intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Kinh tế vĩ mô: Phân tích một số giải giải pháp kiềm chế lạm phát được nêu trong Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội

Chia sẻ: Bùi Cần | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

220
lượt xem
55
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận môn Kinh tế vĩ mô "Phân tích một số giải giải pháp kiềm chế lạm phát được nêu trong Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội" được nghiên cứu với các nội dung: Tổng quan về lạm phát, Tình hình kinh tế và thực trạng lạm phát 2011, các giải pháp kiềm chế lạm phát.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Kinh tế vĩ mô: Phân tích một số giải giải pháp kiềm chế lạm phát được nêu trong Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội

  1. TRƯƠNG ĐAI HOC LÂM NGHIÊP ̀ ̣ ̣ ̣ TIÊU LUÂN MÔN KINH TÊ VI MÔ ̉ ̣ ́ ̃ Phân tích môt sô giai  gi ̣ ́ ̉ ải pháp kiềm chế lạm phát được nêu trong Nghị quyết số  11/NQ­CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung  kiềm chế lạm phát,  ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội Giang viên h ̉ ương dân ́ ̃ Hoc viên th ̣ ực hiên:  ̣ Lơp:        ́ 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU Trong bối cảnh kinh tế dất nước đầu năm 2011, nói đến kinh tế vĩ mô là chúng ta   nói đến lạm phát, tăng trưởng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại, cán cân  vãng lai và cán cân thanh toán tổng thể, tỷ lệ  giữa đầu tư  và tích lũy, tỷ  lệ  thất nghiệp,   biến động tỷ  giá và dự  trữ  ngoại hối ….phân tích đặc điểm kinh tế  đầu năm 2011 cho  thấy lạm phát tăng cao trong nhiều năm Sau một thời gian dài bị lãng quên, gần đây lạm phát ở Việt nam lại bắt đầu được   một số  các nhà kinh tế  trong nước và ngoài nước đưa ra tranh luận. Sở  dĩ vấn đề  này  được quan tâm vì gần đây chỉ số giá tiêu dùng trong nền kinh tế tăng đột biến trong nửa   đầu năm nay, CPI tăng 7,2% và dự  đoán có thể  còn tiếp tục tăng vào những tháng cuối  năm ở mức hai con số là hoàn toàn có thể. Điều này đã vượt qua kế hoạch kiềm chế lạm  phát ở mức 5% như kế hoạch đầu năm của Quốc Hội. Trước tình hình thực tế như vậy,  phản ứng trong chính sách điều hành kinh tế cũng đã rất nhanh nhạy, kịp thời. Ngay trong   tháng 2/2011, Chính phủ  đã ra Nghị  quyết số  11/NQ­CP, chuyển trọng tâm điều hành  chính sách sang “tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã   hội”. Quan điểm chỉ đạo này được khẳng định tại Kết luận số 02­KL/TW ngày 16/3/2011   của Bộ Chính trị là: “Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiêm chê lam phat;  ̀ ́ ̣ ́ ổn định kinh   tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm   2011, vừa là nhiệm vụ  quan trong c ̣ ủa một vài năm tiếp theo”. Bài viết dưới đây sẽ  cho   chúng ta thấy thực trạng lạm phát và các chính sách kiềm chế lạm phát trong nghị  quyết  11/NQ­CP của chính phủ. 2
  3. Phân 1 ̀ TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT 1.1 Khái niệm về lạm phát Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho  chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. Hay nói cách  khác, lạm phát là việc giá cả các hàng hóa tăng lên so với mức giá ở thời điểm trước (vật  giá leo thang). Đó là sự  gia tăng giá chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, không   phải của chỉ một số hàng hóa cá biệt. Việc tăng mức giá chung đồng nghĩa với sức mua  của đồng tiền giảm đi. Hay nói cụ thể hơn là với cùng một lượng tiền nhưng người tiêu  thụ mua được ít hàng hóa hơn so với trước đây. Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm  phát trái ngược với lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái.  Nguyên   nhân chính của giảm phát là do tổng cầu giảm, Có thể  dùng sơ  đồ  AD­AS để  minh họa   điều này.  Ban đầu tổng cầu tương  ứng với đường AD. Điểm cân bằng của nền kinh tế  là   điểm E tại giao điểm của hai đường AD và đường AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng  cầu giảm, đường AD dịch chuyển song song sang trái thành đường AD' cắt đường AS ở  điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của nền kinh tế  và so với điểm cân bằng cũ E, sản   lượng và mức giá chung đều giảm. 1.2 Cách đo lường lạm phát  Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá tổng  quát theo thời gian. Vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tổng quát được tính toán như thế  nào?  3
