thụ lý vụ, việc dân sự cho đến khi kết thúc bằng một bản án hoặc quyết  định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thể hiện quyền tự định đoạt và ý chí của đương sự rất nhiều. Khi các bên đương sự có tranh chấp, đương sự là  người hiểu hơn ai hết vấn đề của họ, mâu thuẫn của họ. Đương sự cũng là người nắm bắt sâu sắc nhất tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ, việc dân sự  của mình là gì và đang ở đâu. Trong mối tương quan giữa các đương sự thì nguyên đơn phải chứng minh trước sau đó đến bị đơn, người có quyền lợi,  nghĩa vụ liên quan. Nguyên đơn đưa ra yêu cầu phải đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để chứng minh trên cơ sở đó quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn được xác  lập. Việc chứng minh tính hợp pháp của yêu cầu gắn liền với việc xuất trình chứng cứ cũng như việc chỉ ra các căn cứ pháp lý (các quy định của pháp  luật) mà từ đó là cơ sở để Tòa án chấp nhận yêu cầu của họ. Bị đơn phản đối lại yêu cầu của nguyên đơn thì phải đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý làm cơ sở cho sự phản đối của mình. Người có quyền lợi,  nghĩa vụ liên quan cũng phải chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của họ. Như vậy, các đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ đồng thời đây là cơ sở pháp lý để thiết lập quyền bình đẳng về nghĩa  vụ chứng minh. Việc các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để Toà án xem xét giải quyết vụ án là rất cần thiết. Tuy vậy, cần có cách hiểu thống nhất và cần có  sự phân biệt giữa khái niệm cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh mà chúng ta muốn áp đặt cho các đương sự  có phải chỉ bao hàm một ý nghĩa là đương sự phải xuất trình các chứng cứ khi đưa ra các yêu cầu từ đó “chứng tỏ” cho Toà án thấy rằng yêu cầu của họ  là đúng. Ngược lại, nếu họ không chứng tỏ được điều đó thì coi như họ không “chứng minh” được yêu cầu của mình.  Có thể nói, Pháp luật tố tụng dân sự dành cho đương sự quyền lựa chọn phương án hành động có lợi đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của  mình hoặc phản đối yêu cầu của người khác hoặc phương án hành động bất lợi cho mình, không cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình  thì họ phải gánh chịu hậu quả tương ứng với phương án đương sự tự định đoạt, tự lựa chọn. Điều 84 BLTTDS quy định: “Trong quá trình Tòa án giải  quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu  quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Như vậy, có thể hiểu giao nộp chứng cứ là một hành vi  cụ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt ví dụ liên  quan đến bí mật Nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư… mà pháp luật quy định đương sự không có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ thì việc họ không  giao nộp không được coi là chứng cứ để xét xử bất lợi cho họ. Trách nhiệm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ chứng minh của chủ  thể chứng minh chưa được thể hiện trong luật. Điều 79 BLTTDS có quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra  được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh hoặc chứng minh không đầy đủ đó” Tuy nhiên, hậu  quả đó là gì thì Điều luật này lại không quy định. 2.2.2. Cơ quan tổ chức xã hội khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài các đương sự, trong trường hợp cần khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của  Nhà nước thì cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ có quyền khởi kiện vụ án về Hôn nhân gia đình; công đoàn cấp trên của công  8
  9. đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động theo quy định của pháp luật về lao động. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình  có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước. BLTTDS quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức  khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có nghĩa vụ chứng minh (Khoản 3 Điều 79 BLTTDS).  2.2.3. Người đại diện của đương sự Như đương sự 2.2.4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo Điều 64 Nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện thông qua việc xác minh thu thập chứng  cứ, chứng minh tính hợp pháp của chứng cứ để bảo vệ các yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của đương sự là có cơ sở. 2.2.5. Tòa án. Toà án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự, tuy không có nghĩa vụ chứng minh làm rõ tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối  yêu cầu của đương sự nhưng để giải quyết đúng vụ việc dân sự thì Tòa án vẫn phải xác định xem trong vụ việc dân sự phải chứng minh làm rõ là những  sự kiện, tình tiết nào? Các chứng cứ, tài liệu của đương sự và những người tham gia tố tụng cung cấp có đủ để giải quyết vụ việc dân sự chưa? Tuy  nhiên, Tòa án không làm thay nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Việc các đương sự có quyền cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu  cầu của mình phụ thuộc vào ý chí của các bên, Tòa án chỉ xem xét và đưa ra phán quyết của mình trên cơ sở chứng cứ mà các bên đưa ra. Vì vậy, khi  thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Tòa án phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ (khoản 1 Điều 85  BLTTDS). Đối với trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Tòa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ (Khoản  2 Điều 85 BLTTDS). Khi nhận được yêu cầu của đương sự, Tòa án phải yêu cầu đương sự trình bày rõ việc đương sự tự thu thập chứng cứ như thế nào, lý do tại sao không  thể tự mình thu thập chứng cứ và những biện pháp đương sự đã áp dụng mà vẫn không có kết quả trên cơ sở đó để chấp nhận hay không chấp nhận  yêu cầu của đương sự. Nếu có cơ sở kết luận đương sự chưa tự mình chủ động thu thập chứng cứ, chưa áp dụng khả năng mà đương sự có thể thu thập  chứng cứ thì Thẩm phán không chấp nhận yêu cầu của đương sự và thông báo cho đương sự biết bằng văn bản. Toà án thực hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng (Điều 96, Điều 97 BLTTDS). Mặt khác, Tòa án phải chỉ rõ cơ sở của  quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, theo quy định của BLTTDS thì việc chứng minh của Toà án chỉ mang tính hỗ trợ cho việc chứng minh của  đương sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở quyết định của Tòa án.  Theo quy định tại Điều 6, Điều 79, Điều 84 và khỏan 1 Điều 85 BLTTDS thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh chủ yếu thuộc trách nhiệm của  đương sự. Do đó, đương sự phải thu thập chứng cứ và Tòa án chỉ tiến hành công việc này trong phạm vi hạn chế khi có đủ hai điều kiện theo quy định  tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS. 2.3. Đối tượng chứng minh Đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết có ý nghĩa để giải quyết vụ án cần được xác định trong quá trình chứng minh. Việc xác định những tình tiết nào cần phải chứng minh trong vụ án là nhiệm vụ của Toà án. Tuy nhiên, các tình tiết cần được chứng minh trong vụ án  thường xuất phát từ các yêu cầu hoặc phản yêu cầu của đương sự. Một nguyên tắc mà Bộ luật tố tụng dân sự đề ra là người đề ra yêu cầu thì có nghĩa  vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó. Trong một yêu cầu có thể có nhiều tình tiết cần phải chứng minh. Cũng có trường hợp muốn làm  rõ những tình tiết được đề ra trong yêu cầu (phản yêu cầu) của đương sự thì phải chứng minh những tình tiết khác mà không được đề cập đến trong yêu  cầu (phản yêu cầu). Nói chung, tất cả các sự kiện trong vụ án thì cần phải chứng minh. Tuy vậy, theo pháp luật của một số nước và thực tiễn xét xử ở nước ta thừa nhận có  những sự kiện không nằm trong đối tượng chứng minh nghĩa là không cần chứng minh mà có thể sử dụng ngay.Việc quy định những tình tiết, sự kiện  không cần phải chứng minh trong quá trình giải quyết vụ, việc dân sự để tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án, đơn giản hóa các thủ tục đối với  các đương sự cũng như Tòa án trong việc chứng minh các yêu cầu của đương sự, phù hợp với các quy định khác của pháp luật Theo quy định tại Điều 80 BLTTDS ­ Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh: (i) Đối với những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết và được Tòa án thừa nhận thì không phải chứng minh. Sở dĩ như vậy vì mục đích của chứng minh  là để làm rõ tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự để giải quyết đúng vụ việc dân sự. Những tình tiết, sự kiện này không chứng minh thì mọi  người cũng đã biết rõ về chúng. Tuy nhiên, điều luật đặt ra quy định bắt buộc để xác định là: “phải được Tòa án thừa nhận” với tư cách là chủ thể quyết  định việc giải quyết vụ, việc dân sự. Tức là, một tình tiết, sự kiện mọi người đều biết chỉ không phải chứng minh trong trường hợp Tòa án cũng biết rõ về  nó. Trên thực tế mức độ phổ biến của các tình tiết, sự kiện mọi người đều biết có thể rất khác nhau, có tình tiết, sự kiện phổ biến ở phạm vi rất rộng, nhưng  cũng có tình tiết, sự kiện chỉ phổ biến ở phạm vi hẹp. Vấn đề đặt ra là tình tiết, sự kiện phổ biến ở mức