intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thị trường chứng khoán là động cơ phát triển chính của kinh tế tự do

Chia sẻ: Bùi Thảo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

67
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. Định nghĩa Đó là chợ nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng chứng khoán để kiếm lời. Đây có thể là thị trường tập trung hay không tập trung tại một địa điểm : - Thị trường tập trung là Sở Giao dịch Chứng khoán ( stock exchange, tiếng Anh, và Bourse, tiếng Pháp ),

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thị trường chứng khoán là động cơ phát triển chính của kinh tế tự do

  1. Thị trường chứng khoán là động cơ phát triển chính của kinh tế tự do I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. Định nghĩa Đó là chợ nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng chứng khoán để kiếm lời. Đây có thể là thị trường tập trung hay không tập trung tại một địa điểm : - Thị trường tập trung là Sở Giao dịch Chứng khoán ( stock exchange, tiếng Anh, và Bourse, tiếng Pháp ), nơi các giao dịch chứng khoán được thực hiện: các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình khớp lệnh để tạo thành giá giao dịch. - Thị trường không tập trung còn được gọi là OTC ( over the counter, tiếng Anh, và Hors Bourse hay ‘marché de gré à gré, tiếng Pháp ). Sự giao dịch được thực hiện qua mạng lưới các công ty chứng khoán khắp nước nhờ nối nhau qua mạng điện tử. Giá giao dịch được ấn định theo sự thỏa thuận. 2. Cơ cấu Về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, thị trường chứng khoán có hai loại : - Thị trường sơ cấp ( IPO, Initial Public Offering, tiếng Anh, và investisseur professionnel en capital dans des entreprises non cotées, tiếng Pháp ). Chợ
  2. mua bán chứng khoán mới phát hành. Tại chợ này, vốn đầu tư được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc mua chứng khoán mới phát hành. - Thị trường thứ cấp. Nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường này bảo đảm tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. 3. Nhiệm vụ: - Huy đông vốn đầu tư cho nền kinh tế. Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán của công ty phát hành, số tiền tiết kiệm của họ được đưa vào kinh doanh, sản xuất. Nhờ thị trường chứng khoán (TTCK), chính phủ và chính quyền địa phương có thể huy động tiền cho việc sử dụng vào việc phát triển hạ tầng cơ sở, phục vụ những nhu cầu chung của xã hội. - Tổ chức môi trường đầu tư cho mọi người. Thị trường chứng khoán tạo cho mọi người một môi trường đầu tư với nhiều cơ hội để lựa các loại chứng khoán khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro hầu các nhà đầu tư có thể chọn theo khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. - Tạo tính thanh khoản của các chứng khoán. Nhờ Thị trường chứng khoán, nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán đang nắm giữ thành tiền mặt hay đổi thành các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh toán là đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư nhờ tính linh hoạt và an toàn của tiền đầu tư. - Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. Qua chứng khoán, hoạt động doanh nghiệp được phản ảnh cách tổng hợp và chính xác, giúp việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. - Lập môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Chỉ báo của Thị trường chứng khoán phản ảnh động thái của nền kinh tế cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng, nhưng nếu giá chứng khoán giảm cho thấy dấu hiệu không tốt cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán, do đó, là thước đo nền kinh tế hầu Chính phủ đề ra các chính sách kinh tế vĩ
  3. mô. Qua Thị trường chứng khoán, Chính phủ sẽ mua và bán trái phiếu Chính phủ Nhà Nước để tạo nguồn thu động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư bảo đảm cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 4. Nguyên tắc hoạt động : - Cạnh tranh. Giá cả trên Thị trường chứng khoán phản ảnh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư. Họ được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm số tiền lời nhiều nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. - Công bằng. Mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong khi tiếp thu thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó. - Công khai. Chứng khoán là hàng hóa vô hình nên Thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin rõ ràng. Các tổ chức phát hành có bổn phận cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và bất thường thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức liên hệ. - Trung gian. Các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp từ các nhà phát hành mà nơi các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán thay khách hàng, hay kết nối khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán qua tài khoản của mình. - Tập trung. Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra tại sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quàn lý nhà nước và các tổ chức tự quản. 5. Chứng khoán là gì ?