  4. Hai thước đo thông dụng phản ánh mức giá tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI)  và chỉ số điều chỉnh GDP (GDP deflator).  1.2.1 Chỉ số giá tiêu dùng CPI CPI được sử dụng một cách phổ  biến trong việc đánh giá mức lạm phát . CPI đo   lường mức giá trung bình của 1 nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ  gia đình trong 1 giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị  hiện  tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hang hoá đã được chọn theo quy định: Ưu điểm: Cho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian. Nhược điểm:  Không phản ánh được sự  thay đổi trong cơ  cầu tiêu dùng , đồng  thời cũng không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hoá dịch vụ. Ở Việt Nam , CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình  quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được công bố  cùng chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ. 1.2.2 Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội GDP Chỉ số giảm phát GDP là chỉ  số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của  tất cả  các loại hàng hoá, dịch vụ  sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết   một đơn vị  GDP điển hình của kỳ  nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so  với mức giá của năm cơ sở. Ưu điểm: Phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau. Nhược điểm: Chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì   GDP chỉ  tính sản phẩm trong nước) , không phản ánh được sự  giảm sút phúc lợi của   người tiêu dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng nào đó. 1.3 Nguyên ngân của lạm phát Khi  nghiên  cứu  nguyên  nhân  của  lạm  phát,  các  nhà  kinh  tế  có  nhiều  quan điểm  khác nhau do tiếp cận nó ở nhiều góc độ. Tuy vậy, tựu trung lại có các quan điểm sau: 1.3.1  Lạm phát do cầu kéo Khi  nền  kinh  tế  đạt  tới  hay vượt  quá  sản  lượng tiềm  năng,  việc  tăng tổng  mức  cầu dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu. Số cầu tăng  là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng.  số  lượng  tiền  tệ  tăng  do  nhiều  yếu  tố,  trong  đó  quan  trọng  hơn  hết  và  thường  xảy ra  4
  5. hơn  hết  là do  thiếu  hụt  ngân  sách  nhà  nước.  Thiếu  hụt  này  được  tài  trợ  bằng  nhiều  cách:  phát  hành  trái  phiếu, vay  mượn  ở  nước  ngoài  và  nay  mượn  ở  ngân hàng  trung  ương. 1.3.2  Lạm phát do chi phí đẩy Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố  sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy. vấn đề  đặt ra là tại sao chi phí tăng lên? Nhiều nhà kinh tế  cho rằng tiền lương tăng lên là một   nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền ltrong cao hơn tốc độ tăng năng suất  lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy chi phí tiền ltrong tăng lên là do các công   đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác lại cho rằng chính công đoàn đã đóng   vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ  tăng của lạm phát và giữ  cho lạm phát  không giảm xuống quá nhanh vì các họp đồng ltrong của công đoàn thường là dài hạn và  khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như  dầu mỏ, sắt thép... cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên,   dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán. 1.3.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công,  nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... gần như đã được khai thác tối  ưu. Khi đó, mức cung  hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng  tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân  đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều  phối  có hiệu  quả,  khiến  cho khối  lượng hàng hóa không đáp  ứng tốt  nhu  cầu  tăng  lên  của  thị  trường.  Hàng  hóa  khan  hiếm  làm  cho  giá  cả  tăng  lên,  đó  là  hậu  quả  tất yếu.  Cũng cần lưu  ý rằng,  ngay lúc nền  kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ  cấu  kinh  tế  tổ  chức bất họp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và  dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường họp này  cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát. 1.3.4 Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác * Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù họp của nhà nước  như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất... làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất  cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân  sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất  yếu là  nhà nước phải  tăng chỉ  số  phát  hành tiền.  Đặc  biệt  đối  với  một  số  quốc  gia,  trong  những điều  kiện  nhất  định,  nhà  nước  chủ  trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế. *  Nguyên  nhân  khách  quan:  thiên  tai,  chiến  tranh,  tình  hình  biến  động  của  thị  trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới... 5