độ nào thì không phải chứng minh? Thực tiễn xét  xử của các toà án cho thấy không thể xác định được chính xác những người biết được tình tiết, sự kiện. Vì thế việc đánh giá mức độ phổ biến của tình  tiết, sự kiện mọi người đều biết chỉ mang tính tương đối nên BLTTDS không thể quy định giới hạn tối thiểu về mức độ phổ biến của tình tiết, sự kiện  không cần chứng minh. Khi giải quyết các vụ việc dân sự Toà án phải xem xét từng trường hợp cụ thể và trên cơ sở yêu cầu của việc công khai, minh  bạch các hoạt động xét xử mà quyết định thừa nhận hay không? (ii) Đối với những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã  có hiệu lực pháp luật cũng không phải chứng minh. Việc thừa nhận sự kiện, tình tiết không cần chứng minh phải là sự kiện trong bản án, quyết định đã  có hiệu lực pháp luật. Điều này có ý nghĩa đảm bảo cho công tác xét xử của Tòa án được nhanh chóng, chính xác, đồng thời khắc phục tình trạng có thể  xảy ra mâu thuẫn giữa những quyết định của Toà án và các cơ quan có thẩm quyền về cùng một vấn đề. Như vậy, mặc dù không phải chứng minh  nhưng khi sử dụng những sự kiện không cần phải chứng minh, Tòa án phải nêu rõ nguồn gốc, xuất xứ của những sự kiện đó… Hơn nữa, việc chứng  minh lại một tình tiết, sự kiện còn có khả năng dẫn đến sự phức tạp trong việc giải quyết vụ việc dân sự, làm trì trệ thủ tục tố tụng dân sự, giảm uy tín  của Toà án và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để giải quyết nhanh được các vụ việc dân sự, tránh những phức tạp không đáng có, Điều 80 BLTTDS  quy định khi giải quyết vụ việc dân sự Toà án không cho chứng minh lại những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Toà  án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. (iii) Đối với những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp Điều 80 BLTTDS quy định không phải chứng  minh. Sở dĩ như vậy vì những tình tiết, sự kiện này đã được ghi lại dưới một hình thức nhất định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng,  chứng thực hợp pháp. Mặt khác, phải bảo đảm giá trị các giấy tờ, tài liệu đã được các cơ quan nhà nước công chứng, chứng thực hợp pháp. Ngoài ra, đối với những tình tiết, sự kiện mà đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên  đương sự đó không phải chứng minh. Tương tự như vậy, sự thừa nhận của người đại diện (trong trường hợp đương sự có người đại diện) được coi là sự  9
  10. thừa nhận của đương sự theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 80 BLTTDS. 2.4. Quá trình chứng minh trong tố tụng dân sự Hoạt động chứng minh bao gồm nhiều giai đoạn: Cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ, các giai đoạn này  tổng hợp thành một thể thống nhất trong hoạt động chứng minh của Tòa án và những người tham gia tố tụng khác. Các bước của qúa trình chứng minh  có mối quan hệ biện chứng với nhau, bước này là nền tảng của bước kia, bước này là cơ sở cho việc thực hiện bước sau được thuận lợi và ngược lại. Quá trình chứng minh trong tố tụng dân sự được chia ra làm các giai đoạn sau: 2.4.1. Cung cấp chứng cứ Theo quy định tại Điều 6 BLTTDS: “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn  cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh  như đương sự.” Việc cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp được hướng dẫn tại tiểu mục 1 phần I của Nghị quyết số  04/2005/NQ­HĐTP ngày 17/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật TTDS về “Chứng minh và chứng cứ”. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích cho đương sự biết, nếu đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng  minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ, thì Tòa án tiến hành giải quyết vụ, việc dân sự theo thủ tục chung. Tòa án căn  cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ, việc dân sự và nếu vụ, việc dân sự được xét xử, giải quyết tại phiên tòa, phiên họp thì Tòa  án chỉ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, phiên họp, kết quả việc hỏi tại phiên tòa, phiên họp, xem xét đầy đủ ý kiến  của người tham gia tố tụng, (Kiểm sát viên trong phiên họp) để quyết định. Đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng  minh không đầy đủ. Khi đương sự thực hiện việc giao nộp chứng cứ, Tòa án phải lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ, trong đó ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc  điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian giao nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của  Tòa án; biên bản phải lập thành 2 bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự, một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ (khoản 2 Điều 84 BLTTDS). Khi biết chứng cứ đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ quản lý thì căn cứ theo quy định tại Điều 7 BLTTDS, đương sự có quyền yêu cầu cá nhân,  cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp được chứng cứ cho đương sự, thì phải thông báo bằng văn bản có  ghi rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ cho đương sự biết để họ chứng minh với Tòa án là họ đã thu thập chứng cứ nhưng không có kết  quả và yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. 2.4.2. Thu thập chứng cứ Theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS để Tòa án thu thập chứng cứ phải có 2 điều kiện sau: ­ Đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ; ­ Đương sự có yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Các biện pháp thu thập chứng cứ mà Tòa án có thể xem xét áp dụng được quy định tại Điều 85, khoản 1, BLTTDS: Lấy lời khai của đương sự, người làm  chứng; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập chứng cứ; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung  cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự. 2.4.3. Nghiên cứu chứng cứ Nghiên cứu chứng cứ là việc Toà án trực tiếp thụ cảm xem xét, phân tích, so sánh chứng cứ. Tòa án cần phải nghiên cứu chứng cứ một cách toàn diện.  Ngoài việc nghiên cứu riêng từng chứng cứ, tài liệu thì phải xem xét các chứng cứ trong mối liên quan mật thiết với nhau, nghiên cứu trên cơ sở so sánh  những chứng cứ này với chứng cứ khác. Tất cả các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đều phải được nghiên cứu, không bỏ sót một chứng cứ, tài  liệu nào. Khi nghiên cứu chứng cứ, phải xem xét tới tất cả các mặt, các mối liên hệ giữa các chứng cứ, tài liệu. Để việc nghiên  cứu có hiệu quả làm nền tảng cho quá trình đánh giá chứng cứ, khi nghiên cứu chứng cứ cần xem xét cả hình thức và nội dung của các chứng cứ, tài  liệu. 2.4.4. Đánh giá chứng cứ Đây là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh. Đánh giá chứng cứ là một quá trình logíc nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp của  các chứng cứ, mối liên hệ của chứng cứ này với chứng cứ khác. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Xem xét về nội dung và hình thức của chứng cứ. Tòa án phải đánh giá từng  chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp lý của từng chứng cứ. Cơ sở để đánh giá chứng cứ dựa trên các tình tiết sự kiện cần  chứng minh, quy định của pháp luật nội dung, các quy định của pháp luật tố tụng và trên cơ sở niềm tin nội tâm để đánh giá chứng cứ. Chứng cứ chỉ được Tòa án sử dụng giải quyết vụ, việc dân sự sau khi đã được đánh giá. Mọi chứng cứ được công bố và sử dụng công khai như nhau.  Tuy nhiên, trong một số trường hợp chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh  doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án không công bố công khai chứng cứ. Người tiến hành tố tụng, người  tham gia tố tụng phải giữ bí mật theo quy định của pháp luật những chứng cứ thuộc diện không công bố công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ  luật tố tụng dân sự. CHƯƠNG VI. ÁN PHÍ, LỆ PHÍ TOÀ ÁN 1. Án phí dân sự 1.1. Khái niệm án phí dân sự  Án phí dân sự là số tiền đương sự phải nộp ngân sách nhà nước khi vụ án dân sự được toà án giải quyết và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật tuỳ theo loại vụ án, trên cơ sở lợi ích, mức độ lỗi của họ trong quan hệ pháp luật mà toà án  giải quyết trong vụ án. Việc thu án phí dân sự có ý nghĩa rất lớn, phù hợp với chính sách tài chính của Nhà nước ta. Án phí dân sự là phương thức đền bù một phần chi phí của  Nhà nước cho việc toà án tiến hành giải quyết các vụ án dân sự. Đồng thời, việc thu án phí dân sự còn có tác dụng buộc các đương sự thực hiện đúng  các quyền tố tụng dân sự của mình, ngăn ngừa việc kiện không có căn cứ, không thực hiện hoặc thực hiện đúng các nghĩa vụ tố tụng dân sự. Án phí dân sự gồm án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. 1.2. Án phí dân sự sơ thẩm 1.2.1. Mức án phí dân sự sơ thẩm  Mức án phí dân sự sơ thẩm là mức tiền đương sự phải chịu cho mỗi vụ án. 10