  4. Đó là hàng hoá trên Thị trường chứng khoán bao gồm : cổ phiếu, trái phiếu và một số loại phiếu khác như quyền mua cổ phiếu mới, chứng chỉ quỹ đầu tư… Ở đây, chúng ta chỉ đề cập tới cổ phiếu và trái phiếu. Cổ phiếu là phiếu xác nhận quyền sở hữu số cổ phần ( action, tiếng Pháp, và share, tiếng Anh ) của từng sở hữu chủ và những lợi ích hợp pháp của họ đối với vốn của công ty cổ phần. Sở hữu chủ cổ phiếu được gọi là cổ đông của công ty đó và có các quyền lợi sau: Nhận cổ tức. Cổ tức ( dividende, tiếng Pháp, và dividend, tiếng Anh ) là số tiền lợi nhuận kinh doanh mà công ty chia cho mỗi cổ đông tùy theo số cổ phần mà họ có. Mức chi trả cũng như hình thức chi trả cổ tức tùy thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và do Đại hội cổ đông thường niên quyết định. Thí dụ: công ty cổ phần may mặc Mùa Xuân có Vốn là 500 triệu đồng, góp bởi 10.000 cổ phần có mệnh giá là 50.000 đồng. Năm 2007, lợi nhuận kinh doanh 120 triệu đồng. Trả thuế công ty 16,67% hết 20 triệu đồng. Còn lại 100 triệu, Công ty Mùa Xuân phải để ra 5% số tiền đó để làm Dự trữ pháp định tức 5 triệu. Như vậy, mỗi cổ phần nhận cổ tức là: 95 triệu/10.000 = 9.500 đồng. Cổ đông tên Nguyễn là sở hữu chủ cổ phiếu có ghi 1.000 cổ phần nhận được: 9.500 * 1.000 = 9,5 triệu đồng, tức số vốn 50 triệu với lợi suất là 19%, cao hơn nhiều so với gởi tiết kiệm chỉ có khoảng 8,5% ( trong tháng 02.2008, lãi suất tiết kiệm ‘đua nhau’ tăng vì các ngân hàng và tổ chức tín dụng cần tiền để mua tín phiếu bắt buộc do Ngân hàng Nhà Nước Việt-Nam phát hành, trị giá 20.000.300 tỷ đồng, tương đương với 1,270 tỷ mỹ kim để rút bớt số tiền lưu hành). Tuy nhiên, phải coi chừng, nếu công ty Mùa Xuân kinh doanh thua lỗ thì chẵng những cổ tức là số 0 mà mệnh giá cổ phần còn có thể bị giảm. Để tránh tình trạng đó, các công ty thường không chia hết lời mà trích ra một phần để làm dự trữ nhiệm ý như 5% (= 5 triệu đồng) trong nhiều năm đủ để có thễ trả trong những năm không có hay có lợi nhuận ít. Trong thí dụ này, công ty Mùa Xuân chỉ dem chia 90 triệu/10.000 = 9.000 đồng. Cổ đông tên Nguyễn nhận được: 9.000 * 1.000 = 9 triệu đồng cổ tức, tức lợi suất 18%. Ngoài ra, cổ đông còn có những quyền khác như: mua cổ phần mới, bỏ phiếu trong các cuộc họp Đại hội cổ đông và được tiếp cận thông tin (thông báo mọi diễn biến trong công ty, đặc biệt những sự kiện có khả năng tác
  5. động mạnh đến giá cổ phiếu, các báo cáo tài chính định kỳ...) Cổ tức và các quyền trên không phải là nguồn lợi duy nhất do cổ phần mang lại. Cổ đông còn hy vọng vào một khoản chênh lệnh giữa giá mua và giá bán cổ phần. Nếu cổ phần tăng giá so với thời điểm mua vào thì khi bán ra ta sẽ có lãi, còn ngược lại, nếu cổ phần xuống giá thì sẽ lỗ vốn. Tuy nhiên việc lỗ và lãi này chỉ mang tính chất sổ sách nếu bạn chưa bán cổ phần. Trị giá các cổ phần một người đang sở hữu tượng trưng một tỷ lệ nhất định vốn công ty cổ phần. Đó có quyền làm chủ một phần của công ty đó. Người cầm trái phiếu là chủ nợ của doanh nghiệp với trị giá trái phiếu người ấy đang nắm giữ. Tiền lời được trả hàng năm theo một lãi suất cố định thường cao hơn lãi suất tiết kiệm dịnh kỳ vì thời gian dài hơn. Khi cần tiền, người cầm trái phiếu có thể đem bán các phần trái khoán (obligation) tại Thị trường chứng khoán. Có những trái khoán có thể chuyển đổi thành cổ phần. Người sở hữu trái phiếu (còn gọi là trái chủ) sẽ được ưu tiên thanh toán khi thanh lý tài sản, lúc công ty bị tuyên bố phá sản trước các cổ đông. II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. Lịch sử - Công cuộc chuẩn bị thành lập Thị trường chứng khoán VN đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam, ra đời bởi Nghị định 75/CP ngày 28.11.1996, phụ trách. Ngày 11.07.1998, Nghị định số 48/CP được ban hành về chứng khoán và Thị trường chứng khoán VN. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) đặt tại Sài gòn và Hà Nội. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Sài gòn khai trương ngày 28.07.2000 chiếu Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11.07.1998 với 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. - Chỉ số VN–Index thể hiện biến động giá cổ phiếu giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Sài gòn. Công thức tính chỉ số áp dụng đối với toàn bộ các cổ phiếu niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán nhằm thể hiện xu hướng giá cổ phiếu hàng ngày, so với trị giá Thị trường chứng khoán gốc vào ngày 28.07.2000, được ấn định là 100 làm cơ bản. VN–
  6. Index được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, hủy niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết. Cuối năm 2006, chỉ số đã lên tới 751, tăng hơn gấp đôi, từ hơn 300 lên 750. Từ đầu năm 2007, chỉ số VN–Index gia tăng với tốc độ. Ngày 05/01 tăng tới 800, chỉ một tuần sau đã đến 900 và đạt đỉnh 1170,67 điểm ngày 12.03.2007, cao nhất trong lịch sử 7 năm hình thành Thị trường chứng khoán. Nhưng, trong những tháng sau đó, Vn-Index liên tục sụt giảm và chỉ ở khoảng 900 đến 1000 điểm, thậm chí có lúc tụt xuống dưới 800 điểm. Một so sánh, chỉ số Dow Jones của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán New York ra đời năm 1896, năm 1906 lên đến 100. Từ số 100, muốn lớn gấp 5 lần, Dow Jones phải đợi tới năm 1956 (50 năm sau) mới đạt tới con số 500. Năm 1972, Dow Jones mới lên được tới 1000 và năm 1972 tăng đến 2000. 2. Làm sao để mua bán chứng khoán ? Tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, nhà đầu tư có thể : - Mua chứng khoán trực tiếp tại tổ chức phát hành : nhà đầu tư phải đăng ký mua và nộp tiền trực tiếp tại tổ chức phát hành chứng khoán, nhưng không thuận vì phải di chuyển. Mua chứng khoán gián tiếp thông qua trung gian, tức các nhà đại lý hoặc các nhà bảo lãnh phát hành, thường tại các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại. Nếu bạn mua chứng khoán của tổ chức phát hành chưa niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thì việc chuyển nhượng hoặc bán lại chứng khoán đó cho người khác gặp nhiều khó khăn vì không dễ tìm được người mua. Hơn nữa, bên bán phải trực tiếp đến công ty (hoặc uỷ quyền) để thực hiện chuyển nhượng cho người mua. - Mua bán chứng khoán niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Chứng khoán niêm yết có đủ điều kiện và tiêu chuẩn được đăng ký để mua bán tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, thường là các công ty kinh doanh có hiệu quả phát hành, tình hình tài chính đã được kiểm toán và thông tin về doanh nghiệp được công bố công khai cho mọi người biết. Tiến trình giao dịch chứng khoán niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng
  7. khoán nhu sau: Bước l: Nhà đầu tư mở tài khoản và đặt lệnh mua hay bán chứng khoán tại một công ty chứng khoán. Bước 2: Công ty chuyển lệnh đó cho đại diện của công ty tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Người đại diện này sẽ nhập lệnh vào hệ thống của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Bước 3: Trung tâm gian dịch chứng khoán thực hiện ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho công ty chứng khoán. Bước 4: Công ty chứng khoán thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư. Bước 5: Nhà đầu tư nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người bán) trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc kể từ ngày mua bán. Như vậy, nhà đầu tư chỉ có thể mua bán chứng khoán thông qua công ty chứng khoán trung gian chứ không được giao dịch trực tiếp tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán hoặc trực tiếp với nhau. 3. Nguyên lý Cung (cấp) – (nhu) Cầu (offre – demande, tiếng Pháp, và offer hay supply – demand, tiếng Anh). Thí dụ, đầu mùa sầu riêng, vì mức cung trái sầu riêng đem ra chợ còn ít và số cầu của người tiêu thụ nhiều, nên giá thỏa thuận mua bán sầu riêng ở mức cao (mắc). Khi giữa mùa, số trái sầu riêng đem bán tăng so với số người tiêu thụ thì giá hạ xuống (rẻ). Muốn thỏa mãn nhu cầu, người mua phải có tiền (ngân khoản) để mua. Do đó, khi Cung tăng -> Giá hạ. Trái lại, khi Cung giảm -> Giá (= Cầu) tăng. Trên Thị trường chứng khoán, nguyên lý Cung – Cầu được thể hiện hoàn toàn vì đây là ‘trò chơi’ của nền kinh tế tư bản (phe chống tư bản Pháp cho là ‘gagner en dormant’ (thu lời tiền khi ngủ) trái với ‘lao động là vinh quang’). Cổ phần Công ty Mùa Xuân vẫn ghi mệnh giá 50.000 đồng, nhưng trong thực tế nó là: 50.000 (vốn) + 1.000 (dự trữ) = 51.000 đồng (trị giá thực vì nếu Công ty Mùa Xuân giải tán, thì chủ mổi cổ phần lấy về 51.000,
  8. thay vì 50.000 đồng đã mang vào khi gọi vốn). 51.000 là giá phải chăng của cổ phần Mùa Xuân ở TTCK nơi niêm yết, thí dụ Sài gòn. Bây giờ, chúng ta tưởng tuợng đang sống năm 2010 và coi kết quả năm 2007 là kết quả năm 2009. Công ty Mùa Xuân đăng ký thương hiệu để sản xuất khăn quàng dùng trong các dịp nầy. Công ty trình dự hoàn thành 1 triệu khăn quàng nhiều màu vào tháng 10, kịp lễ Kỷ niệm vào 24.11.2010. Giá thành một khăn quàng được chiết tính là 600 đồng. Như vậy, phải bán với giá nào để bảo đảm lãi suất 18% cho cổ đông ? Năm kinh doanh trước, với 500 triệu vốn đã có lợi nhuận kinh doanh 120 triệu, tức lời 24% hay 0.24. Như vậy, chúng ta có hệ số: 1 (vốn) + 0,24 (lời) = 1,24. Như vậy, mỗi khăn quàng phải bán với giá: 600 * 1,24 = 744 đồng và hy vọng thu được 744 triệu đồng khi bán hết. Dự án được cổ đông đồng ý tiến hành thực hiện. Kết quả bán được 0,97 triệu khăn quàng và thu: 744 đồng x 0,97 triệu = 721,68 triệu đồng. Lợi nhuận kinh doanh 121,68 triệu đồng. Trả thuế công ty 16,67% hết 20,28 triệu đồng. Còn lại 101,40 triệu, Công ty Mùa Xuân phải để ra 10% số đó để làm Dự trữ pháp định (5%) và nhiệm ý (5%): 10,14 triệu. Như vậy, tổng số tiền đem chia là 91,26 triệu đồng và mỗi cổ phần nhận cổ tức là: 91.26 triệu/10.000 = 9.162 đồng, tức lãi suất 15,27% so với vốn. Lãi suất có thấp hơn kinh doanh may mặc không ? Lãi suất may mặc là 18% nhưng trong 12 tháng. Lãi suất may khăn quàng tuy chỉ là 15,27%, nhưng trong 9 tháng (từ tháng 03 tới tháng 11.2010) mà thôi. Nếu tính 12 tháng thì lãi suất sẽ là (15,27% x 12) / 9 = 20,36%. Cuối tháng 11.2010, trị giá một cổ phần công ty Mùa Xuân có thể là: 51.000 đồng (2007) + (cổ tức và dự trữ may khăn quàng 9.126 + 1.014) …… 10.140 đồng + [ lời do may mặc dự đoán cho 11 tháng 2010, căn cứ theo 2007: (9500 x 11) / 12] …………………………………………. 8.708 đồng 69.848 đồng.