  6. Phân 2 ̀ TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM  NĂM 2011 2.1. Tổng quan về tình hình kinh tế Việt Nam năm 2011 Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước   ta liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao trên 7% trong hơn 20 năm qua (trong 5 năm 2003­2007   GDP tăng bình quân trên 8%/năm), đã bảo đảm kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng  kinh tế khá (bình quân đạt 7,3% thời kỳ 2001­2010), GDP năm 2010 gấp 2 lần năm 2000,   nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ  lệ  hộ  nghèo giảm nhanh và đã hoàn thành hầu hết mục tiêu Thiên niên kỷ  cam kết với   quốc tế, chính trị ­ xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững... Thế  nhưng, ngay sau khi  Đại hội XI bế  mạc (19/1/2011), tình hình kinh tế  đã   nhanh chóng xuất hiện những dấu hiệu bất  ổn. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế  cùng những nhiệm vụ của đổi mới thể  chế chưa được giải quyết dồn tích lại từ  nhiều   năm trước đã bộc lộ  ra một cách gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết một cách hệ  thống, căn bản và cấp bách. Trên bề  mặt của đời sống kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng của  năm 2011 đã tăng lên 1,5 lần so với mức lạm phát của năm trước (từ  mức 11,75% của  năm 2010 lên 18,13%). Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng lên, đặc biệt trong lĩnh  vực bất động sản, trực tiếp gây ra tình trạng rủi ro, bất  ổn đe dọa hệ  thống ngân hàng.  Số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng cao hơn trước… Kinh tế thế giới   cũng xuất hiện nhiều diễn biến xấu, lạm phát tăng, giá dầu thô, nguyên vật liệu cơ bản   đầu vào của sản xuất, lương thực, thực phẩm trên thị  trường tiếp tục tăng cao. Sau   khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo. Chỉ số giá tiêu dùng CPI trong năm 2010­2011 Trước tình hình thực tế  như  vậy, phản  ứng trong chính sách điều hành kinh tế  cũng đã rất nhanh nhạy, kịp thời. Ngay trong tháng 2/2011, Chính phủ đã ra Nghị quyết số  6
  7. 11/NQ­CP, chuyển trọng tâm điều hành chính sách sang “tập trung kiềm chế lạm phát, ổn   định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”. Quan điểm chỉ đạo này được khẳng định tại  Kết luận số 02­KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị  là: “Tập trung ưu tiên hàng đầu   cho việc kiêm chê lam phat;  ̀ ́ ̣ ́ ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội; coi đây vừa   là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ  quan trong c ̣ ủa một vài  năm tiếp theo 2.2 Thực trạng lạm phát trong năm 2011 Tính chung từ  đầu năm, lạm phát của cả  nước đã tăng 15,68% so với thời điểm   cuối năm 2010. So với cùng kỳ  năm ngoái, mặt bằng giá hiện tại đã cao hơn 23,02%.   Nhìn chung lạm phát nước ta đã có xu hướng tăng đáng kể  từ  đầu năm. Chỉ  số  giá tiêu  dùng CPI tăng mạnh từ  tháng 1 với 1,78% so với tháng trước và đỉnh điểm mức 3,32  ở  tháng 4. Thời gian tiếp theo chỉ số CPI có xu hướng giảm khi các thời điểm tháng 5, 6, 7  có giá trị  lần lượt so với tháng trước là 2,21%, 1,09%, 1,17%. Đặc biệt với 2 tháng 8, 9   con số này đã giảm xuống dưới 1% hạn chế sự tăng trưởng của lạm phát. Đỉnh cao của lạm phát 9 tháng đầu năm 2011 rơi vào tháng 4 với tỷ  lệ  9,64% so   với cuối năm 2010, vượt xa ngương 7% ma chinh phu đăt lam muc tiêu cho ca năm vào ̃ ̀ ́ ̉ ̣ ̀ ̣ ̉   thời điểm đó. Nêu so v ́ ơi cung ky năm ngoai, lam phat đa lên t ́ ̀ ̀ ́ ̣ ́ ̃ ới 17,51%, cao hơn mưć   ̉ ̣ ́ ̀ ̀ ́ ̉ đinh lam phat 16% ma Ngân hang Phat triên A châu đ ́ ưa ra cho Viêt Nam.Nhóm hàng và ̣   dịch vụ giao thông tăng gia manh, t ́ ̣ ơi 6,04%. ́ Chỉ  số  giá tiêu dùng cả  nước sau tháng 4 đã có xu hướng giảm xuống và tăng  2,21% trong tháng 5. Tuy tốc độ tăng có chậm lại so với tháng 4 nhưng mặt bằng giá hiện  tại, so với đầu năm và cùng kỳ  2010, đã cao hơn lần lượt là 12,07% và 19,78%. Đến  tháng 6 CPI tăng 1,09 so với tháng 5, nâng tổng mức lạm phát từ đầu năm đến thời điểm   đó lên 13,29% và cùng kỳ năm 2010 là 20,82. Sang tháng 7 CPI tăng nhẹ có giá trị 1,17 so   với tháng 6. Tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước chỉ tăng 0,93% nhờ sự giảm nhiệt   đáng kể của nhóm hàng ăn – dịch vụ ăn uống. Lạm phát tăng thấp nhất kể từ đầu năm là  tháng 9 với chỉ số tiêu dùng CPI tăng chỉ là 0,82 so với tháng trước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đà tăng giá tại nhóm hàng ăn và dịch vụ  ăn  uống tiếp giảm tốc khi chỉ tăng 0,28% trong tháng 9 (con số tương ứng của 2 tháng trước  7