  11. Mức án phí dân sự sơ thẩm được tính căn cứ chủ yếu vào chi phí trung bình về việc lập hồ sơ, giải quyết vụ án theo mức độ đơn giản hoặc phức tạp của  vụ án. Có thể chia mức án phí dân sự sơ thẩm thành hai loại: loại thu theo một số tiền nhất định và loại thu theo tỷ lệ giá trị tài sản. Đối với những vụ án  mang tính phi tài sản án phí dân sự sơ thẩm được thu theo một số tiền nhất định. Đối với những vụ án tranh chấp về tài sản án phí dân sự sơ thẩm được  thu theo tỷ lệ giá trị tài sản. Theo Điều 7 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 mức án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm đồng thời chung thẩm được xác định như sau: ­ Đối với các vụ án dân sự không có giá ngạch là năm mươi ngàn đồng; ­ Đối với các vụ án dân sự có giá ngạch nộp theo các mức sau: + Giá trị tài sản có tranh chấp từ một triệu đồng trở xuống nộp năm mươi ngàn đồng; + Giá trị tài sản có tranh chấp từ trên một triệu đồng đến một trăm triệu đồng nộp năm phần trăm (5%) của giá trị tài sản đó; + Giá trị tài sản có tranh chấp từ trên một trăm triệu đồng đến hai trăm triệu đồng nộp năm triệu đồng cộng với bốn phần trăm (4%) của phần giá trị tài  sản có tranh chấp vượt quá một trăm triệu đồng; + Giá trị tài sản có tranh chấp từ trên hai trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng nộp chín triệu đồng cộng với ba phần trăm (3%) của phần giá trị tài  sản có tranh chấp vượt quá hai trăm triệu đồng; + Giá trị tài sản có tranh chấp từ trên năm trăm triệu đồng đến một tỷ đồng nộp mười tám triệu đồng cộng với hai phần trăm (2%) của phần giá trị tài sản  có tranh chấp vượt quá năm trăm triệu đồng; + Giá trị tài sản tranh chấp từ trên một tỷ đồng nộp hai mươi tám triệu đồng cộng với không phẩy một phần trăm (0,1%) của phần giá trị tài sản có tranh  chấp vượt quá một tỷ đồng. ­ Đối với vụ án hôn nhân và gia đình đương sự phải nộp án phí là năm mươi ngàn đồng. Nếu có tranh chấp tài sản chung của vợ chồng thì ngoài việc  phải chịu án phí là năm mười ngàn đồng, các đương sự còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch. Giá trị tài sản có tranh chấp do nguyên đơn nêu. Trong trường hợp họ nêu không phù hợp với giá trị thực tế của tài sản có tranh chấp thì toà án sẽ định  dựa trên giá trị thực tế của tài sản. Trường hợp có khó khăn trong việc định giá tài sản có tranh chấp khi khởi kiện, khởi tố vụ án thì toà án tạm thời ấn  định mức án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm đồng thời chung thẩm của vụ án để thu tiền tạm ứng án phí. Toà án sẽ xác định mức án phí  đúng theo giá trị tài sản có tranh chấp khi vụ án được giải quyết. 1.2.2. Việc nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm Số tiền đương sự phải nộp ngân sách nhà nước khi khởi kiện được gọi là tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm. Theo Điều 9 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997, nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu  độc lập phải nộp tiền tạm ứng án phí trừ trường hợp họ được miễn án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí. Trong các vụ án dân sự không có giá ngạch hoặc có giá ngạch từ một triệu đồng trở xuống mức tiền tạm uứng án phí dân sự sơ thẩm phải nộp là năm  mươi ngàn đồng. Trong các vụ án dân sự có giá ngạch từ trên một triệu đồng mức tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm phải nộp là năm mươi phần trăm  (50%) của mức án phí dân sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thầm đồng thời chung thẩm mà toà án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp. Nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí trong thời hạn một tháng kể từ ngày nộp đơn, trừ trường hợp được miễn án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm  ứng án phí. Toà án có thể gia hạn nộp tiền tạm ứng án phí một tháng. Hết thời hạn đó mà nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng án phí thì toà án không  thụ lý vụ án. Người đã nộp tiền tạm ứng án phí được trả lại toàn bộ, nếu theo quyết định của toà án họ không phải chịu án phí hoặc được trả lại phần chênh lệch nếu  theo quyết định của toà án họ phải chịu án phí ít hơn số tiền tạm ứng án phí mà họ đã nộp. Người đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm nếu rút đơn khởi kiện khi mở phiên toà sơ thẩm thì được trả lại năm mươi phần trăm (50%) số tiền tạm ứng án  phí đã nộp. 1.2.3. Người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm Khi quyết định giải quyết vụ án toà án phải quyết định luôn cả án phí dân sự sơ thẩm. Trong bản án, quyết định toà án phải xác định rõ đương sự nào  phải chịu án phí, số tiền án phí phải chịu là bao nhiêu. Án phí dân sự sơ thẩm được thi hành khi bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.  Trường hợp bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì quyết định về án phí chưa được thi hành. Căn cứ vào Điều 11 của Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 thì toà án quyết định án phí dân sự sơ thẩm đương sự phải chịu theo các nguyên tắc sau: + Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không được toà án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn nộp án phí; Đối với tài sản chung mà các đương sự do không tự xác định được phần của mình, nếu họ yêu cầu toà án giải quyết chia tài sản chung đó thì các đương  sự phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo mức đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng; + Nếu trước khi mở phiên toà, toà án tiến hành hoà giải mà các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì các đương sự phải chịu  năm mươi phần trăm (50%) mức án phí dân sự sơ thẩm. Các đương sự có thể thoả thuận với nhau về mức án phí mà mỗi bên phải chịu, nếu họ không  thoả thuận được thì toà án quyết định; + Đối với vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm không phụ thuộc vào việc toà án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của  nguyên đơn. Trong trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu một nửa án phí dân sự sơ thẩm; + Nếu việc giải quyết vụ án bị tạm đình chỉ thì án phí được quyết định khi vụ án được tiếp tục giải quyết; + Trong trường hợp có đương sự được miễn án phí thì đương sự khác vẫn phải nộp án phí phần của mình. 1.3. Án phí dân sự phúc thẩm 1.3.1. Mức án phí dân sự phúc thẩm Mức án phí dân sự phúc thẩm đối với tất cả các loại vụ án dân sự là năm mươi ngàn đồng (Điều 12 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997). 1.3.2. Việc nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm Người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm trong thời hạn kháng cáo theo mức án phí dân sự phúc thẩm  (năm mươi ngàn đồng), trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc được miễn nộp án phí. Khi nhận đơn kháng cáo toà án phải báo cho người kháng cáo biết số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thảam họ phải nộp, thời hạn nộp và hậu quả  pháp lý của việc không nộp hoặc nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm không đúng hạn. Nếu đã được thông báo hợp lệ mà người kháng cáo không  nộp đủ tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm hoặc nộp đủ nhưng không đúng hạn thì coi như không kháng cáo. Tuy nhiên, đối với những trường hợp  người kháng cáo nộp tiền tạm ứng án phí quá hạn mà có lý do chính đáng thì có thể được toà án cấp phúc thẩm xét chấp nhận. Người đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nếu rút đơn kháng cáo trước khi mở phiên toà phúc thẩm thì được trả lại 50% số tiền tạm ứng án phí đã  nộp. 11
  12. 1.3.3. Người phải chịu án phí dân sự phúc thẩm Khi giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm toà án quyết định án phí dân sự phúc thẩm đương sự phải chịu theo các nguyên tắc sau: + Đương sự kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nếu toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm; + Đương sự kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm nếu toà án cấp phúc thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm, huỷ một phần hoặc toàn  bộ bản ản, quyết định sơ thẩm. Trường hợp toà án cấp phúc thẩm sửa bản án hoặc quyết định sơ thẩm thì cũng sửa lại án phí dân sự sơ thẩm cho phù hợp với bản án hoặc quyết định  phúc thẩm. Tức là toà án cấp phúc thẩm lấy bản án, quyết định phúc thẩm làm cơ sở để tính lại án phí dân sự sơ thẩm. Ví dụ: A kiện yêu cầu B trả nợ  10.000.000đ (mười triệu đồng). Toà án cấp sơ thẩm xử bác yêu cầu của A. A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 500.000đ (năm trăm ngàn đồng). A  kháng cáo. Toà án cấp phúc thẩm xử chấp nhận yêu cầu của A buộc B phải trả A 10.000.000đ (mười triệu đồng). Toà án cấp phúc thẩm đã sửa án sơ  thẩm bác yêu cầu của A thành chấp nhận yêu cầu của A nên phải sửa quyết định về án phí dân sự sơ thẩm. A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm  và phúc thẩm. Trường hợp toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định sơ thẩm để điều tra xét xử lại thì cũng huỷ luôn các quyết định về án phí dân sự sơ thẩm  trong các bản án, quyết định đó. Án phí dân sự sơ thẩm sẽ được quyết định lại khi toà án xử lại vụ án. 1.4. Miễn án phí Về nguyên tắc các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, tuỳ theo loại vụ án dân sự, trên cơ sở lợi ích, mức lỗi của họ trong quan hệ  pháp luật mà toà án giải quyết trong vụ án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, do tính chất quan hệ pháp luật toà án giải quyết trong vụ án, hoàn cảnh  kinh tế của đương sự pháp luật quy định việc miễn án phí cho đương sự. Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự tham gia tố tụng để  bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Việc miễn án phí được quy định tại Điều 13 của Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997. Theo các quy định đó, những  trường hợp sau đây được miễn án phí: + Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho người con chưa thành niên; + Người đòi bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự và vụ án hành chính mà yêu cầu không được toà án chấp nhận; + Người đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; Người được miễn án phí không phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm. Họ cũng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm  nếu yêu cầu của họ bị toà án bác. Ngoài những trường hợp được miễn án phí nói trên, người có khó khăn về kinh tế có thể được toà án cho miễn nộp một phần hoặc toàn bộ tiền tạm ứng  án phí và có thể được toà án cho miễn nộp một phần hoặc toàn bộ án phí. Khó khăn về kinh tế của đương sự phải là những khó khăn thực sự, phải được uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức xã hội nơi họ cư trú  hoặc làm việc chứng nhận. Toà án chỉ quyết định việc miễn nộp tiền tạm ứng án phí hay miễn nộp tiền án phí cho đương sự khi đã xác minh kỹ hoàn  cảnh kinh tế của đương sự và có đủ căn cứ để xác định đương sự có khó khăn về kinh tế nên không thể nộp tiền tạm ứng án phí được. Trường hợp viện kiểm sát khởi tố, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung không phải nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.  Nếu viện kiểm sát kháng nghị, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung kháng cáo theo thủ tục thúc phẩm thì cũng không phải nộp tiền tạm ứng án phí  dân sự phúc thẩm và án phí phúc thẩm. 2. Lệ phí và các chi phí tố tụng khác Đọc Nghị định 70/CP 12/06/1997. CHƯƠNG VII. KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN 1. Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự 1.1. Khái niệm Theo Điều 161 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự  tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như công nhận quyền dân sự, buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc  xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước, Điều 162 qui định: ­ Cơ quan về dân số, gia đình, trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia  đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định. ­ Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người  lao động do pháp luật quy định. ­ Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích  của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Vậy, khởi kiện vụ án dân sự là quyền của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự yêu  cầu Toà án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, tập thể hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm. 1.2. Những người có quyền khởi kiện vụ án dân sự Những người có quyền khởi kiện vụ án dân sự bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức. Quyền khởi kiện của các chủ thể này gắn liền gắn liền với năng lực  chủ thể của họ thông qua năng lực pháp luật TTDS và năng lực hành vi TTDS. ­ Cá nhân là con người cụ thể, không phân biệt là người nước ngoài hay người Việt Nam ở trong nước hay người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công  tác ở nước ngoài hoặc người nước ngoài không ở Việt Nam có mặt tại Việt Nam đều có quyền khởi kiện, nhưng họ phải là người có quyền và lợi ích hợp  pháp bị xâm phạm, tuy nhiên họ phải có năng lực hành vi dân sự. Người có đủ năng lực về hành vi dân sự là người đủ 18 tuổi trở lên, trừ người mất năng  lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. Người chưa đủ năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 16 tuổi, hoặc người mất năng lực hành vi dân sự và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự  không trực tiếp tham gia khởi kiện mà do người đại diện, hoặc người giám hộ (quy định tại Điều 58 Bộ luật Dân sự) theo quy định của pháp luật có quyền  khởi kiện vụ án dân sự. Đối với trường hợp pháp luật có quy định khác (được quy định tại khoản 3 điều 57 Bộ luật Tố tụng Dân sự), cụ thể như Luật hôn nhân và gia đình năm  2000 quy định tại khoản 1 Điều 9: Nữ từ 18 tuổi trở lên là có quyền kết hôn, như vậy có thể hiểu là người phụ nữ tròn 17 tuổi + 1 ngày là được kết hôn vì  12
  13. Luật không quy định 18 tuổi tròn, nên 17 tuổi 1 ngày là người phụ nữ đã bước sang tuổi 18, vì vậy họ được coi là người có đủ năng lực hành vi trong vụ  án hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 27 và những yêu cầu về hôn nhân gia đình thuộc Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự mà không cần phải có  người đại diện hợp pháp cho họ. ­ Cơ quan có quyền khởi kiện không phân biệt là cơ quan nước ngoài hay cơ quan của Việt Nam, cơ quan có thể bao gồm: Cơ quan Nhà nước, cơ quan  dân số, gia đình trẻ em, các cơ quan quản lý Nhà nước trong từng lĩnh vực như thuế, môi trường, các cấp chính quyền (Uỷ ban nhân dân), các cơ quan  Bộ, ngang Bộ tuy nhiên các cơ quan Nhà nước phải có tư cách pháp nhân mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự.  1.3. Phạm vi khởi kiện Điều 163 Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định về phạm vi khởi kiện vụ án dân sự như sau: ­ Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có  liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. ­ Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ  pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. ­ Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định có thể khởi kiện đối với một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác  về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. Được coi là “nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau” để giải quyết trong cùng một vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: ­ Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật khác. ­ Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại một trong các Điều 25,  27, 29, 31 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. 1.4. Hình thức khởi kiện Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự phải làm đơn khởi kiện (điều 164).  1.5. Hồ sơ khởi kiện Vụ án dân sự phát sinh kể từ khi cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện của mình bằng việc nộp đơn và những tài liệu, chứng cứ kèm theo  để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời kèm theo là việc họ phải chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ nộp tiền  tạm ứng án phí tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 2. Thủ tục thụ lý vụ án 2.1. Khái niệm Điểu 167: Toà án phải có trách nhiệm nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp bằng cách trực tiếp tại Toà án hoặc nộp thông qua bưu điện, kể từ ngày  nhận được đơn khởi kiện trong thời hạn 5 ngày làm việc thì Toà án phải tiến hành thủ tục thụ lý vụ án. Vì vậy, việc Toà án nhận đơn khởi kiện cùng các chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện và vào sổ để giải quyết gọi là thụ lý vụ án. 2.2. Nhận hồ sơ khởi kiện Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. (điều 167). Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, tòa án phải có một trong các quyết định sau đây: ­ Tiến hành thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. ­ Chuyển đơn kiện cho tòa án khác nếu không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Điều 171: Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xem xét các điều kiện thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, thì  Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí, trong thông báo cần phải dự tính số tiền  tạm ứng án phí phải nộp để họ đến Cơ quan thi hành án nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án thụ lý vụ án khi đương sự xuất trình biên lai nộp tạm ứng án phí hoặc thụ ly ngay nếu họ thuộc trường hợp được miễn án phí, miễn nộp tạm ứng  án phí. 2.3. Trả lại đơn khởi kiện Toà án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp: ­ Thời hiệu khởi kiện đã hết ; ­ Người khởi kiện không có quyền khởi kiện; ­ Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có  thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi  tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện. ­ Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là trường hợp không thuộc một trong các tranh chấp quy định tại Điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ  luật tố tụng dân sự. ­ Toà án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp Toà án đã thông báo cho người khởi kiện về số tiền tạm ứng án phí mà trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày  nhận được giấy báo, người khởi kiện không nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp có lý do chính đáng. ­ Toà án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp chưa có đủ điều kiện khởi kiện; ­ Toà án trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ kèm theo khi đơn khởi kiện không đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật Tố tụng Dân sự,  mà Toà án đã yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, nhưng họ không sửa đổi, không bổ sung đơn khởi kiện. Đối với trường hợp này  cần lưu ý: trước khi trả lại đơn khởi kiện Toà án phải thông báo để đương sự sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và phải quy định một khoảng thời gian không  quá 30 ngày. Trường hợp đặc biệt thì Toà án có thể gia hạn thêm nhưng không quá 15 ngày trong lần tiếp theo để người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn  khởi kiện. 2.4. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện Điều 169 3. Những thủ tục sau khi thụ lý 3.1. Phân công thẩm phán giải quyết vụ án Điều 172: 1. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án. 2. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Toà án phân công Thẩm  phán khác tiếp tục nhiệm vụ; trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu 13