  9. Giá một cổ phần công ty Mùa Xuân trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Sài gòn khi niêm yết là 50.000 đồng đến ngày 30.11.2010 có thể là 69.848 đồng. Cho đến lúc này, các cổ phần công ty Mùa Xuân thuộc quyền sở hữu của 275 cổ đông người Việt. Ngày 01.12.2010, quỹ đầu tư ngoại quốc ECU tung 71 triệu đồng để mua 1.000 cổ phần, tức giá 71.000 đồng/cổ phần. Nhiều cổ đông thấy có lời vì giá mỗi cổ phần mua 50.000 nay bán được 71.000 đồng. Nhiều nhà đầu tư nhỏ tin rằng khi ECU mua cổ phần công ty Mùa Xuân vì việc kinh doanh may mặc của Mùa Xuân có khả năng lời lớn. Họ sẳn sàng trả cao hơn để mua 74.000 đồng/cổ phần và mua 5.000 cổ phần. Giá đã tăng theo nguyên tắc Cung-Cầu: khi số người muốn mua (Cầu) cổ phần Mùa Xuân tăng, thì những cổ đông (Cung) chỉ thuận bán khi số tiền mua lớn hơn lợi nhuận công ty Mùa Xuân đang đem lại. Cuối ngày 01.12.2010, giá một cổ phần là 74.000 đồng. Trong đó có 69.848 đồng là giá thực và 4.152 đồng là giá ảo hay không khí trong một cái bong bóng. 4. Qui định giao dịch chứng khoán: - Giá tham chiếu những chứng khoán đang giao dịch thường là giá khớp lệnh của phiên giao dịch trước và được chọn làm căn bản cho việc tính giới hạn dao động giá chứng khoán. - Biên độ dao động giá là khoảng dao động giá chứng khoán qui định trong ngày giao dịch. Biên độ được áp dụng hiện ở Việt-Nam là cộng trừ 5% giá tham chiếu đối với cổ phiếu phiên giaoi dịch trước. Thí dụ: Giá giao dịch của cổ phiếu Mùa Xuân trong ngày 02.11.2010 sẽ nằm trong khoảng từ 70.300 đến 77.700 đồng. - Giá khớp lệnh. Trong mỗi phiên giao dịch, giá giao dịch của mỗi loại chứng khoán được hình thành sau khi khớp các lệnh được nhập vào hệ thống theo trình tự nguyên tắc ưu tiên sau: Ưu tiên về mức giá: * Lệnh MUA có mức giá CAO hơn sẽ được ưu tiên thực hiện trước.