  8. đó là 2,12% và 1,35%). Với quyền số khoảng 40% trong rổ hàng hóa tính CPI, nhóm này   đã có tác động lớn đến việc kiềm chế đà tăng của chỉ số giá (tăng tổng cộng 16,63% kể  từ đầu năm). Chỉ số giá ở nhóm giáo dục tăng rất mạnh, lên tới 8,62% trong tháng 9. Tuy   nhiên, con số này vẫn thấp hơn so với  mức 12% của cùng kỳ 2010. Bên cạnh bưu chính ­  viễn thông có xu hướng giảm khá đều trong nhiều tháng qua, giao thông là nhóm hàng thứ  2 giảm giá trong tháng này do tác động của quyết định giảm giá xăng vào cuối tháng 8.  Mức giảm tại 2 nhóm này lần lượt là 0,07% và 0,24%. Biểu đồ giá của các nhóm trong tháng 5/2011.  (Nguồn: GSO, NDHMoney) Chỉ  số  giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ  số  giá  tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010. Ngoài các mặt hàng nói trên, tất cả các nhóm còn lại trong rổ hàng hóa đều có xu  hướng tăng nhẹ. Nhóm duy nhất tăng giá trên 1% là hàng hóa ­ dịch vụ khác (do có sự góp   mặt của các mặt hàng trang sức, vốn chịu tác động mạnh của giá vàng). 2.3 Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam trong năm 2011 2.3.1   Nguyên nhân khách quan  Năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011, lạm phát trong nước vẫn nối đà tăng cao của   các năm trước đó. Không thể phủ nhận, lạm phát tăng cao như vậy một phần là do những  nguyên nhân khách quan đến từ thị trường thế giới cũng như trong nước:  ­ Giá nhiều loại hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu chủ chốt như xăng dầu, phôi thép,   khí dầu mỏ... trên thị  trường thế  giới tăng cao đã tác động đến giá xăng dầu, thép xây   dựng, gas, phân bón... trong nước tăng cao, điều này ảnh hưởng đến cho chi phí sản xuất,   hay còn gọi là “chi phí đẩy”. ­ Giá vàng trên thị  trường thế  giới tăng đột biến cũng khiến giá vàng trong nước  tăng mạnh gây tâm lý tăng giá lan tỏa sang các hàng hóa tiêu dùng khác trên thị trường.  ­ Dịch bệnh trên vật nuôi lan rộng và kéo dài (có thời kỳ  cả  nước có 30/63 tỉnh  thành có dịch bệnh) làm giảm mạnh nguồn cung thực phẩm và gia tăng chi phí chăn nuôi.   Ngoài ra, tình hình thời tiết khắc nghiệt trong một số giai đoạn cũng ảnh hưởng đến hoạt  8
  9. động sản xuất nông nghiệp và vì vậy  ảnh hưởng đến nguồn cung nông sản thực phẩm  tại một số thời điểm gây tăng giá hàng hóa.  ­ Sức hút từ  thị  trường các nước lân cận (Trung Quốc, Lào, Campuchia) do chênh  lệch giá một số mặt hàng khi trong nước thực hiện các chính sách bình ổn giá. Thời gian   qua, nhiều mặt hàng, nhất là  ở  các mặt hàng lương thực, xăng dầu, thực phẩm như  thịt   lợn, thủy sản, đã bị  thu gom và xuất khẩu qua biên giới cũng góp phần làm mất cân đối   nguồn cung hàng hóa trong nước. ­ Việc điều chỉnh lương cơ bản (lương tối thiểu) làm chi phí sản xuất bị  đẩy lên  gây ra lạm phát Có thể thấy, lương cơ bản vẫn tăng đều trong các năm từ năm 2009 đến năm 2011,  vậy tại sao chỉ trong các năm từ năm 2007 trở lại đây, lạm phát mới cao lên đột biến Từ  những lý do trên, rõ ràng không thể  nói những nguyên nhân khách quan là yếu  tố chính làm nên tình hình lạm phát căng thẳng như hiện nay, mà nguyên nhân chính phải   nằm ở những yếu tố nội tại của nền kinh tế. 2.3.2 Nguyên nhân chủ quan Lạm phát luôn có nguyên nhân từ tiền tệ, ở Việt Nam, không khó để nhận ra chính   sách tiền tệ đã có sự nới lỏng quá mức trong các giai đoạn trước đó, và hệ luỵ của nó là  tỷ lệ lạm phát cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011.  Sự  thiếu bài bản trong chính sách điều hành nền kinh tế  như: tăng giá đồng loạt  nhiều hàng hoá quan trọng, phá giá tiền tệ một cách giật cục đã góp phần khuếch đại tình  trạng lạm phát của Việt Nam. Chi tiêu công và sự độc lập của NHNN Chi tiêu công mà cụ thể là những khoản chi tiêu và đầu tư kém hiệu quả của Chính   phủ  thông qua các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chính là nguyên nhân chủ  quan quan  trọng nhất. Những khoản đầu tư  thua lỗ, việc sử  dụng đồng tiền một cách lãng phí khu vực   kinh tế  Nhà nước đã dẫn đến tình trạng mặc dù là khu vực được tập trung nhiều vốn  9
  10. nhất nhưng chỉ đóng góp khoảng 10% vào  nguồn thu của Ngân sách Nhà nước mỗi năm,  góp một phần không nhỏ cho tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên của Việt Nam: Ngân sách không dư thừa, nhưng thời gian qua, đặc biệt là trong năm 2010 để phục   vụ  cho mục tiêu tăng trưởng, Chính phủ  lại tiếp tục hùn vốn cho chi tiêu công, cho khu   vực hoạt động kém hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu các DN này đi vay một cách   công bằng trên thị  trường tài chính, hiển nhiên theo lý luận kinh tế  sẽ  làm tăng cầu quỹ  cho vay, đẩy lãi suất lên từ đó có ảnh hưởng tích cực đến lạm phát, nhưng ở đây lại nổi   lên vấn đề  về  tính độc lập của NHNN. Chính sách tiền tệ  của NHNN đưa ra trong các  năm qua luôn gắn kèm hai mục tiêu gần chẳng thế  nào thực hiện được cùng lúc: tăng  trưởng kinh tế, đi đôi với kiềm chế lạm phát; thế là khi Chính phủ đánh tiếng thiếu vốn  để tăng trưởng kinh tế, NHNN lại phải đi mua các trái phiếu đã bán từ hệ thống NHTM,  đưa thêm tiền vào hệ  thống này, việc liên tục tung tiền ra lưu thông trong khi lạm phát  vẫn tăng cao là kịch bản lặp đi lặp lại trong nhiều năm trở lại đây: Như vậy có thể nói, lạm phát tăng cao trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm   2011 là kết quả của chính sách tiền tệ nới lỏng trong thời gian trước đó, mà một phần rất   lớn lượng tiền đó là để phân bổ cho các hoạt động chi tiêu công. 10