  14. 3.2. Thông báo việc thụ lý vụ án Sau khi thụ lý vụ án, trong thời hạn ba ngày làm việc Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ  liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đồng thời Toà án cũng phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án. Nội dung của  thông báo được quy định tại điều 174.2. 4. Những quy định về thủ tục phản tố của bị đơn 4.1. Quyền phản tố của bị đơn Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của  nguyên đơn, thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, nếu yêu cầu đó độc lập, không cùng về yêu cầu mà nguyên đơn yêu cầu Toà án giải quyết  (như yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn), thì đây là ý kiến của bị đơn đối  với yêu cầu của nguyên đơn. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn chỉ được Toà án chấp nhận trong các trường hợp sau đây: ­ Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với nguyên đơn và nguyên đơn cũng có nghĩa vụ  đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn. ­ Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố  lại đối với nguyên đơn và nếu yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn vì không có căn  cứ. ­ Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp hai yêu cầu này có mối quan hệ liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng  một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. 4.2. Thủ tục phản tố Thủ tục yêu cầu phản tố được thực hiện tương tự như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn được quy định ở Điều 164, 165, 166, 167, 168, 169 và 170.  Trong trường hợp Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị đơn để giải quyết trong cùng một vụ án, thì ngày thụ lý vụ án để tính thời hạn chuẩn  bị xét xử vụ án đó được xác định như sau: ­ Trường hợp bị đơn được miễn nộp hoặc không phải nộp tạm ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố của bị  đơn cùng các chứng cứ kèm theo. ­ Trường hợp bị đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, thì ngày thụ lý vụ án là ngày bị đơn nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. ­ Trường hợp có nhiều bị đơn có yêu cầu phản tố thì ngày thụ lý vụ án được xác định như sau: + Là ngày Toà án nhận được đơn về yêu cầu phản tố hoặc đơn về yêu cầu độc lập cuối cùng, nếu họ đều thuộc trường hợp được miễn nộp hoặc không  phải nộp tiền tạm ứng án phí. + Là ngày người nộp cuối cùng cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, nếu họ thuộc trường hợp phải nộp tiền tạm ứng án phí Chương này cần đọc kỹ NQ 01/2005 và NQ 02/2006 của HĐTP TANDTC CHƯƠNG VIII. CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM 1. Thời hạn chuẩn bị xét xử Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự.  2. Hoà giải các bên đương sự 2.1. Khái niệm và vai trò của hoà giải trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự Hoà giải các bên đương sự trong vụ án dân sự là việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thoả thuận để đi đến thống nhất một phương án giải quyết  bất đồng phát sinh giữa họ dưới sự hỗ trợ của Toà án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự, hoà giải, một mặt, là quyền của các bên đương sự, mặt khác, là nghĩa vụ bắt buộc của Toà án. Điều 10  quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự  theo quy định của Bộ luật này”. Còn theo Điều 180 thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả  thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được. Vai trò, ý nghĩa của hòa giải, xin xem lại phần nguyên tắc. 2.2. Phạm vi hòa giải Phần lớn các tranh chấp dân sự đều có thể tiến hành hoà giải các bên đương sự. Tuy vậy, theo Điều 181 thì Toà án không tiến hành hoà giải các vụ án  dân sự sau đây: Thứ nhất, các vụ án dân sự phát sinh từ yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước. Ngoại lệ: tòa án vẫn có thể hòa giải việc ngân hàng  quốc doanh đòi nợ xấu là các khoản cho vay theo chương trình xóa đói, giảm nghèo. Những nội dung về giảm lãi suất, lùi thời hạn trả nợ vẫn có thể  được hòa giải. Thứ hai, Toà án không hoà giải những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Nghị quyết số 02/2006/NQ­HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ  hai “Thủ tục giải quyết các vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của đã hướng dẫn là: Toà án không được hoà giải vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch vi phạm  điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, nếu việc hoà giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường hợp các bên  chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu thì Toà án phải tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải  quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó. Tuy hướng dẫn này không hoàn toàn đúng với quy định của nhưng lại phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xét xử. 2.3. Nguyên tắc hoà giải Xem điều 180  2.4. Thủ tục tiến hành hoà giải Để hoà giải, Toà án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hoà giải, nội  dung các vấn đề cần hoà giải (điều 183). Phiên hoà giải được tiến hành với thành phần gồm: Điều 184. Khi tiến hành hoà giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ  đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. 14
  15. Các diễn biến tại phiên hoà giải được ghi vào biên bản hoà giải. Biên bản hoà giải phải có các nội dung: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hoà giải; địa  điểm tiến hành phiên hoà giải; thành phần tham gia phiên hoà giải; ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự; những nội  dung đã được các đương sự thoả thuận, không thoả thuận. Biên bản hoà giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hoà giải, chữ ký của Thư ký Toà án ghi biên bản và của  Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải. Khi các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các  đương sự tham gia hoà giải. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận  đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương  sự. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho các  đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ  tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự  thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Nếu các bên đương sự không đạt được phương án hòa giải hoặc phương án hòa giải giữa các đương sự không được Tòa án công nhận thì Thẩm phán ra  quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử. Quyết định này kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án  phải thực hiện các công việc cần thiết để mở phiên toà xét xử sơ thẩm. 3. Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Toà án tạm ngừng các hoạt động tố tụng trong một khoảng thời gian nào đó và khi lý do của việc tạm đình  chỉ không còn thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ án. Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trong các trường hợp được quy định tại Điều 189. Ngoài các căn cứ tạm đình chỉ quy định tại Điều 189 thì Luật phá sản năm 2003 còn quy định thêm về một căn cứ tạm đình chỉ do đã có Toà án thụ lý  đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, mà doanh nghiệp đó là đương sự của vụ án dân sự (Khoản 2 Điều 27 Luật phá sản năm 2003). Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải đó nêu rõ lý do tạm đình chỉ. Trước khi mở phiên toà thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có  thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, còn tại phiên toà thì Hội đồng xét xử ra quyết định đó. Sau khi ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án,  Toà án phải thông báo cho các bên đương sự biết. Quyết định tạm đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Khi vụ án dân sự bị tạm đình chỉ thì Toà án không xoá tên vụ án trong sổ thụ lý mà chỉ ghi chú vào sổ thụ lý số và ngày, tháng, năm của quyết định tạm  đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đó. Tiền tạm ứng án phí, lệ phí mà đương sự đã nộp được xử lý khi Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự. Toà án tiếp  tục giải quyết vụ án dân sự bị tạm đình chỉ khi lý do tạm đình chỉ không còn. 4. Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Toà án chấm dứt hoàn toàn hoạt động tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án.  Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án theo các trường hợp được quy định tại Điều 192­ Sau khi đình chỉ giải quyết vụ án Toà án xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án  thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện được quy đinh tại điều 168. Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự phải ghi rõ tên Toà án ra quyết định, số thụ lý vụ án dân sự, ngày tháng năm thụ lý, tên nguyên đơn, bị  đơn, lý do đình chỉ, quyết định về án phí và quyền kháng cáo, kháng nghị của các đương sự. Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự phải được thông báo hợp lệ cho các đương sự và Viện kiểm sát nhân dân. Quyết định đình chỉ việc giải  quyết vụ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị, trừ trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ do người khởi kiện rút đơn kiện. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện  vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ  trên cơ sở các căn cứ sau đây: ­ Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện; ­ Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; ­ Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên  quan đến nghĩa vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 192 của thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã  nộp được sung vào công quỹ nhà nước. Trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 192 của  thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho người đã nộp tiền tạm ứng án phí. 5. Quyết định đưa vụ án ra xét xử Xem điều 195. 6. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Đọc Chương VIII và được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số 02/2005/NQ­HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi  hành một số quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS. CHƯƠNG IX. PHIÊN TÒA SƠ THẨM 1. Quy định chung về phiên tòa sơ thẩm 1.1. Yêu cầu chung đối với phiên tòa sơ thẩm Điều 196  1.3. Xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục Ngoài yêu cầu nêu trên, còn quy định phiên tòa sơ thẩm dân sự phải được tiến hành theo phương thức xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục (Điều  197). Thực hiện việc xét xử trực tiếp và bằng lời nói nhằm bảo đảm cho Tòa án thẩm định và xác minh được đầy đủ, chính xác các tài liệu, chứng cứ của vụ án  và đánh giá chúng một cách toàn diện.  Việc xét xử ở phiên tòa phải được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi  kết thúc trừ trường hợp không thể tham gia xét xử được phải thay đổi. Trong trường hợp đặc biệt do BLTTDS quy định thì việc xét xử có thể tạm ngừng không quá 5 ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án  15
  16. được tiếp tục (khoản 2 Điều 197). Sở dĩ BLTTDS quy định việc xét xử bằng lời nói và phải được tiến hành liên tục là nhằm bảo đảm cho Hội đồng xét xử  và những người tham gia tố tụng dễ dàng nhớ được các tình tiết của vụ án và giải quyết được dứt điểm từng vụ. Tòa án phải xét xử xong từng vụ án một  rồi mới được xét xử đến vụ án khác, không được làm thủ tục khai mạc phiên tòa chung cho nhiều vụ án, hoặc tuyên án cùng một lúc cho nhiều vụ án. 1.4. Hội đồng xét xử sơ thẩm 1.4.1. Thành phần Hội đồng xét xử Theo quy định của BLTTDS tại Điều 52, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường  hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai thẩm phán và ba Hội thẩm. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa điều khiển mọi hoạt động tại phiên tòa từ lúc khai mạc cho đến khi Tuyên án, đặc biệt là phần điều hành trong thủ tục hỏi,  tranh luận, nghị án, tuyên án và giữ gìn trật tự, kỷ cương tại phiên tòa.  1.4.2. Thay thế thành viên Hội đồng xét xử Trong quá trình xét xử, nếu có một thành viên nào của hội đồng vì một lý do đặc biệt, không thể tham gia xét xử vụ án được nữa, thì BLTTDS quy định  việc thay thế thành viên đó như sau: ­ Trong trường hợp có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể tiếp tục tham gia xét xử vụ án, nhưng có Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dự khuyết thì  những người này thay thế và được tham gia xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa ngay từ đầu. Trong trường hợp Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không tiếp tục tham gia xét xử được thì thẩm phán là thành viên  Hội đồng xét xử làm chủ tọa phiên tòa và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử. ­ Trong trường hợp không có Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết để thay thế thành viên Hội đồng xét xử hoặc phải thay đổi chủ tọa mà  không có Thẩm phán để thay thế, thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu. 1.5. Những người tham gia phiên tòa Theo quy định của BLTTDS từ các Điều 199 đến Điều 207, những người tham gia tố tụng tại phiên tòa gồm có: Nguyên đơn, bị đơn, người đại diện của họ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng,  người giám định, người phiên dịch và Kiểm sát viên (trong trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa). 1.6. Hoãn phiên tòa 1.6.1. Những trường hợp hoãn phiên tòa Vì tính chất quan trọng của sự tham gia tố tụng tại phiên tòa của các chủ thể quan hệ pháp luật tố tụng, BLTTDS quy định Hội đồng xét xử phải hoãn  phiên tòa trong các trường hợp sau: ­ Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án như quy định tại khoản 2 Điều 51 ; vắng mặt Kiểm sát viên trong trường hợp  Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế như quy định tại Điều 207. ­ Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất có  lý do chính đáng như quy định tại các Điều 199, 200, 201 và 203. ­ Trường hợp phải thay đổi người giám định, người phiên dịch mà không có người khác thay thế như quy định tại khoản 2 Điều 72 hoặc khi Hội đồng xét  xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại theo quy định tại khoản 4 Điều 230. Cũng có ý kiến cho rằng, trường hợp xảy ra như quy định tại khoản 4  Điều 230 thì phải quy định là tạm ngừng phiên tòa mới chuẩn xác. ­ Trường hợp người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử như quy định tại khoản  2 Điều 206. ­ Trường hợp người làm chứng, người giám định vắng mặt thì tùy từng hoàn cảnh cụ thể, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành  xét xử như quy định tại Điều 204 và Điều 205. Ngoài 5 trường hợp phải hoãn phiên tòa để triệu tập lại như đã nêu trên, BLTTDS quy định tại Điều 202 cho phép Tòa án xét xử trong các trường hợp  sau đây, mặc dù vẫn vắng mặt những người cần triệu tập. Những trường hợp đó bao gồm: ­ Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. ­ Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa. ­ Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn  vắng mặt; Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên sự khuyết thay thế như quy  định tại khoản 2 Điều 207. Ngoài ba trường hợp cho phép Tòa án mở phiên tòa để xét xử như đã nêu trên, BLTTDS còn quy định tại Điều 199 và Điều 201 những trường hợp Tòa  án được phép ra quyết định thì chỉ giải quyết đối với các yêu cầu của đương sự trong vụ án như sau: ­ Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ  án. Sau này họ có quyền khởi kiện lại, nếu thời hiệu vẫn còn. ­ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập  của mình thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu nguyên đơn, bị đơn  đồng ý. Sau này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập này, nếu thời hiệu vẫn còn. 1.6.2. Thời hạn hoãn phiên tòa Việc hoãn phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định khi phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, Kiểm sát viên, người giám định,  người phiên dịch hoặc do sự vắng mặt của các bên đương sự, những người tham gia tố tụng khác hoặc các trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều  51, khoản 2 Điều 72, các điều 199, 200, 201, 203, 204, 205, 206, 207, 215 và khoản 4 Điều 230 thì thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không quá 30  ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Trong trường hợp sau khi hoãn phiên tòa mà tòa án không thể mở lại phiên tòa đúng thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa ghi trong quyết định hoãn phiên  tòa thì tòa án phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng biết về thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa. 1.6.3. Quyết định hoãn phiên tòa Hội đồng xét xử có quyền quyết định hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa phải được lập thành văn bản và có các nội dung được quy định tại Điều  208. Quyết định hoãn phiên tòa phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên và thông báo công khai cho những người tham gia tố tụng biết;  đối với người vắng mặt thì Tòa án gửi ngay cho họ quyết định đó, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. 2. Thủ tục phiên tòa 16