  10. * Lệnh BÁN có mức giá THẤP hơn sẽ được ưu tiên thực hiện trước. Ưu tiên về thời gian: các lệnh mua bán có cùng mức giá thì lệnh nào nhập trước vào hệ thống giao dịch được ưu tiên thực hiện trước. Ưu tiên về khối lượng: nếu cả mức giá và thời gian đều như nhau thì lệnh nào có khối lượng lớn hơn sẽ được ưu tiên thực hiện trước. Giá giao dịch được xác định theo nguyên tắc: * Mức giá thực hiện với khối lượng giao dịch lớn nhất; * Nếu có nhiều mức giá cùng thuận với khối lượng giao dịch lớn nhất thì chọn mức giá gần với giá tham chiếu. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT-NAM NĂM 2007 1. Thị trường chứng khoán Việt-Nam tăng rất mạnh năm 2007, giá trị giao dịch tăng rất cao, tương đương 3 lần so với năm 2006. Tổng giá trị vốn hóa thị trường đến ngày 28.12.2007 đã đạt gần 500 ngàn tỷ đồng (sàn Sài gòn 370 ngàn tỷ đồng và tại Hà nội 130 ngàn tỷ đồng). So với GDP năm 2007 ( ước đạt 1.140 ngàn tỷ đồng ) thì tổng giá trị vốn hóa Thị trường chứng khoán Việt-Nam đạt 43,9%, cao hơn rất nhiều so với năm 2006 chỉ đạt 22,7% và năm 2005 là 1,21%. Tuy nhiên, tính bằng mỹ kim thì tổng giá trị vốn hóa thị trường của Việt-Nam mới đạt khoảng 31,25 tỷ mỹ kim, còn thấp xa so với quy mô của các Thị trường chứng khoán các quốc gia trong khu vực, thì nói chi so với ở châu Á hay thế giới. 2. Việc huy động vốn trong năm 2007 được xem là đặc điểm của Thị trường chứng khoán Việt-Nam ước đạt 90.000 tỷ đồng thông qua đấu giá, phát hành thêm trên thị trường chính thức, tăng gấp 3 lần so với tổng mức huy động vốn của năm 2006. 179 doanh nghiệp được phép chào bán 2,46 tỷ cổ phần trên Thị trường chứng khoán trị giá khoảng 48.000 tỷ đồng, gấp 25 lần so với năm 2006. 3.468 triệu trái phiếu tương ứng với 3.750 tỷ đồng cho ba ngân hàng thương mại cổ phần. 3. Thị trường chứng khoán Việt-Nam hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư ngoại quốc. Số tài khoản giao dịch của họ đạt trên 7.500 tài
  11. khoản, trong đó nhà đầu tư tổ chức khoảng 300 tài khoản, tăng gấp 3 lần so với năm 2006, nắm giữ từ 25-30% cổ phần của công ty niêm yết và doanh số giao dịch chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị trường. Mức đầu tư ngoại quốc đạt gần 20 tỷ mỹ kim (thị trường chính thức là 7,6 tỷ mỹ kim và thị trường không chính thức 16,4 tỷ.) Các nhà đầu tư lẫn các quỹ tài chính ngoại quốc vừa lắm tiền vừa nhiều kinh nghiệm giá cả cổ phần của nhiều quốc gia nên họ biết phải đầu tư vào đâu để sinh lợi và sinh lợi. Tại Thị trường chứng khoán, nếu có những người có lời bao nhiêu thì, đồng thời, cũng phải có những người bị thua lỗ một số tiền tương đương. Vậy, ai là những người bị thua lỗ đó? Đó là những người Việt-Nam đang làm việc và sinh sống trẽn Quê hương mình. Một cách trực tiếp như tường thuật Thời báo kinh tế Việt-Nam ngày 08.01.2007: « Chị Hoàng Thị Mai, một nhà đầu tư cá nhân than thở: ‘Do “thắng” trong tháng 11 nên quyết định thế chấp một căn nhà ở quận 3 để vay tiền ngân hàng mua cổ phiếu, trong đó mua nhiều nhất là cổ phiếu TDH trong 2 phiên giao dịch đầu tiên với giá 300 và 315.000 đồng/cổ phiếu’. Tổng cộng chị Mai mua được 10.000 cổ phiếu TDH với số tiền hơn 3 tỷ đồng. Khi giá liên tục rớt xuống sàn, chị Mai quá hoảng sợ, liên tiếp đặt lệnh bán nhưng không sao bán được do nhiều nhà đầu tư ào ạt bán ra, mãi đến phiên 4/1 chị mới bán được 10.000 cổ phiếu TDH với giá sàn (166.000 đồng/cổ phiếu) và lỗ hơn 134.000 đồng/cổ phiếu (tổng lỗ hơn 1,34 tỷ đồng, chưa kể tiền lãi ngân hàng). ‘Tại sao chị lại “chạy đua” vào cổ phiếu TDH với giá quá cao như vậy?’ Trả lời câu hỏi này, chị Mai bộc bạch: ‘Quá tin vào thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về kinh doanh của Công ty Phát triển nhà Thủ Đức cùng với đi coi một số dự án cao ốc mà Thủ Đức liên doanh với công ty của Hàn Quốc xây dựng, tôi đã quyết định vội vàng mua ngay cổ phiếu TDH với giá quá cao, tôi bị những cổ đông lớn của Thủ Đức quật ngã quá đau’. Ý kiến chúng tôi là: chỉ nên dùng tiền tiết kiệm để ‘chơi’ chứng khoán, nhất là cổ phần. Nếu bị lỗ chỉ mất tiền tiết kiệm thôi, chứ thế chấp nhà để vay
  12. tiền ngân hàng mua cổ phiếu là một việc vô cùng nguy hiểm vô cùng vì có thể mất nhà và trở thành ‘dân oan’ trong thời giá thuê nhà đất cao vô lý và bất công: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu ( Điều 5.1 luật Đất đai ngày 26.11.2003 )? Ngoài ra, VNnet ngày 09.10.2006, dưới tiểu tựa ‘Trả giá cho nguyện vọng đầu tư chính đáng’ đã viết « Mới đây, Công An Hải Phòng đã bắt quả tang một nhóm tổ chức lừa đảo bằng cách dựng lên phiên chợ giới thiệu và bán cổ phiếu phổ thông. Điều tra cho thấy, Lý Hữu Hoàng là một Việt kiều tại Mỹ, về Hải Phòng móc nối một số người Việt tổ chức làm giả con dấu của một công ty cổ phần rồi tổ chức phát hành cổ phiếu phổ thông với tổng mệnh giá lên đến 800 tỷ đồng. » Một cách gián tiếp, người Việt đã phải gánh chịu lạm phát tăng cao 12,63% tháng 12/2007 so với tháng 12/2006. 4. Ngày 28.05.2007, Ngân hàng Nhà nước Việt-Nam ban hành Chỉ thị số 03/2007/CT – Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá,… để khách hàng đầu tư, kinh doanh chứng khoán của tổ chức tín dụng ở mức dưới 3% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng đó. Mức quy định dưới 3% các Tổ chức tín dụng phải thực hiện với thời điểm cuối cùng là 31.12.2007. Theo chúng tôi đây là biện pháp chính đáng vì vừa tránh tình trạng rủi ro do con nợ không có khả năng hoàn trái (trả nợ) và vừa cần dành tín dụng cho việc sản xuất để cân đối tiền – hàng hầu giảm mức lạm phát. Ngân hàng Nhà nước cho rằng đây là biện pháp cần thiết để hạn chế vốn tín dụng ngân hàng đầu tư vào Thị trường chứng khoán vì gây tiềm ẩn rủi ro cho cả Ngân hàng thương mại cho vay và cả Thị trường chứng khoán Việt-Nam. Nhưng, cuối cùng, chỉ thị này có được áp dụng không khi VN-Index ngày 22.02.2008 xuống chỉ còn 673,32 điểm? Cùng ngày, theo tin của hãng thông tấn Dow Jones, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa thông qua đề nghị của Bộ Tài Chánh Việt-Nam cho phép các nhà đầu tư nước ngoài dùng đôla để mua cổ phiếu IPO của các công ty. Chúng ta biết rằng đồng tiền Việt-Nam tượng trưng cho chủ quyền quốc gia. Hà Minh Thảo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2