  11.  Khả năng điều hành nền kinh tế Chính sách tài khoá mở  rộng là nguyên nhân chính làm nảy sinh lạm phát, nhưng  để có được mức lạm phát cao như trong giai đoạn cuối năm 2010 và đầu năm 2011, một  phần trách nhiệm thuộc về chính sách điều hành nền kinh tế một cách thiếu bài bản của   Chính phủ, cụ thể gồm: ­ Liên tục phá giá đồng tiền Việt.  ­ Tăng giá đồng loạt và đột ngột 2 hàng hoá quan trọng là điện và xăng dầu. +   Phá giá tiền tệ đột ngột Tính từ  thời điểm năm 2010 đến nay, NHNN đã có tổng cộng 3 lần phá giá đồng  VND. Ngày 11/2, Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng mạnh tỷ giá USD/VND tới 9,3%.   Nỗ lực giữ ổn định tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước vào trước đó đã khiến dự  trữ  ngoại   hối tại thời điểm quý 1/2011 chỉ  còn lại tương đương 3,5 tuần nhập khẩu. Tuy nhiên,   căng thẳng ngoại tệ không thuyên giảm, chênh lệch tỷ giá chính thức và chợ đến lên đến  10% là nguyên nhân chính dẫn tới việc điều chỉnh tỷ giá nói trên. Tỷ giá USD/VND  Tỷ lệ %  Tỷ giá USD/VND  Biên độ  Thời gian trước khi phá  VND bị phá  sau khi phá giá giao dịch giá giá 11/2/2010 17.941 18.544 +/­3% 3,36% 18/8/2010 18.544 18.932 +/­ 3% 2,09% 11/2/2011 18.932 20.693 +/­ 1% 9,3% Nhìn chung, nguyên nhân của các lần phá giá đều đến từ  việc giữ  cố  định tỷ  giá   bình quân liên ngân hàng trong một thời gian dài, trong khi tỷ giá giao dịch trên thị trường   tự do liên tục lên cao, đến khi chênh lệch giữa 2 thị trường đã lên tới mức cao thì NHNN   mới điều chỉnh giảm giá một cách đột ngột. Việc điều chỉnh tỷ giá một cách bất ngờ như  trên đã có ảnh hưởng rất tiêu cực đến mức giá cả nền kinh tế, đặc biệt với đặc điểm của   nền kinh tế Việt Nam  phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, việc giảm  giá đồng tiền  làm chi phí đầu vào tăng lên đáng kể, kết quả  là tình trạng lạm phát leo   thang do chi phí đẩy như thời gian vừa qua. + Điều chỉnh tăng giá đồng loạt điện và xăng dầu Điện và xăng dầu là 2 yếu tố  đầu vào quan trọng đối với bất kì ngành sản xuất   nào, việc điều chỉnh giá 2 mặt hàng này đòi hỏi phải xem xét dẫn thận trọng và có một   thời gian tách biệt nhất định để tránh ảnh hưởng đến mức giá cả chung.  Trong năm 2010  và 2011, cả 2 mặt hàng này đều được điều chỉnh tăng giá nhiều lần: 11
  12. Ngày 24/2, tại cuộc họp Chính phủ  với các địa phương, giá xăng dầu được điều  chỉnh tăng gần 20%, điện tăng 15,28%... Ông Nguyễn Sinh Hùng, lúc đó là Phó thủ tướng  Chính phủ  đã dùng cụm từ  “tình hình cấp bách” để  truyền đạt đi các biện pháp vĩ mô   nhằm ổn định lại lạm phát. 12
  13. Phân 3 ̀ CAC GIAI PHAP ĐA Đ ́ ̉ ́ ̃ ƯỢC CHINH PHU Đ ́ ̉ ƯA RA TRONG NGHỊ QUYẾT  11/NQ­CP Để  đối phó với lạm phát cao và bất  ổn kinh tế  vĩ mô,  ngày 22/4/2011 Chính Phủ  ban hành nghị quyết số 11/NQ­CP về những giải pháp chủ yếu nhằm kiềm chế lạm phát,   ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Tóm tắt 6 nhóm giải pháp chủ yếu: Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thận trọng. ­ Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư  công, giảm bội chi ngân  sách nhà nước. ­ Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng   tiết kiệm năng lượng. ­ Điều chỉnh giá điện, xăng, dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo. ­ Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội. ­ Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền. Các biện pháp trên có sự tương hỗ với nhau và qua 6 tháng thực hiện cho thấy hiệu  quả thực tế của chúng đối với nền kinh tế. Mỗi biện pháp áp dụng, bên cạnh những tác   động tích cực và bao giờ cũng vậy luôn có những tác động trái chiều. Do đó, cần phải cân  nhắc kỹ  lưỡng các tác động tích cực và tiêu cực cũng như  thời điểm áp dụng và thời   điểm dừng một cách hợp lý. Trong đo hai chinh sach quan trong la chinh sach tiên tê thăt ́ ́ ́ ̣ ̀ ́ ́ ̀ ̣ ́  ̣ ̀ ́ ́ ̀ ́ ́ ̣        chăt va chinh sach tai khoa thăt chăt. 3.1 Chính sách tiền tệ thắt chặt Để kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tổng phương diện thanh toán, dư nợ tín   dụng, điều chỉnh cơ cấu tín dụng, NHTW đã:  ­ Yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm chỉnh tăng trưởng tín dụng dưới  20% trong cả năm 2011, tập trung vốn tín dụng cho phát triển sản xuất kinh doanh, nông   nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ  trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời   giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ tín dụng trong lĩnh vực phi sản xuất xuống mức 22% đến  30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011; ­ Điều chỉnh tăng dần các mức lãi suất chính sách của NHTW và tỷ lệ  dự  trữ bắt   buộc bằng ngoại tệ cho phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô và tốc độ  tăng của chỉ  số giá tiêu dùng. ­ Điều hành lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn phù hợp với   nhu cầu của thị trường tiền tệ. ­ Tái cấp vốn và gia hạn các khoản vay hỗ  trợ  vốn tín dụng nông nghiệp, nông  thôn đến hạn thanh toám. Bên cạnh đó, NHTW còn thực hiện một loạt các biện pháp nhằm duy trì lãi suất thị  trường  ở  mức hợp lý và đảm bảo khả  năng thanh khoản của nền kinh tế  và hệ  thống  ngân hàng:  ­ Điều chỉnh tăng 9,3% tỷ  giá bình quân liên ngân hàng từ  11/02/2011 và thu hẹp   biên độ ấn định tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng so với tỷ giá bình quân liên ngân  hàng từ ± 3% xuống ±1%. 13
  14. Biến động các lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ­ Quy định lãi suất huy động tối đa bằng ngoại tệ, thu hẹp đối tượng cho vay bằng   ngoại tệ. Theo đó, trọng tâm là phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa  theo hướng chặt chẽ, thận trọng. Theo báo cáo của Chính Phủ, cuối quý II/2011, đến nay   đã có những dấu hiệu lạc quan bước đầu: ­ Do phải tập trung mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định  kinh tế vĩ mô nên tốc độ  tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2011 có bị ảnh hưởng, ước đạt 5,57%. ­ Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu, kế  hoạch đề  ra.   Giá trị  sản xuất công nghiệp tháng 6/2011  theo giá cố  định tăng 15,2% so với cùng kỳ  năm trước, tính chung 6 tháng đầu năm 2011 tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2010. ­ Sản xuất nông nghiệp tiếp tục có sự  phát triển ổn định. Trong 6 tháng đầu năm   2011,  ước giá trị  sản xuất nông, lâm, nghiệp và thủy sản theo giá cố  định tăng 3,7% so  với cùng kỳ năm 2010. ­ Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ  hàng hóa và doanh thu dịch vụ  tiêu   dùng 6 tháng đầu năm 2011  ước đạt trên 911 nghìn tỷ  đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ  năm 2010. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2011 tăng  18,1% so với cùng kỳ năm trước. ­ Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh  xã hội theo các chương trình, dự  án, kế  hoạch đã được phê duyệt; tích cực triển khai  chương trình mục tiêu quốc gia về  xây dựng nông thôn mới; tăng cường chỉ  đạo phòng   chống, khắc phục hậu quả thiên tai bão lũ… làm tốt công tác giải quyết việc làm. Trong   6 tháng đầu năm 2011, ước tạo việc làm cho khoảng 722,8 nghìn người, bằng 45,2% kế  hoạch năm, trong đó xuất khẩu lao động khoảng 44 nghìn người, đạt 50,6% kế  hoạch   năm. 14
  15. ­ Các Bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã cẳt  giảm, điều chuyển tổng số vốn trong năm 2011 là 80.550 tỷ đồng (chưa tính số vốn đầu   tư  giảm từ  NSNN của năm 2011 so với thực hiện năm 2010), bằng khoảng 9% tổng số  vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011. ­ Tổng phương tiện thanh toán đến 20/6/2011  ước tăng 1,25% so với tháng trước   và tăng 2,45% so với tháng 12/2010. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng đang dần được   cải   thiện.   Tổng   số   dư   tiền   gửi   của   khách   hàng   tại   các   tổ   chức   tín   dụng   đến   ngày  20/6/2011 ước tăng 1,04% so với cuối tháng trước và tăng 2,88% so với cuối năm 2010. ­ Lãi suất đang có xu hướng giảm do giá cả thị  trường giảm, các cân đối và tỷ giá  ngoại tệ  đang đi dần vào thế   ổn định. Lãi suất huy động VND bình quân hiện  ở  mức   15,5%, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khoảng 18,7%. ­ Tỷ giá giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ đang có xu hướng giảm và ổn định ở  mức thấp hơn tỷ giá trần cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ ngoại hối cũng đang   dần được cải thiện, đã tăng được gần 3 tỷ USD.  ­ Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 tăng 30,3% so với cùng kỳ năm   trước và gấp hơn 3 lần chỉ tiêu kế  hoạch đã được Quốc hội thông qua (10%). Đặc biêt,  nhập siêu tháng 6/2011 ước đạt 0,4 tỷ USD, bằng 5,1% kim ngạch xuất khẩu, đây là tỷ lệ  nhập siêu thấp nhấp trong vòng 6 tháng qua.  ­ Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2011 tăng 1,09% so với tháng trước, giảm đáng kể so  với các tháng trước và là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm. Chi phí vay đã lên rất cao 21%­ 24% và duy trì trong 6 tháng qua của 2011, cung   tiền tăng rất thấp trong 6 tháng đầu năm (tăng 2,6% so với bình quân 9% trong 10 năm quá  khứ) – sức cầu tiêu dùng đã chậm và yếu đi thấy rõ. Tổng mức bán lẻ  tăng trưởng của  Việt Nam sau khi loại đi yếu tố trượt giá đã gần về 0, thấp kỷ lục trong nhiều năm nay.   Sức cầu giảm đi thấy rõ, thế nhưng lạm phát vẫn cao. Nếu tiếp tục hay thắt chặt tiền tệ  mạnh thêm có lẽ cái giá phải trả sẽ cao hơn cái được rất nhiều. Một số chuyên gia kinh tế nên cho rằng nên tăng dự trữ bắt buộc tiền đồng, nhưng   một số lại không cho rằng điều đó là đúng đắn lúc này. Trong 6 tháng đầu năm 2011 tín   dụng chỉ tăng dưới 6%, rất thấp với mức trung bình trong 10 năm qua là 12,7%. Hơn nữa   tín dụng tiền đồng chỉ tăng 2,7% trong 6 tháng. Lãi suất cho vay VND đang rất cao, việc   tăng dự trữ bắt buộc VND thực sự chưa nên bàn lúc này. Tuy nhiên tăng trưởng tín dụng   bằng USD lại là vấn đề đáng nói. Bất chấp việc tăng thêm 3% dự trữ bắt buộc của USD  trong nhiều tháng qua, lãi suất cho vay USD vẫn đang ở mức 6­7%, điều này dường như  khuyến khích doanh nghiệp vay USD. Việc này lại có thể tạo áp lực lên tỷ giá nếu quản  lý không tốt. Có lẽ  NHTW nên tiếp tục tăng mạnh dự  trữ  bắt buộc của USD để  kiểm   soát tín dụng USD và giảm tình trạng dolar hóa. Tuy nhiên mặt bằng lãi suất vẫn giữ rất   cao trong năm 2012 so với thời kì trước. 3.2  Chính sách tài khóa thắt chặt Thực hiện NQ 11/2011, ngành tài chính đã: ­  Điều chỉnh linh hoạt chính sách thuế, chính sách chi khác hạn chế  nhập khẩu,   khuyến khích xuất khẩu, kết hợp chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong việc rà soát,  15
  16. điều chỉnh tạo điều kiện thúc đẩy tái cơ  cấu kinh tế, hỗ  trợ  phát triển các ngành công  nghiệp phụ trợ, hạn chế nhập khẩu nguyên vật liệu. ­ Tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên ngoài lương của 9 tháng còn lại; không   cấp kinh phí cho những việc chưa thật sự cấp bách. ­ Rà soát toàn bộ  công trình, dự  án đầu tư  từ  ngân sách nhà nước và trái phiếu   Chính Phủ đã được bố trí năm 2011, xác định cụ thể các công trình cần ngừng, đình hoãn,  giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011; thu hồi hoặc điều chuyển các khoản bố trí nhưng   chưa cấp bách và không đúng mục tiêu. ­ Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5%GDP; kiểm tra, rà   soát lại đầu tư  của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, DNNN, loại bỏ  những   dự  án đầu tư  kém hiệu quả, dàn trải; không được  ứng trước vốn ngân sách, trái phiếu  Chính Phủ  của năm 2012; không kéo dài thực hiện các khoản vốn đầu tư  từ  ngân sách,   trái phiếu  Chính Phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi toàn bộ số vốn bố trí không đúng quy  định. Đến cuối tháng 6/2011, ngành tài chính đã cắt giảm tổng số tiền chi thường xuyên   là 3857,7 tỷ đồng, cắt giảm tổng số vốn đầu tư của các bộ, ngành, địa phương và các tập  đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước là 80550 nghìn tỷ đồng, bằng 9% tổng đầu tư xã hội   năm 2011. Giảm tỷ  trọng đầu tư  Nhà nước trong tổng đầu tư  xã hội xuống 34%, thực  hiện an sinh xã hội thông qua tăng lương 100.000 đồng trong doanh nghiệp từ  1/5/2011,   cắt 140 dự án, giảm tiến độ 133 dự án, chỉ tập trung vào dự án trọng điểm, có hiệu quả,   nhất là về xây dựng cơ bản… Tuy vậy, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì dường như  nỗ lực của ngành tài  chính trong cuộc chiến chống lạm phát hiện nay chưa thật sự quyết liệt và quyết tâm như  ngành ngân hàng. Một trong những nguyên nhân lạm phát của năm 2011 là do việc theo   đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế  trong thời gian qua, hiệu quả đầu tư  thì thấp, khi mà  còn tồn đọng hậu quả  của chính sách kích cầu với 10% GDP vào năm 2009 (1 tỷ  USD).  Ngành tài chính cũng là một trong các kênh thực hiện chính sách hỗ trợ kinh tế này thông   qua đầu tư  công, chi ngân sách (6 tháng đầu năm 2011, bội chi ngân sách là cao nhất so  với năm 2009 và 2010). Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ  biến thông tin của Bộ  Tài chính đối với công chúng dường như chưa kịp thời và công khai…  Có thể thấy việc cắt giảm đầu tư  công vẫn chưa được thực hiện như  mong đợi,   giữa con số được công bố và con số thực tế vẫn có một khoảng cách khá xa. Để chia sẻ  trách nhiệm với chính sách tiền tệ trong việc chữa căn bệnh Lạm phát, thì chính sách tài  chính thắt chặt cần phải thực hiện nghiêm túc, quyết liệt hơn và minh bạch hơn. Nếu   việc thắt chặt tài khóa được thực hiện tốt hơn sẽ giảm gánh nặng cho chính sách tiền tệ  trong việc làm giảm kỳ  vọng lạm phát và từ  đó giúp giảm mặt bằng lãi suất, giúp các  doanh nghiệp sản xuất kinh doanh “dễ thở” hơn, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.  Nếu không thực hiện được, lãi suất vẫn ở mức cao! 16