  17. 2.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa 2.1.1. Khai mạc phiên tòa Khai mạc phiên tòa là một thủ tục tố tụng bắt buộc phải thực hiện trước khi Hội đồng xét xử tiến hành xét xử. Phiên tòa được khai mạc theo quy định tại  Điều 213. 2.1.2. Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch Điều 214 2.1.3. Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt Điều 215 2.1.4. Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng Điều 216 như sau: 2.2. Thủ tục hỏi tại phiên tòa 2.2.1. Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và công nhận sự thỏa thuận của họ về giải quyết vụ án Đọc Điều 217 và 218  Lưu ý: ­ Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ  nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành  bị đơn (điều 219) ­ Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật, hoặc đạo đức xã  hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án. ­ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án phải được lập thành văn bản và có hiệu lực pháp luật ngay (xem Điều 220). 2.2.2. Nghe đương sự trình bày về vụ án Xem điều 221. 2.2.3. Việc tiến hành hỏi tại phiên tòa Trình tự hỏi từng người về từng vấn đề của vụ án được tiến hành theo thứ tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước, rồi đến Hội thẩm nhân dân, kế đến là người bảo  vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tiếp theo là đương sự, rồi đến những người tham gia tố tụng khác. Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên  Tòa thì Kiểm sát viên sẽ tiến hành hỏi sau đương sự (xem Điều 222). Các câu hỏi của các chủ thể tham gia vào quá trình hỏi cần phải được tiến hành riêng cho từng người, xong người này mới đến người khác (xem các  Điều 223, 224, 225, 226). Các câu hỏi đặt ra cho những người được hỏi là để họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án và trả lời những vấn đề  chưa rõ, qua đó làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Đương sự được hỏi có thể tự trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trả lời  thay, sau đó đương sự bổ sung.  Mục đích của tố tụng hỏi ở phiên Tòa là để xem xét, thẩm tra xác minh các tài liệu, chứng cứ của vụ án; đồng thời thông qua thủ tục hỏi làm sáng tỏ  những tình tiết quan trọng mà các bên đương sự còn có ý kiến khác nhau về vụ tranh chấp. Đồng thời, việc hỏi từng người này cũng là sự bảo đảm  nguyên tắc xét xử công khai. Sau khi hỏi xong tất cả những người được hỏi, Hội đồng xét xử cho công bố các tài liệu của vụ án; cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi  hình, đĩa ghi hình; xem xét vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng (xem các điều 227, 228, 229). 2.3. Thủ tục tranh luận tại phiên tòa 2.3.1. Những người tham gia tranh luận Người tham gia tranh luận gồm có: Đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ quan tổ chức khởi kiện. 2.3.2. Trình tự tranh luận Trình tự tranh luận được quy định tại Điều 232. Về thời gian tranh luận, theo Điều 233 thì: ­ Thời gian tranh luận cũng như số lần phát biểu ý kiến về một vấn đề không bị hạn chế, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết  ý kiến. Chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. ­ Trong quá trình tranh luận, người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác khi có những điểm khác nhau.  2.3.3. Phát biểu của Kiểm sát viên Điều 234. 2.3.4. Trở lại việc hỏi Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng  xét xử quyết định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận. 2.4. Thủ tục nghị án ­ Hội đồng xét xử nghị án tại phòng riêng. Thủ tục cụ thể, xem điều 236 2.5. Thủ tục tuyên án Sau khi bản án đã được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án. Xem Điều 239. 3. Biên bản phiên tòa Xem Điều 211 4. Bản án sơ thẩm Đọc Điều 238, xem Nghị quyết số 01/2005/NQ­HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về mẫu bản án. 5. Những quyết định tại phiên tòa sơ thẩm Tại phiên tòa sơ thẩm, ngoài bản án, Hội đồng xét xử có thể ra các quyết định sau đây: ­ Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định tại Điều 51 và Điều 72. ­ Quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án, chuyển vụ án theo quy định tại các điều 167, 189, 192. ­ Quyết định hoãn phiên tòa, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được quy định tại Điều 215, 220. ­ Quyết định về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 100); quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm như Điều 120. 17
  18. Khi ra các quyết định nêu trên, Hội đồng xét xử phải tuân thủ các quy định về thủ tục được quy định tại Điều 210. 6. Những thủ tục sau phiên tòa sơ thẩm 6.1. Sửa chữa, bổ sung bản án Đọc Điều 240. 6.2. Cấp trích lục bản án, bản án Điều 241: ­ Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên tòa, các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện được Tòa án cấp trích lục bản án. ­ Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng  cấp. 6.3. Sửa chữa, bổ sung biên bản phiên tòa Đọc Điều 211 CHƯƠNG X. THỦ TỤC PHÚC THẨM DÂN SỰ 1. Khái niệm và ý nghĩa của phúc thẩm dân sự 1.1. Khái niệm Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng  cáo, kháng nghị. 1.2. Ý nghĩa của xét xử phúc thẩm dân sự Việc phúc thẩm bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc có thể khắc phục những sai lầm có thể có trong  những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân, bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân cũng như các lợi ích  công cộng được thực hiện trong thực tế, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua phúc thẩm, Toà án nhân dân cấp trên có thể kiểm tra hoạt động xét xử của Toà án nhân dân cấp dưới, qua đó có thể chỉ đạo một cách kịp  thời và thống nhất việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử tại các Toà án ở địa phương 2. Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm 2.1. Khái niệm Kháng cáo là một quyền tố tụng quan trọng của đương sự và của những chủ thể khác theo qui định của pháp luật trong việc bày tỏ quan điểm, thái độ  không đồng ý với kết quả xét xử của Toà án sơ thẩm, yêu cầu Toà án có thẩm quyền xem xét lại vụ án. Kháng nghị là một quyền tố tụng quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân theo qui định của pháp luật nhằm phản đối bản án, quyết định sơ thẩm, đề  nghị Toà án có thẩm quyền xem xét lại vụ án. Kháng cáo, kháng nghị là điều kiện để tiến hành cấp xét xử phúc thẩm. Những bản án, quyết định sơ thẩm dù có sai lầm nhưng không bị kháng cáo,  kháng nghị thì cũng không bị xét xử phúc thẩm. 2.2. Người có quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm ­ Người kháng cáo: Điều 243 ­ Người kháng nghị: Điều 250 2.3. Đối tượng kháng cáo, kháng nghị Theo quy định tại Điều 243, Điều 250 của BLTTDS, người có quyền kháng cáo, kháng nghị thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị của mình đối với: ­ Các bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; ­ Các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lựcpháp luật. 2.4. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị ­ Thời hạn kháng cáo: Điều 245 BLTTDS: ­ Thời hạn kháng nghị: Điều 252 BLTTDS ­ Kháng cáo quá hạn: Điều 247 BLTTDS 2.5. Hình thức kháng cáo, kháng nghị 2.5.1. Hình thức kháng cáo Việc kháng cáo sẽ được chủ thể kháng cáo thực hiện trong thời hạn luật định bằng một đơn kháng cáo. Nội dung đơn được quy định tại điều 244. Đơn kháng cáo sẽ được gửi đến cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Toà án cấp phúc  thẩm thì Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển lại đơn kháng cáo cho Toà án cấp sơ thẩm để Toà án cấp sơ thẩm tiến hành những thủ tục cần thiết trước  khi hồ sơ vụ án được chuyển cho Toà án cấp có thẩm quyền phúc thẩm. Đơn kháng cáo được gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu bổ sung, nếu có, để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp. 2.5.2. Hình thức kháng nghị Nếu Viện kiểm sát có kháng nghị thì việc kháng nghị được thực hiện bằng quyết định kháng nghị. Nội dung quyết định kháng nghị được quy đinh tại điều  251. Quyết định kháng nghị phải được gửi ngay cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị để Toà án sơ thẩm tiến hành các  thủ tục theo quy định của pháp luật và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm. 2.6. Thông báo kháng cáo, kháng nghị Điều 249 BLTTDS quy định về việc thông báo kháng cáo. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay bằng văn  bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo biết về việc kháng cáo, trừ người đã kháng cáo. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì theo quy định tại Điều 253 của BLTTDS, Viện kiểm sát đã ra kháng nghị phải gửi quyết định kháng nghị cho  đương sự có liên quan biết việc kháng nghị. Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị cho Toà án cấp  phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án. 2.7. Gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm  việc: 18