  17. Phân 4 ̀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ Dựa trên cơ sở phân tích những nguyên nhân dẫn tới tình trạng lạm phát cao ở Việt  Nam trong giai đoạn 2010 ­2011, một phân tích đã đưa ra một số  giải pháp nhằm khắc   phục tình trạng trên: Thứ nhất, đối với hoạt động chi tiêu công và độ độc lập của NHNN: ­  Xoá  bỏ   cơ   chế   bao cấp,  xin  cho,  ràng  buộc  ngân  sách  lỏng  lẻo  đối với  các  DNNN, từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động chi tiêu công. Tất nhiên, khu vực công là  khu vực cần có những  ưu tiên nhất định để  đảm bảo lợi ích xã hội, nhưng ưu tiên cũng  cần có mức độ  để  đảm bảo trách nhiệm của các DN trong hoạt động sản xuất kinh   doanh. ­ Minh bạch hoá, công khai hoá tình trạng sử dụng vốn, tình hình tài chính của các  DNNN. ­ Nâng cao tính độc lập của NHTW trong việc hoạch định chính sách tiền tệ, xác   định mức cung tiền cho nền kinh tế. Hơn nữa, chính sách tiền tệ nên ưu tiên mục tiêu rõ   ràng trong từng giai đoạn, không nên theo đuổi cùng lúc các mục tiêu mâu thuẫn với nhau,   cụ  thể  trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế  đã có dấu hiệu tăng trưởng quá nóng   nhiều năm liền, lạm phát tăng cao, thì nên ưu tiên hơn cho mục tiêu kiềm chế lạm phát và   để mục tiêu tăng trưởng lại phía sau. Thứ hai, đối với việc điều hành nền kinh tế của Nhà nước: ­ Đối với vấn đề tỷ giá, tỷ giá bình quân liên Ngân hàng nên được điều chỉnh một   cách linh hoạt ( như cách đã áp dụng từ tháng 2/2011) để tránh những cú sốc cho nền kinh   tế khi đột ngột phá giá.  ­ Việc điều hành giá điện, giá xăng dầu đòi hòi nhiều hơn sự thận trọng, không đề  cập đến lý do tăng giá có là hợp lý hay không, nhưng các lần điều chỉnh cần có một  khoảng cách nhất định về  mặt thời gian để  nền kinh tế  có thời gian đề  thích nghi, tránh   tình trạng tăng giá ồ ạt, đồng loạt như thời gian vừa qua, tạo sức ép đẩy lạm phát lên cao.  17
  18. KẾT LUÂN ̣ Lạm phát không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến mọi mặt  đời sống của xã hội. Xét nguyên nhân sâu xa trong những năm gần đây, lạm phát Việt  Nam luôn có sức ép tăng, và ở mức cao so với các nước trong khu vực, chủ yếu do cơ cấu   kinh tế chưa hợp lý, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao,   hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp làm tăng chi phí trung  gian, hiệu quả  sử  dụng vốn thấp (đặc biệt là khu vực nhà nước). Bên cạnh đó, độ  mở  của nền kinh tế là khá lớn làm cho sức đề kháng và khả năng thích  ứng với những biến   động của thị trường nước ngoài còn yếu… Từ các nhà làm chính sách, các nhà kinh tế trong và ngoài nước, đến các bà nội trợ,   lạm phát có lẽ là vấn đề đáng bàn nhất trong 4 năm trở lại đây. Và hậu quả mà nó để lại   cho nền kinh tế cứ dai dẵng như một căn bệnh nan y dù đã biết cách chữa trị nhưng vẫn   không thể nào chế ngự  nó. Kiềm chế lạm phát không phải là bài toán không có lời giải,  vấn đề là cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho   ngân sách nước nhà. Vì vậy, cần có đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp  và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và bình   tĩnh hơn. Các Bộ, các ban ngành từ  trung  ương đến địa phương cần làm hết sức mình,  bằng những kế hoạch cụ thể để  triển khai các chỉ đạo mà Thủ  tướng Chính phủ  đã ban  hành. Những kết quả tốt đẹp sẽ  đến với kinh tế  Việt Nam nếu chúng ta đoàn kết và có   quyết tâm cao theo một đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta. 18
  19. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị  Hường (2007),  Quan hệ  giữa tăng trưởng, lạm phát và việc làm.   Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, tổng quan đề tài cấp cơ sở, Viện Kinh tế   và Phát triển ­ Học viện Chính trị ­ Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 2. GS.TS. Nguyễn Kế  Tuấn. (2009).  Kinh tế  Việt Nam 2008, một số  vấn đề  về   điều hành kinh tế vĩ mô. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân. 3.  Nguyễn Văn Ngọc, Giáo trình kinh tế vĩ mô 4. TS Đinh Thế Hiển, Lạm phát 2011 và bài toán đầu tư 5.  TS Nguyễn Trọng Hoài, Ổn định lạm phát: Cái giá phải trả 6. Nghị quyết 11/NQ­CP của chính phủ 7. Các Website:   www.mof.gov.vn www.gso.gov.vn www.sbv.gov.vn www.imf.org www.Vnexpress.net  …….. 8. Một số tài liệu khác 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2