  19. ­ Người kháng cáo nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm; ­ Hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Riêng đối với trường hợp kháng cáo quá hạn, Toà án sơ thẩm chỉ gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm, sau khi nhận được văn bản của Toà án  cấp phúc thẩm về việc chấp nhận lý do kháng cáo quá hạn. 2.8. Hậu quả pháp lý của việc kháng cáo, kháng nghị Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành  ngay. Bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày  hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Do thời hạn kháng cáo và thời hạn kháng nghị không giống nhau, nên để xác định thời điểm bản án, quyết định sơ  thẩm phát sinh hiệu lực do không có kháng cáo, kháng nghị, cần phải tính từ thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên. Chỉ đến  thời điểm đó, bản án, quyết định sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị mới phát sinh hiệu lực pháp luật. 2.9. Thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị Theo quy định tại Điều 256 BLTTDS, trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo,  Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu,  nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết. Tương tự, trước khi mở phiên tòa cũng như tại phiên tòa, người kháng cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định rút kháng nghị. Tòa án  cấp phúc thẩm đình chỉ đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải được lập thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp  phúc thẩm phải thông báo cho các đương sự biết việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị. Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị  tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. 3. Chuẩn bị xét xử phúc thẩm 3.1. Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm (Điều 257) Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý vụ án. Chánh án Toà án cấp phúc thẩm hoặc Chánh toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một thẩm  phán làm chủ toạ phiên toà. 3.2. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Theo Điều 258 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở  ngại khách quan thì Chánh án Toà án cấp phúc thẩm có thể ra quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá một tháng. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà phải mở phiên toà phúc thẩm. Trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn  này là hai tháng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. 3.3. Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án Điều 259 BLTTDS. 3.4. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án Điều 260 4. Phiên toà phúc thẩm 4.1. Phạm vi xét xử phúc thẩm Về nguyên tắc, bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phần nào thì chỉ phần đó là chưa được thi hành và sẽ bị đưa ra xét xử theo trình tự  phúc thẩm. Phần còn lại của bản án, quyết định không bị kháng cáo kháng nghị sẽ phát sinh hiệu lực và có hiệu lực thi hành. Trường hợp bản án, quyết  định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị toàn bộ, thì toàn bộ bản án, quyết định bị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Theo Điều 263 BLTTDS, Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến  việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị đòi hỏi phải xem xét, giải quyết đồng thời  với phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm mặc dù phần này không bị kháng cáo, kháng nghị (Nghị quyết số 05/2006/NQ­HĐTP) Như vậy, căn cứ để Toà án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm phải có kháng cáo hoặc kháng nghị. Ngoài ra Toà  án cấp phúc thẩm cũng có thể xem xét những phần khác của bản án hoặc quyết định có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên cần chú ý rằng việc kháng cáo kháng nghị phải nhằm vào bản án, quyết định sơ thẩm. Nếu có kháng cáo, kháng nghị nhưng lại về những vấn  đề chưa được xét xử ở cấp sơ thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm cũng không có trách nhiệm phải giải quyết vì không thuộc phạm vi phúc thẩm. 4.2. Hội đồng xét xử phúc thẩm Điều 53 BLTTDS quy định thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trong đó một thẩm phán giữ vai trò làm chủ toạ của phiên toà.  4.3. Người tham gia phiên toà phúc thẩm Điều 264 BLTTDS 4.4. Thủ tục phiên toà phúc thẩm Về căn bản, thủ tục phiên toà phúc thẩm được tiến hành giống như thủ tục phiên toà sơ thẩm. Xin xem quy định tại các điều từ 267 đến 274. 5. Quyền hạn của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm Theo Điều 275 của BLTTDS, Hội đồng xét xử phúc thẩm có các quyền sau đây: a/ Giữ nguyên bản án sơ thẩm Trong trường hợp này, Hội đồng phúc thẩm bác kháng cáo hoặc kháng nghị vì kháng cáo, kháng nghị không có căn cứ và Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử  là đúng. b/ Sửa bản án sơ thẩm Nếu qua việc xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử thấy Toà án sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật, thì Hội đồng xét xử có thể sửa một phần  hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm. Cụ thể, theo Điều 276 của BLTTDS, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm trong những trường hợp sau đây: ­ Việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật; ­ Việc chứng minh và thu thập chứng cứ chưa thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên toà phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ. c/ Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. 19
  20. Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ thực hiện quyền hạn này trong các trường hợp sau đây: ­ Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy định hoặc chưa thực hiện đầy đủ mà tại phiên toà phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung  được. ­ Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ luật hoặc có vi nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. d/ Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc  một trong các trường hợp quy định tại Điều 192 của BLTTDS. 6. Thủ tục phúc thẩm các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm Điều 280. CHƯƠNG XI. XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT 1. Thủ tục giám đốc thẩm 1.1. Khái niệm Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải  quyết vụ án. 1.2. Kháng nghị giám đốc thẩm. 1.2.1. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Điều 283 1.2.2. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Điều 285 1.2.3. Thủ tục kháng nghị. Điều 288 ­ Quyền yêu cầu tạm hoãn thi hành án. Theo khoản 1 Điều 286 BLTTDS, người có thẩm quyền kháng nghị có quyền yêu cầu tạm hoãn thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Vì  vậy trong quá trình nghiên cứu hồ sơ nếu thấy cần thiết phải hoãn thi hành án thì lãnh đạo Tòa chuyên trách báo cáo người có thẩm quyền kháng nghị  quyết định. Việc yêu cầu tạm hoãn thi hành án phải theo quy định của luật thi hành án dân sự. ­ Quyết định kháng nghị. Xem điều 287 ­ Tạm đình chỉ thi hành án Theo khoản 2 Điều 286 thì người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án quyết định đã có hiệu lực  pháp luật đến khi có quyết định giám đốc thẩm. 1.3. Phiên tòa giám đốc thẩm 1.3.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm. Điều 291 1.3.2. Thời hạn mở phiên tòa Thời hạn mở phiên toà xét xử giám đốc thẩm là 4 tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án (Điều 293 BLTTDS). 1.3.3. Thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm. Xem điều 295 1.3.4. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm 1.3.4.1. Phạm vi giám đốc thẩm Điều 296 BLTTDS quy định: a. “Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị hoặc có liên quan đến nội dung kháng nghị. b. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã có HLPL không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến  việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong  vụ án”. 1.3.4.2. Quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm Điều 297 BLTTDS đã quy định thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm như sau: 1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có HLPL 2. Huỷ bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp dưới xét xử đúng pháp luật, nhưng bị bản án,  quyết định đã có HLPL bị kháng nghị huỷ bỏ hoặc sửa đổi một phần hay toàn bộ. 3. Huỷ bản án, quyết định đã có HLPL bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại trong các trường hợp sau: ­ Việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa thực hiện đầy đủ hoặc không theo đúng quy định của BLTTDS. ­ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. ­ Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không đúng quy định của BLTTDS hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng. 4. Huỷ bản án, quyết định đã có HLPL và đình chỉ vụ án nếu vụ án có các căn cứ đình chỉ theo quy định tại Điều 192 BLTTDS. 2. Thủ tục tái thẩm 2.1. Khái niệm Tái thẩm là xét lại bản án quyết định đã có HLPL nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của  bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án, quyết định. 2.2. Kháng nghị tái thẩm. 2.2.1. Căn cứ để kháng nghị tái thẩm Điều 305 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2